Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

đánh giá Hàm lượng kim loại nặng Cu, Pb, Zn trong nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.33 KB, 31 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học
Dựa trên các kiến thức về phân tích môi trường và các biện pháp quản lí, kỹ thuật
môi trường nhằm đánh giá hiện trạng, nguyên nhân gây ô nhiễm của nước sông và ảnh
hưởng của nó tới đất nông nghiệp của xã Kiêu Kỵ - cuối nguồn sông Cầu Bây, đồng thời
đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm.
2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ
ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của các quá trình trên đến chất
lượng môi trường Việt Nam thì rất đáng lo ngại. Đặc biệt là tình hình ô nhiễm nước sông
– nước tưới cho nông nghiệp và sinh hoạt của người dân tại các vùng nông thôn. Việc sử
dụng nước ô nhiễm làm nước tưới vừa là một giải pháp xử lý ô nhiễm nước hiệu quả
(phương pháp cánh đồng lọc, cánh đồng tưới trong xử lý vi sinh) vừa tiềm ẩn nhiều nguy
hiểm do trong nước này có chứa các kim loại nặng có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người
dân, ngoài ra còn có các hợp chất hữu cơ khó phân hủy cũng vô cùng độc hại. Các chất
độc này sẽ tích lũy trực tiếp trong các loại lương thực, thực phẩm và theo chuỗi thức ăn
sẽ tích lũy trong cơ thể người và gây hại đến sức khỏe nếu ăn phải. Nếu như các chất ô
nhiễm hữu cơ có thể tự phân hủy trong thời gian nhất định thì các kim loại nặng: Cd, Pb,
Zn, Mn, Cu, Fe… một khi đã được phóng thích ra ngoài môi trường thì sẽ tồn tại lâu dài.
Chúng tích tụ vào các mô sống qua chuỗi thức ăn và tiềm ẩn rủi ro tích luỹ trong cơ thể
con người theo cấp số nhân. Quá trình này bắt đầu với nồng độ rất thấp của KLN tồn tại
trong nước hoặc cặn lắng, sau đó được tích tụ nhanh trong các động vật và thực vật sống
trong nước. Tiếp đến là các động vật khác sử dụng các động và thực vật này làm thức ăn,
dẫn đến nồng độ các KLN được tích lũy trong cơ thể sinh vật trở nên cao hơn. Cuối cùng,
ở sinh vật cao nhất trong chuỗi thức ăn (thường là con người), nồng độ KLN sẽ đủ lớn để
gây độc. [3]
Sông Cầu Bây có thượng lưu bắt nguồn từ quận Long Biên và hạ lưu đổ ra hệ thống
Bắc Hưng Hải tại xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm. Sông Cầu Bây đã bị ô nhiễm nặng do hàng ngày
đang tiếp nhận một lượng lớn nước thải công nghiệp, sinh hoạt, nước rò rỉ bãi rác chưa xử
lý đạt tiêu chuẩn. Các vùng hoạt động nông nghiệp của xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm (cuối


nguồn sông Cầu Bây) hiện đang dùng nước tưới lấy từ sông Cầu Bây.
Cầu Bây là con sông đào, thượng lưu là hồ Kim Quan (phường Việt Hưng – Long
Biên), và hạ lưu đổ ra hệ thống sông Bắc Hưng Hải tại cửa xả Xuân Thụy ở xã Kiêu Kỵ -
Gia Lâm, có tổng chiều dài khoảng 13km. Sông Cầu Bây đang là nguồn cung cấp và nơi
thoát nước cho canh tác nông nghiệp ở một số phường, xã thuộc quận Long Biên và huyện
Gia Lâm. Tuy nhiên, sông Cầu Bây nay đã bị ô nhiễm nặng nề vì hàng ngày đang tiếp nhận
2
một lượng nước thải lớn chưa xử lý (khoảng 83.000m
3
/ngày nước thải sinh hoạt của các
khu vực dân cư Long Biên, Gia Lâm; 200m
3
/ngày nước rò rỉ bãi rác chưa xử lý đạt tiêu
chuẩn; 20.000 ÷ 25.000 m
3
/ngày nước thải công nghiệp chưa được kiểm soát tốt). Lượng
nước thải này ngày đang càng tăng dần, nhưng nguồn nước sông Cầu Bây vẫn được dùng
cho tưới tiêu của các vùng canh tác nông nghiệp quận Long Biên và Gia Lâm.
Bên cạnh đó, các chất ô nhiễm từ sông Cầu Bây còn có thể tác động đến môi trường
nước thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải (nơi tiếp nhận nước sông Cầu Bây). Hệ
thống thủy nông Bắc Hưng Hải là một hệ thống kênh, đập, trạm bơm, đê điều nhằm phục
vụ việc tưới tiêu và thoát ứng cho một vùng tứ giác được giới hạn bởi sông Hồng ở phía
Tây, sông Đuống ở phía Bắc, sông Thái Bình ở phía Đông, và sông Luộc ở phía Nam. Hệ
thống Bắc Hưng Hải có diện tích tự nhiên hơn 200.000ha với diện tích đất nông nghiệp
khoảng 110.000ha, dân số gần 3 triệu người, bao gồm phần đất đai toàn bộ tỉnh Hưng Yên
(10 huyện thị), 7 huyện thị của tỉnh Hải Dương, 3 huyện của tỉnh Bắc Ninh và 2 quận,
huyện của thành phố Hà Nội.
Như vậy, nước thải đổ vào sông Cầu Bây đã và đang gây ảnh hưởng tới một vùng
rộng lớn.
Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu hàm lượng tồn lưu một số kim loại nặng (Cu, Pb, Zn)

trong nước sông Cầu Bây và ảnh hưởng của nó đến đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ” là rất
cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong nước và trầm tích sông Cầu Bây
- Ảnh hưởng của nước sông Cầu Bây tới đất nông nghiệp của xã Kiêu Kỵ.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: thu thập các số liệu trong quá khứ về chất lượng nước,
đất sông Cầu Bây và xã Kiêu Kỵ.
- Phương pháp điều tra: điều tra thông tin về thực trạng ô nhiễm, nguyên nhân và hậu quả
do nước ô nhiễm mang lại cho chất lượng đất nông nghiêp.
- Phương pháp lấy mẫu và phân tích mẫu: tổ chức lấy và phân tích mẫu trong thời gian
thực hiện đề tài.
- Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng để biện luận kết quả đo đạc, phân tích thu được, so
sánh với QCVN 08-2008/BTNMT và ngưỡng sinh thái LEL.
3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1 Độc tính và ảnh hưởng của kim loại nặng (Cu, Pb, Zn) đến con người và môi
trường sinh thái
1.1.1 Tình hình ô nhiễm kim loại nặng tại Việt Nam
Kim loại nặng là những kim loại có phân tử lượng lớn hơn 52(g) bao gồm một số loại
như: As, Cd, Cr, Cu, Pb, Hg, Se, Zn… Chúng có nguồn gốc từ các nguồn nước thải trong
công nghiệp, nông nghiệp cũng như trong tự nhiên VD: cadimi có nguồn gốc từ chất thải
công nghiệp, trong chất thải khi khai thác quặng. Crôm trong mạ kim loại nước thải của
sản phẩm gốc crôm hay chì trong công nghiệp than, dầu mỏ. Thuỷ ngân trong chất thải
công nghiệp khai thác khoáng sản, thuốc trừ sâu.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ô nhiễm KLN còn rất hạn chế và đang phát triển trong
nhiều năm gần đây. Theo tác giả Trần Công Tấu và Trần Công Khánh (1998) khi nghiên
cứu KLN dạng tổng số đã chỉ ra 7 độc tố (Co, Cr, Fe, Mn, Ni, Pb, Zn) tập trung chủ yếu ở
2 loại đất là đất phù sa thuộc ĐBSH và ở đất ferralsols - tức đất feralit nâu đỏ phát triển
trên bazan - đây là hai loại đất có nguồn nước ngầm cũng rất phong phú. Acrisols có nguồn

gốc là đất xám bạc màu - một loại đất thoái hoá điển hình ở Tây Nguyên có hàm lượng các
KLN ít nhất. KLN dạng linh động có xu hướng tập trung ở đất phèn ĐBSCL. [15]
Bảng 1.2 Hàm lượng KLN ở tầng đất mặt trong một số loại đất ở Việt Nam
Đơn vị: mg/kg
Loại đất Dạng Pb Zn
Đất feralit phát triển trên đá
bazan
TS

9,0
<0,51
81,0
<0,51
Đất phù sa vùng ĐBSCL
TS

29,1
<0,51
36,2
1,1
Đất phù sa vùng ĐBSH
TS

37,1
0,29
86,7
0,6
Đất xám phát triển trên
Granit miền Trung
TS


9,3
<0,51
11,6
<0,51
Đất phèn
TS

23,4
<0,51
21,4
4,89
Nguồn [15].
Hàm lượng các nguyên tố KLN của nhiều loại đất khác nhau cũng được Hồ Thị Lam
4
Trà và Kazuhiko Egashira (2001) nghiên cứu. Kết quả thể hiện ở bảng 1.8 cho thấy, sự
khác nhau giữa hàm lượng KLN của các khu vực có thể do sự khác biệt giữa đá mẹ và mẫu
chất. Trong đá vôi có hàm lượng đồng (Cu) và kẽm (Zn) khá cao (106 mg/kg và 153
mg/kg) nhưng lại thấp ở đá cát (16 mg/kg và 32 mg/kg). Hàm lượng Pb ở mức trung bình
trong các loại đá và đất trên còn Cd lại có hàm lượng khá thấp [2].
Hầu hết các kim loại nặng như Pb, Hg, Cd, As, Cu, Zn, Fe, Cr, Co, Mn, Se, Mo tồn
tại trong nước ở dạng ion. Chúng phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là
từ các hoạt động công nghiệp.
Nguồn ô nhiễm kim loại nặng từ các hoạt động công nghiệp là hết sức phong phú:
công nghiệp hóa chất, khai khoáng, gia công và chế biến kim loại, công nghiệp pin và ắc
quy, công nghiệp thuộc da…Trong số các doanh nghiệp đã khảo sát, năm 2002, có tới 90%
số doanh nghiệp không đạt yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng dòng xả nước thải xả ra môi
trường. 73% số doanh nghiệp xả nước thải không đạt tiêu chuẩn, do không có các công
trình và thiết bị xử lý nước thải. Có 60% số công trình xử lý nước thải hoạt động vận hành
không đạt yêu cầu. Nước thải hiện thời chưa được phân loại. Trong tương lai gần, hệ thống

thoát nước của các thành phố sẽ được cải tạo nhiều hơn và việc sử dụng lại hệ thống thoát
chung là điều không tránh khỏi. Rất cần thiết nghiên cứu, cụ thể hóa các phương án cải tạo
các hệ thống chung trở thành các hệ thống thoát nước nửa riêng, chọn ra các phương án cải
tạo, chia tách nước thải hợp lý nhất.
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, con người đã làm tăng đáng kể các nguyên tố
KLN trong đất. Các loại thuốc bảo vệ thực vật thường có chứa các KLN như As, Pb, Hg.
Các loại phân bón hoá học đặc biệt là phân phốtpho thường chứa nhiều As, Cd, Pb. Các
loại bùn nước thải cũng là nguồn có chứa nhiều các KLN khác như As, Pb, Cd, Bi, Hg,
Zn.
Khi phân tích 6 kim loại nặng (Cd, Cu, Pb, Hg, Zn, Cr) từ 126 mẫu đất trồng lúa bị
ô nhiễm bởi nước tưới từ các kênh thoát nước của TP Hồ Chí Minh, Nguyễn Ngọc
Quỳnh, Lê Huy Bá và các cộng sự (2001) đã chỉ ra rằng: Cr, Pb, Hg, Cu ở một số mẫu đã
bị ô nhiễm nhưng khi so sánh với tiêu chuẩn cho phép của một số nước châu Âu thì
chúng vẫn trong giới hạn cho phép. Còn Zn lạ rất cao, đặc biệt là các khu vực gần nhà
máy và khu công nghiệp. Cd đã có sự tích luỹ cao trong đất với nồng độ từ 9,9 – 10,3
mg/kg, vượt quá 5 lần mức độ cho phép. [8]
Theo tác giả Hồ Thị Lam Trà và Kazuhiko Egashira (2001) khi nghiên cứu hàm
lượng một số KLN trong đất nông nghiệp tại huyện Từ Liêm và Thanh Trì - Hà Nội cho
thấy: Hàm lượng các KLN dao động trong khoảng sau: 0,16 – 0,36 mgCd/kg; 40,1 – 73,2
mgCu/kg; 31,9 – 85,3 mgPb/kg; 98,2 – 137,2 mgZn/kg. Nói chung đất nông nghiệp của
hai huyện Từ Liêm và Thanh Trì chưa bị ô nhiễm KLN (theo TCCP – 1995), trừ đồng
(Cu). Tại vùng đất chuyên rau của Tây Tựu – Từ Liêm hàm lượng đồng (Cu) đã cao hơn
từ 20 - 30 mg/kg so với đất khác (73,2 mgCu/kg). Nguyên nhân của hiện tượng này có
5
thể do người dân sử dụng nhiều phân hoá học có chứa đồng (Cu) trong quá trình trồng
rau. [2]
1.1.2 Độc tính của kim loại nặng (Cu, Pb, Zn) đối với con người và môi trường sinh
thái
Kim loại nặng đều có những tác hại nhất định như As có thể gây ung thư, Cd có thể
gây ra huyết áp cao, đau thận phá huỷ các mô và tế bào máu, chì rất độc ảnh hưởng tới

thận và thần kinh hay thuỷ ngân là một kim loại rất độc. Các kim loại này khi thải vào
nước làm cho nước bị nhiễm bẩn mất đi một số tính chất hoá lý đặc biệt cũng như những
tính chất và thành phần thay đổi làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khoẻ
con người. Việc nhận biết nước bị ô nhiễm có thể căn cứ vào trạng thái hoá học, vật lý,
hoá lý, sinh học của nước. Ví dụ như khi nước bị ô nhiễm sẽ có mùi khó chịu, vị không
bình thường, màu không trong suốt, số lượng cá và các thuỷ sinh vật khác giảm cỏ dại
phát triển, nhiều mùn, hoặc có váng dầu mỡ trên mặt nước. Số lượng ngày càng tăng của
kim loại nặng trong môi trường là nguyên nhân gây nhiễm độc đối với đất, không khí và
nước. Việc loại trừ các thành phần chứa kim loại nặng độc ra khỏi các nguồn nước, đặc
biệt là nước thải công nghiệp là mục tiêu môi trường quan trọng bậc nhất phải giải quyết
hiện nay.
Khi hàm lượng kim loại nặng trong nước trên mức cho phép chúng sẽ gây những
ảnh hưởng có hại đến sức khoẻ con người một số gây bệnh ung thư, thần kinh, cũng như
các bộ phận khác vì vậy chúng ta cần biết tác hại của nó mà tìm cách phòng tránh. Nước
bị ô nhiễm kim loại nặng sẽ có những tác hại đến động thực vật, sức khoẻ con người.
+ Kim loại Cu: hàm lượng Cu dư thừa trong đất không được vượt quá 20 – 30
mg/kg. Vì ở hàm lượng này sẽ không an toàn cho động vật ăn cỏ như cừu và gia súc, khi
mức độ Mo của đất trong khoảng 2 – 5 mg/kg và pH ≥ 6. Tuy nhiên, nếu thú ăn cỏ trực
tiếp trên đồng sẽ hấp thụ gấp 10 lần lượng Cu trong đất đi vào cỏ. Nước từ giếng và các
nguồn sông suối khác phục vụ cho tiêu dùng của con người thì phải luôn luôn ở dưới
1mg/kg Cu. Đó là nền tảng trong việc xem xét mùi vị nước. Bởi vì, sự ô nhiễm Cu trong
nước gây mùi đặc trưng. Hầu như có mức quy định khác nhau về tiêu chuẩn cho phép
đồng trong nước uống ở các nước khác nhau.
Hàng ngày, lượng Cu lấy vào cơ thể luôn vượt quá lượng Cu cho phép (yêu cầu là 2
mg/ngày). Trong căn bệnh wilson’s mà nguyên nhân là Cu tích lũy trong gan, khi nó bắt
đầu nhiễm sâu vào cơ thể, sẽ xuất hiện bất lợi cho mô hạch nên cần chữa sớm ngay khi
mới bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên biểu hiện lâm sàng luôn không xuất hiện trước 5 năm.
Bệnh wilson’s là bệnh hiếm và có thể hạn chế và ngăn ngừa bằng thuốc chữa bệnh. Với
hầu hết bệnh nhân, phương pháp vi lượng có thể ngăn cản sự tích lũy quá mức của Cu.
+ Kim loại Pb: Chì được hấp thụ bởi thực vật và từ đó làm ô nhiễm dây chuyền thực

phẩm. Khả năng methyl hóa sinh học của các hợp chất chì vô cơ thành chì methyl
Pb(CH
3
)
4
làm tăng khả năng ô nhiễm chì qua dây chuyền thực phẩm. Thêm vào đó, Pb là
6
kim loại có khả năng tích lũy cao. Do đó, những sinh vật sản xuất có khả năng hấp thụ
chì, dù chỉ một lượng nhỏ, qua dây chuyền thực phẩm, chì sẽ tích tụ dần dần và đến một
lúc nào đó sẽ trở thành chất độc không những với sinh vật tiêu thụ mà ngay cả với sinh
vật sản xuất.
Con người hấp thụ chì một cách gián tiếp thông qua dây chuyền thực phẩm hoặc
trực tiếp bằng nhiều con đường: qua đường hô hấp, qua da, hoặc trực tiếp hấp thụ bằng
đường tiêu hóa. Chì tồn tại và tích lũy trong cơ thể con người, đến một lượng nào đó sẽ
trở thành chất độc gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Một số dạng nhiễm độc
chì được biết đến là: nhiễm độc mãn tính, nhiễm độc cấp tính. Nhiễm độc chì thường làm
rối loạn trí óc, nhẹ thì nhức đầu, co giật, có thể dẫn đến động kinh, hôn mê, thậm chí tử
vong. Độc chất chì còn làm viêm thận, thấp khớp do chì. Cơn đau bụng chì là biểu hiện
của sự nhễm độc nghiêm trọng: đau bụng kèm với buồn nôn. Chì còn tích lũy dần dần
trong xương và làm tổn hại nghiêm trọng các cơ quan này. Nhiễm độc chì mãn tĩnh là
một trong những nguyên nhân gây ung thư.
+ Kim loại Zn: khác với hai kim loại Cu, Pb, Zn được coi là nguyên tố rất cần thiết
cho con người và động thực vật. Quá trình sinh trưởng, phát triển của động thực vật cần
một lượng khá lớn kim loại Zn. Liều lượng thích hợp trong ăn uống của người lớn là
15mg/ngày. Zn đóng vai trò là chất kiến tạo enzim, chất xúc tác cho các quá trình đồng
hóa năng lượng, trong biến đổi các chất. Nếu thiếu Zn con người và động vật sẽ có các
biểu hiện: biếng ăn, kém phát triển, tổn thương về da và không phát triển giới tính. Đó là
lý do, hàm lượng Zn trong các quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng, hàm lượng Zn rất cao,
cao hơn rất nhiều lần so với các kim loại nặng khác. Tuy nhiên, nếu hàm lượng quá cao
sẽ gây tác dụng ngược với cơ thể. Ví dụ như ở thực vật, hàm lượng Zn cần thiết của từng

loại thực vật phụ thuộc vào nhiệt độ, đất, loại gen. Nhìn một cách khái quát, mức độ xuất
hiện Zn và sự phân loại các mô hình lá trưởng thành có thể đưa ra như sau:
- Thiếu: hàm lượng Zn nhỏ hơn 10 – 20 mg/kg
- Đủ: giữa 25 – 150 mg/kg
- Thừa: lớn hơn 400 mg/kg sẽ gây độc
Nguồn: [4]
Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu hàm lượng kim loại Zn trong nước tưới cũng như
đất trồng để đánh giá chất lượng và đưa ra giải pháp nếu hàm lượng vượt quá mức.
1.2 Ô nhiễm sông do kim loại nặng ở Hà Nội
Hà Nội là thành phố đô thị loại đặc biệt với 7 triệu dân, là trung tâm văn hóa chính
trị giáo dục của nước ta. Với vị trí địa lý thuận lợi là nơi có nhiều con sông chảy qua như
7
sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ, sông Nhuệ. Ngoài ra còn có hệ thống
kênh rạch dày đặc với số lượng sông ngòi, ao, hồ là 360. Nhưng trong những năm gần
đây, tình hình ô nhiễm nguồn nước ở thành phố Hà Nội đang diễn ra rất nghiêm trọng.
Nhiều sông hồ, kênh rạch bị ô nhiễm ở mức độ rất cao (sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu )
thấp nhất là ở mức trung bình, mà nguyên nhân chủ yếu là do trực tiếp nhận các nguồn
nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp chưa qua xử lý. Tình trạng ô nhiễm các chất
dinh dưỡng như amoni, nitrat, nitrit, photphat, ô nhiễm kim loại nặng như Cu, Pb, Zn,
Fe trong môi trường nước xảy ra khá phổ biến.
Theo thống kê tại Hà Nội, tổng lượng nước thải sinh hoạt đạt khoảng 450.000
m
3
/ngày đêm; nước thải từ các cơ sở sản xuất và dịch vụ 260.000 m
3
/ngày đêm. Hiện nay,
các sông nội thành đã bị ô nhiễm, đặc biệt là các sông như Kim Ngưu, Tô Lịch không
còn khả năng tự làm sạch, không đạt tiêu chuẩn cho phép loại B (TCVN 5942 – 1995: áp
đụng đối với nước mặt) [13] do bị ô nhiễm hữu cơ (Kiều Minh, 2006) [19]. Theo những
nghiên cứu gần đây, ở các khu vực trong Hà Nội, nhiều đoạn sông, kênh rạch, nước đã bị

nhiễm bẩn vượt quá tiêu chuẩn cho phép, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và
các hệ sinh thái nước ngọt: nước các sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu, sông Nhuệ
rất bẩn, màu sẫm, mùi thối tanh, các thông số lý hóa, hàm lượng các kim loại nặng vượt
nhiều lần so với tiêu chuẩn nước dùng trong nông nghiệp Việt Nam.
Theo kết quả phân tích trong nước sông Nhuệ trong báo cáo luận văn thạc sỹ của
Nguyễn Viết Thành (2012) [7]: năm 2011 - 2012 một số điểm mẫu nước tại sông Nhuệ đã
có hàm lượng kim loại nặng Cu, Pb, Zn vượt quá tiêu chuẩn cho phép đối với chất lượng
nước mặt cột A2 – QCVN 08:2008/BTNMT [10]. Điểm WS2 (Phú Diễn): 1,213 mgZn/l
vượt 1,213 lần; điểm WS5 (Thanh Liệt): 0,328 mgCu/l vượt 1,64 lần; 0,045mgPb/l vượt
2,25 lần.
1.3 Ô nhiễm đất nông nghiệp do kim loại nặng ở Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả nước với cơ
sở hạ tầng, chất lượng cuộc sống của người dân cao hơn bình quân cả nước nhiều lần.
Tuy nhiên vấn đề phát sinh song song đó là ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường
không khí, ô nhiễm môi trường nước, kéo theo ô nhiễm môi trường đất và sinh vật. Như
ở phần 1.1 đề cập tới tình trạng ô nhiễm nước sông tại Hà Nội là rất nghiêm trọng thì kéo
theo tình trạng ô nhiễm đất cũng đang rất đáng lo ngại. Đặc biệt chú ý tới các quỹ đất
nông nghiệp nhỏ bé tại Hà Nội nhưng lại có vai trò quan trọng và chịu tác động trực tiếp
của ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nông sản và sức khỏe người
dân.
Diện tích đất nông nghiệp của Hà Nội (cũ) còn không nhiều, tuy nhiên hiện nay một
diện tích đáng kể vẫn đang bị bỏ hoang hóa, cỏ mọc. Nguyên nhân một phần là do sự quy
hoạch của thành phố phụ vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa,
nhưng một phần quan trọng là do đất nông nghiệp bị ô nhiễm nghiêm trọng, bị ngập úng
nên không thể canh tác được.
8
Ngoài các ảnh hưởng về ngập úng, ô nhiễm đất do kim loại nặng, do chất độc hữu
cơ cũng góp phần lớn vào hiện trạng đất nông nghiệp không khai thác hết, chất lượng
nông sản kém, sâu bệnh, năng suất thấp dẫn đến bỏ hoang hóa ruộng đất tại Hà Nội. Theo
điều tra nghiên cứu, đất nông nghiệp ở Hà Nội đang thoái hóa mạnh: chứa hàm lượng rất

cao các kim loại nặng, các chất độc hữu cơ,… Nguyên nhân là do hoạt động kinh tế, xã
hội tại địa phương đang diễn ra mạnh mẽ. Các chất thải, nước thải độc hại từ các nhà
máy, khu công nghiệp, khu chế xuất chưa qua xử lý hoặc xử lý qua loa đã đổ thải trực
tiếp ra hệ thống sông, nước thải, rác thải sinh hoạt, nước thải, rác thải bệnh viện, nước
mưa chảy tràn cũng được đổ ra sông, nước sông lại là nguồn nước tưới cho nông nghiệp
nên đất nông nghiệp đang bị ô nhiễm nặng nề. Dễ dạng nhận thấy hình ảnh nước sông
đen kịt, bốc mùi hôi thối, khó chịu và những ngày mùa kiệt tại các sông tại Hà Nội. Đất
bị ô nhiễm, nước tưới cũng ô nhiễm dẫn tới hậu quả là ảnh hưởng đến chất lượng nông
sản tại các khu vực nông nghiệp. Thực trạng đang rất đáng lo ngại tại Hà Nội hiện nay là
người nông dân đang phải lấy nước giếng khoan (nước ngầm) để làm nước tưới cho cây
trồng. Nguyên nhân là do, nước sông vốn là nguồn nước tưới cho cây trồng trước đây,
tuy nhiện thời gian gần đây, nước tại các sông của Hà Nội như: sông Nhuệ, sông Cầu
Bây bị ô nhiễm nghiêm trọng dẫn đến cây trồng của bà con bị chết, bị sâu bệnh, kém chất
lượng có nguy cơ ảnh hưởng đến thương hiệu của một số nông sản như: ổi, rau, đu đủ…
Chính vì vậy, giải pháp được các nhà chuyên môn đưa ra là khoan giếng lấy nước tưới
cho cây trồng. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là giải pháp mang tính tạm thời bởi quỹ nước
ngầm có hạn, chi phí khoan giếng cao, nước mặt ô nhiễm thì chắc chắn sẽ có ngày nước
ngầm cũng bị ô nhiễm. Vì vậy, cần phải có biện pháp dài hạn, hoàn chỉnh hơn nữa đối
với nước sông và đất nông nghiệp tại Hà Nội.
1.4 Đặc điểm khu vực nghiên cứu
1.4.1 Đặc điểm tự nhiên – xã hội
+ Về tự nhiên
Sông Cầu Bây là con sông đào, thượng lưu là hồ Kim Quan (phường Việt Hưng –
Long Biên), và hạ lưu đổ ra hệ thống sông Bắc Hưng Hải tại cửa xả Xuân Thụy ở xã Kiêu
Kỵ, Gia Lâm có tổng chiều dài khoảng 13km. Sông Cầu Bây đang là nguồn cung cấp và
nơi thoát nước cho canh tác nông nghiệp ở một số phường, xã thuộc quận Long Biên và
huyện Gia Lâm. Tuy nhiên, sông Cầu Bây nay đã bị ô nhiễm nặng nề vì hàng ngày đang
tiếp nhận một lượng nước thải lớn chưa xử lý (khoảng 83.000m
3
/ngày nước thải sinh hoạt

của các khu vực dân cư Long Biên, Gia Lâm; 200 m
3
/ngày nước rò rỉ bãi rác chưa xử lý đạt
tiêu chuẩn; 20.000 ÷ 25.000 m
3
/ngày nước thải công nghiệp chưa được kiểm soát tốt).
Lượng nước thải này ngày đang càng tăng dần, nhưng nguồn nước sông Cầu Bây vẫn được
dùng cho tưới tiêu của các vùng canh tác nông nghiệp quận Long Biên và Gia Lâm.
Bên cạnh đó, các chất ô nhiễm từ sông Cầu Bây còn có thể tác động đến môi trường
nước thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải (nơi tiếp nhận nước sông Cầu Bây). Hệ
9
thống thủy nông Bắc Hưng Hải là một hệ thống kênh, đập, trạm bơm, đê điều nhằm phục
vụ việc tưới tiêu và thoát ứng cho một vùng tứ giác được giới hạn bởi sông Hồng ở phía
Tây, sông Đuống ở phía Bắc, sông Thái Bình ở phía Đông, và sông Luộc ở phía Nam. Hệ
thống Bắc Hưng Hải có diện tích tự nhiên hơn 200.000ha với diện tích đất nông nghiệp
khoảng 110.000ha, dân số gần 3 triệu người, bao gồm phần đất đai toàn bộ tỉnh Hưng Yên
(10 huyện thị), 7 huyện thị của tỉnh Hải Dương, 3 huyện của tỉnh Bắc Ninh và 2 quận,
huyện của thành phố Hà Nội. Như vậy, nước thải đổ vào sông Cầu Bây đã và đang gây
ảnh hưởng tới một vùng rộng lớn.
+ Về kinh tế - xã hội
Sông Cầu Bây là hệ thống thủy lợi chính của địa phận quận Long Biên và huyện Gia
Lâm, Hà Nội bắt nguồn từ khu đô thị Việt Hưng, quận Long Biên và cuối nguồn nối với
hệ thống sông Bắc Hưng Hải tại xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm. Quận Long Biên và Huyện
Gia Lâm có khoảng hơn 40 vạn dân với diện tích lên tới gần 175km
2
(17+18). Dân cư khu
vực này chủ yếu là dân tộc kinh, với trình độ văn hóa, mức thu nhập và chất lượng cuộc
sống vào loại cao so với cả nước. Kinh tế của khu vực có tỷ trọng chủ yếu nghiêng về
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
cơ cấu kinh tế và tập trung tại huyện Gia Lâm. Trên địa bàn có rất nhiều các công trình

giao thông lớn: đường 5, đường Vành Đai 3…, các khu công nghiệp, khu đô thị, trung
tâm thương mại nổi tiếng.
1.4.2 Hiện trạng nước sông Cầu Bây
Theo báo cáo khảo sát nước sông Cầu Bây của Bộ Tài nguyên môi trường, sông Cầu
Bây đang trong tình trạng ô nhiễm nặng, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống của
nhân dân trong khu vực. Hiện trạng cấp thoát nước thải ra sông còn có rất nhiều bất cập.
Tại quận Long Biên và huyện Gia Lâm, việc thoát nước thực hiện thông qua các cống,
rãnh, kênh, mương thủy lợi… Việc thu gom nước mưa, nước thải được thực hiện thông
qua các mương, đường cống, rãnh trên đường phố, ngõ xóm… Nhìn một cách tổng thể,
hệ thống thoát nước của khu vực hiện nay được tổ chức như sau:
Nước từ
hộ gia
đình, khu
dân cư, cơ
sở sản xuất
nhỏ
(ML cấp3 )
Tiểu lưu vực
thoát nước A
Kênh
mương
Sông
ML cấp 3
ML cấp 2
10
Nguồn: [13]
Hệ thống thoát nước hiện có của khu vực này là hệ thống thoát nước chung cho cả
các loại nước thải và nước mưa, hầu hết mang tính tự phát, đơn lẻ, không đồng bộ. Một
số tuyến đường đang xây dựng đã triển khai theo hệ thống thoát nước riêng hoàn toàn
nhưng hầu hết chỉ mới đầu tư xây dựng các tuyến cống thoát nước mưa nên nước thải

chưa được xử lý và vẫn đổ chung vào hệ thống cống thoát nước mưa. Hiện trạng thoát
nước của khu vực cụ thể được mô tả tóm tắt trong các đặc điểm chính và sơ đồ dưới đây:
• Trên tất cả các khu dân cư, đô thị cũ của nội thị hệ thống thoát nước là các cống
chung được xây dựng trong các ngõ, nghách xả nước thải và nước mưa ra ao, hồ hoặc các
cống chính đặt trên các tuyến đường lớn.
• Các khu vực đô thị mới phát triển hoặc dân cư bên cạnh các tuyến đường mới xây
dựng, hệ thống thoát nước là hệ thống riêng nhưng không hoàn toàn vì tuyến cống nước
thải cuối cùng lại được đổ vào tuyến cống chính thoát nước mưa trên các tuyến đường.
Tại khu đô thị mới Việt Hưng – phường Việt Hưng – Quận Long Biên, đã được xây dựng
hệ thống thu gom nước thải bao gồm: Hệ thống kênh dẫn nước kè đá có chiều rộng lòng
kênh khoảng 10 – 15 m; Hệ thống cống hộp BTCT kích thước 2 cống 2.0 x 2.0 m và các
tuyến cống tròn BTCT thu gom từ các tiểu khu… tất cả được xả vào kênh dẫn nước và xả
ra sông Cầu Bây.
• Các khu dân cư tập trung của ngoại thị (làng, xóm) có hệ thống thoát nước chung
là các mương, rãnh được xây dựng trong các ngõ xóm thoát nước mưa, nước thải vào các
ao, hồ và mương tưới tiêu cho các cánh đồng. Đôi khi là các mương thủy lợi được cải tạo
thành các mương dẫn nước thải trong quá trình đô thị hóa.
• Bên cạnh đó trên địa bàn còn có các khu công nghiệp và nhà máy lớn như: KCN
Sài Đồng A, B; KCN Đài Tư; Nhà máy Bia Việt Đức nước thải từ các KCN này chưa
được xử lý hoặc xử lý chưa triệt để được đổ thẳng vào sông Cầu Bây.
• Tại bãi chôn lấp rác Kiêu Kỵ, nước rỉ rác được xả ra kênh dẫn nước thải và xả
thẳng vào sông Cầu Bây.
• Nguồn tiếp nhận chính là sông Cầu Bây, tiếp nhận nước thải và nước mưa xả
chung vào.
Tiểu lưu vực
thoát nước B
Nguồn ếp nhậnMạng lưới cấp 1Mạng lưới cấp 2,3
Khu dân cư
đô thị cũ,
làng xóm

(Cống chung)
Cống
chính
trên
đường
mới; ao,
hồ,
mương
tưới
Eêu
Nước thải, nước mưa
Sông
Cầu Bây
(Cống riêng)Nước mưa
Nước thải
(Hệ thống thoát nước chung)
Nước thải, nước mưa
11
Nguồn: [13]
Sơ đồ thoát nước hiện trạng của khu vực quận Long Biên và huyện Gia Lâm
(Hệ thống thoát nước chung thuộc lưu vực sông Cầu Bây)
Trong đó, riêng khu công nghiệp Sài Đồng, Công ty TNHH MTV Hanel - Chủ đầu tư
KCN Sài Đồng B là một trong những thủ phạm chính gây ô nhiễm nước sông Cầu Bây.
- Nước thải: khoảng 1.500 m
3
/ngày phát sinh từ các cơ sở do các cơ sở tự thu gom,
xử lý sau đó thải ra hệ thống thoát nước mặt của KCN và xả ra sông Cầu Bây qua 2 cửa
xả; hiện tại KCN chưa có trạm xử lý nước thải tập trung, chưa có hệ thống thu gom tách
nước thải và nước mưa riêng biệt. Theo Quyết định phê duyệt Đề án Bảo vệ môi trường
đối với hoạt động đầu tư quản lý hạ tầng của KCN Sài Đồng B, nước thải sau khi xử lý

phải đạt QCVN 24: 2009/BTNMT cột B trước khi xả thải ra ngoài môi trường.
- Khí và bụi thải: chủ yếu phát sinh từ quá trình đốt nhiên liệu, gia công bề mặt kim
loại và sơn các sản phẩm, bụi sơn, bụi kim loại từ các cơ sở hoạt động trong KCN do
các cơ sở tự thu gom, xử lý.
- Chất thải rắn và chất thải nguy hại (CTNH): chất thải rắn sinh hoạt khoảng 8,5
tấn, chất thải rắn công nghiệp thông thường khoảng 25,3 tấn và CTNH khoảng 1,1
tấn/ngày được các cơ sở tự thu gom, xử lý.
Kết quả phân tích mẫu nước thải tại cống xả thải ra môi trường của KCN, so sánh với
QCVN 24: 2009/BTNMT [10] cột B với Kq = 0,9 và Kf = 1,1 có các thông số: Tổng Nitơ =
30,80mg/l vượt 1,1 lần, Coliform = 9300MPN/100ml vượt 1,9 lần. Nguồn: [13]
1.4.3 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp tại xã Kiêu Kỵ
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, tốc độ đô
thị hóa diễn ra mạnh mẽ, quỹ đất nông nghiệp ngày càng giảm, đó là thách thức lớn đặt ra
cho ngành nông nghiệp cũng như vùng nông thôn. Đặc biệt tại các vùng nông thôn ngoại
thành các đô thị lớn như Hà Nội thì thách thức này càng trở nên khó khăn và việc giải
quyết vấn đề càng cần thiết hơn nhiều lần.
Khu dân cư
đô thị mới
phát triển
12
Kiêu Kỵ là một xã nằm ở hạ lưu sông Cầu Bây với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp khá phát triển với một số làng nghề truyền thống: sơn son thếp vàng,
thuộc da,… Cây trồng nông nghiệp chính là lúa, và rau mầu, cây giống… Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, do thay đổi cơ cấu kinh tế định hướng công nghiệp hóa, sự mở
rộng đô thị Hà Nội, và nhu cầu thị trường, ngành nông nghiệp cũng thay đổi theo đó. Các
loại cây trồng truyền thống có giá trị kinh tế thấp được thay thế bằng các giống cây mới,
năng suất, chất lượng cao, nhu cầu thị trường lớn: cây ăn quả (đu đủ, ổi, táo,…), cây
giống (cây keo, cây bóng mát, cây cảnh…),… Như thế, tình hình sử dụng đất nông
nghiệp cũng thay đổi. Càng ngày, diện tích đất nông nghiệp bị bỏ hoang hóa cho cỏ mọc
ngày càng tăng. Người dân không còn thiết tha với việc trồng lúa. Diện tích cấy lúa 2 vụ

nay chỉ sử dụng cấy 1 vụ rất nhiều. Theo điều tra của nhóm nghiên cứu, hiện trạng sử
dụng đất nông nghiệp của Kiêu Kỵ hiện rất thấp. Diện tích sử dụng để canh tác chỉ vào
khoảng 70% còn lại là bỏ hoang hóa. Trong 70% đất sử dụng trong nông nghiệp thì cấy
lúa chiếm 50%, trồng cây ăn quả, rau và cây giống, cây cảnh chiếm 50%. Nguyên nhân là
do tình trạng thu đất nông nghiệp làm đất dự án khá nhiều khiến cho diện tích đất của bà
con ngày càng nhỏ, nguồn nước tưới tiêu duy nhất cho đồng ruộng là sông Cầu Bây
những năm trở lại đây bị ô nhiễm nặng nề.
Nước sông Cầu Bây bị ô nhiễm nghiêm trọng do các hoạt đông sản xuất của các khu
công nghiệp, rác thải, nước thải sinh hoạt của người dân hai bên bờ khiến cho nước sông
trở nên hôi thối, đen ngòm. Không chỉ có vậy, sử dụng nước sông làm nước tưới còn
khiến các cây trồng bị chết, bị bệnh, thiệt hại về năng suất và chất lượng nghiêm trọng,
trong đất tích tụ các chất độc hại khó có khả năng phục hồi. Khi con người tiếp xúc với
nước sông bị ghẻ lở, ngứa ngáy, nổi mẩn đỏ… Chính vì vậy, diện tích đất nông nghiệp bị
bỏ hoang tại Kiêu Kỵ ngày càng gia tăng.
CHƯƠNG II. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nước và trầm tích trên sông Cầu Bây và đất nông nghiệp sử
dụng nước sông Cầu Bây làm nước tưới.
2.1.1 Vị trí lấy mẫu nước và trầm tích sông Cầu Bây
Các mẫu nước được lấy tại các vị trí tiếp nhận các nguồn thải khác nhau.
13
Mẫu đất được lấy trên các khu vực sử dụng trực tiếp nước tưới của sông Cầu Bây:
đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ.
Các mẫu nước, mẫu đất được lấy trong thời gian tháng 03/2013. 04 mẫu nước và 01
mẫu đất được mô tả ở các vị trí lấy mẫu đưa ra ở bảng 2.1 và bảng 2.2
Bảng 2.1. Mô tả vị trí lấy mẫu nước sông Cầu Bây
Thứ tự
mẫu
Kí hiệu mẫu Mô tả vị trí lấy mẫu
1 M1

Điểm xả thải khu đô thị Việt Hưng ra sông Cầu Bây
– Long Biên – Hà Nội
2 M2 Gần cống nước thải khu công nghiệp Đài Tư ra sông
Cầu Bây - Gia Lâm – Hà Nội
3 M3 Sông Cầu Bây tại xã Đa Tốn - Gia Lâm – Hà Nội
4 M4
Con mương nhỏ dẫn nước từ sông khu dân cư xã
Xuân Thụy ra sông Cầu bây gần bãi rác Kiêu Kỵ -
Gia Lâm – Hà Nội
(Các điểm lấy mẫu đại diện về không gian cho khu vực nghiên cứu)
14
Hình 2.1 Sơ đồ lấy mẫu nước và trầm tích sông Cầu Bây
Sông Cầu Bây có chiều dài hơn 13km, tuy nhiên vì điều kiện hạn hẹp của bài nghiên
cứu, nên nhóm chỉ lấy 4 mẫu thí nghiệm tại 4 vị trí có các nguồn thải quan trọng, dự đoán
là nguồn xả thải chính, góp phần lớn vào sự ô nhiễm sông Cầu Bây.
M1: điểm xả thải khu đô thị Việt Hưng ra sông Cầu Bây, tại khu vực này là điểm xả
thải tập trung của khu đô thị ra sông Cây Bây, nước thải chủ yếu là nước thải do công
trình đang làm, nước thải sinh hoạt còn khá ít do chưa có nhiều hộ gia đình ở khu đô thị
này. Tuy nhiên, nước mẫu lấy tại điểm này có màu đen, đậm đặc, mùi hôi thôi, lưu lượng
nước nhỏ nên đánh giá qua cảm quan là mẫu nước đậm đặc.
M2: Gần cống nước thải khu công nghiệp Đài Tư xả ra sông Cầu Bây. Gần vị trí lấy
mẫu có rất nhiều nguồn thải, các nguồn thải chủ yếu là: nước thải khu công nghiệp, nước
thải từ chợ (chợ May 10), nước thải sinh hoạt của người dân hai bên bờ sông trong khu
vực,…
M3: Sông Cầu Bây tại xã Đa Tốn, Gia Lâm. Khu vực lấy mẫu là khúc sông khá
rộng, tuy nhiên nước sông ô nhiễm, có mùi hôi thối, có nhiều ruồi muỗi, tuy nhiên nước
15
không còn màu đen như hai mẫu phía trên mà có màu khá tự nhiên, nổi váng. Các nguồn
thải chủ yếu là nước thải và rác thải sinh hoạt của người dân hai bên bờ.
M4: Con mương nhỏ dẫn nước từ sông khu dân cư xã Xuân Thụy ra sông Cầu bây

gần bãi rác Kiêu Kỵ. Khu vực lấy mẫu, nước có màu hơi vàng, khá trong, có mùi khó
chịu. Nguồn thải chủ yếu là nước thải sinh hoạt, chăn nuôi, rác thải của người dân khu
vực đó.
2.1.2 Vị trí lấy mẫu đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ
Bảng 2.2. Mô tả vị trí lấy mẫu đất tại xã Kiêu Kỵ
Thứ tự
mẫu
Kí hiệu mẫu Mô tả vị trí lấy mẫu
1 MĐ1 Vị trí gần bãi rác Kiêu Kỵ nhất (cách bãi rác khoảng
50m)
2 MĐ2
Lấy tại ruộng đang trồng lúa gần trạm bơm nước từ
sông Cầu Bây vào cánh đồng xã Kiêu Kỵ
3 MĐ3
Lấy tại 1 ruộng đất bỏ hoang cỏ mọc, cách bãi rác
khoảng 100m
(các điểm lấy mẫu đại diện về không gian cho khu vực nghiên cứu)
16
Hình 2.2 Sơ đồ lấy mẫu đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ
2.2 Ô nhiễm kim loại nặng trong nước sông Cầu Bây
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lấy mẫu và phân tích trong phòng thí nghiệm phân
tích môi trường và có kết quả như sau:
Bảng 2.3: Kết quả phân tích một số kim loại nặng trong nước sông Cầu Bây
Đơn vị: mg/L
Chỉ tiêu M1 M2 M3 M4
Cu 0.59 0.29 0.56 0.66
Zn 0.21 0.10 0.22 0.29
17
2.3.1 Hàm lượng kim loại đồng (Cu) trong nước sông Cầu Bây
Hình 2.3 Hàm lượng kim loại Cu trong nước sông Cầu Bây

Qua kết quả được thể hiện trong hình 2.3, nhận thấy rằng hàm lượng kim loại
đồng trong các mẫu nước tại sông Cầu Bây có sự khác nhau giữa các điểm lấy mẫu. Thời
điểm lấy mẫu là ngày 20/03/2013, là vào mùa khô ở miền Bắc nên dòng sông cạn, lưu
lượng nước thấp. Do đó nồng độ các kim loại trong nước có thể tăng so với mùa mưa.
Đánh giá theo không gian , hàm lượng đồng cao ở đầu nguồn, điểm xả thải của khu
đô thị Việt Hưng là 0.59 mg/l và hàm lượng đồng giảm mạnh xuống còn 0.29 mg/l ở tại
khu công nghiệp Đài Tư. Giá trị này là 0.56 mg/l, có xu hướng tăng lên khi dòng sông
chảy qua khu vực xã Đa Tốn và đạt giá trị cao nhất là 0.66 mg/l tại cuối nguồn là con
mương nhỏ dẫn nước từ sông Cầu bây vào cánh đồng xã Kiêu Kỵ, gần cống Kim Quan.
Từ đó nhận diện được các điểm phát thải chất ô nhiễm.
Tuy nhiên, tất cả các điểm lấy mẫu phân tích đều có hàm lượng kim loại Cu vượt
tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Có duy nhất mẫu số 2 là dưới tiêu chuẩn B1, còn lại 3
mẫu 1,3,4 đều không đảm bảo tiêu chuẩn B1 (B1 - Dùng cho mục đích tưới tiêu thủy lợi
hoặc các mục đích sử dụng khác có yêu cầu chất lượng nước tương tự hoặc các mục đích
sử dụng như loại B2). Điểm đáng chú ý là mẫu 2, mẫu lấy tại điểm khu công nghiệp Đài
Tư lại có hàm lượng Cu thấp nhất trong 4 mẫu. Nguyên nhân là do vào thời điểm lấy
mẫu, nước sông Cầu Bây tại điểm khu công nghiệp Đài Tư đang có sự pha trộn giữa
nước thải trực tiếp và nước đã qua hệ thống xử lý của khu công nghiệp. Mặc dù nước qua
xử lý của khu công nghiệp có lưu lượng khá ít (khoảng 500m
3
/ ngày) nhưng trong điều
kiện nước sông cạn thì có ý nghĩa khá lớn trong việc pha loãng, điều này khiến cho hàm
lượng Cu khá thấp so với 3 mẫu còn lại. Đối với mẫu 1 được lấy tại khu đô thị Việt
Hưng, mẫu 2 được lấy tại xã Đa Tốn có hàm lượng cao hơn do tại đây là nước sông tiếp
nhận nước thải sinh hoạt, rác thải sinh hoạt có hàm lượng kim loại Cu cao. Riêng mẫu 4
được lấy tại con mương nhỏ dẫn nước từ sông Cầu Bây vào cánh đồng xã Kiêu Kỵ, gần
cống Kim Quan có hàm lượng kim loại Cu cao nhất. Nguyên nhân là do con mương này
vừa dẫn thải sinh hoạt từ khu dân cư ra sông Cầu Bây, nước tại đây có màu hơi vàng, có
mùi hôi thối, có rất nhiều rác thải, nước thải từ khu dân cư, đặc biệt do vị trí khá gần bãi
rác Kiêu Kỵ nên có thể hàm lượng Cu cao cũng một phần là do bãi rác. Như vậy, có thể

thấy, hàm lượng kim loại Cu trong nước sông tăng dần theo khi về hạ lưu.
2.2.2. Hàm lượng kim loại chì (Pb) trong nước sông Cầu Bây
Hình 2.4 Hàm lượng kim loại chì (Pb) trong nước sông Cầu Bây
18
Từ hình 2.4 có thể thấy, hàm lượng Pb trong nước sông Cầu Bây tại tất cả các mẫu
đều đã vượt quá quy chuẩn cho phép A1 khá lớn. Hàm lượng kim loại cũng có sự thay
đổi rõ rệt theo không gian, tức là giảm dần về phía cuối nguồn. Mẫu M1 có hàm lượng
kim loại cao nhất là 0.042 mg/l, cao hơn mức A1, A2 0.022mg/l tức là cao gấp hơn 2 lần
nhưng chưa vượt qua tiêu chuẩn A3, A4. Mà mức A2 được quy định trong QCVN 08-
2008/BTNMT [10] là nước dùng cho nước cấp sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ
xử lý phù hợp, bảo tồn động vật thủy sinh, hoặc các mục đích sử dụng như tưới tiêu, giao
thông thủy, Mẫu M4 có giá trị hàm lượng kim loại Pb thấp nhất là 0.021 mg/l cũng
vượt mức A2 0.001 mg/l. Như vậy có thể nói, hàm lượng kim loại Pb trong nước sông
Cầu Bây đang tồn lưu khá lớn và đã gây ô nhiễm, một số điểm lấy mẫu đã ô nhiễm
nghiêm trọng. Đặc biệt, do đặc tính gây độc cao hơn Cu và Zn nên rất cần thiết có những
biện pháp xử lý nhanh chóng, hiệu quả hàm lượng Pb trong nước sông Cầu Bây.
2.2.3. Hàm lượng kim loại kẽm (Zn) trong nước sông Cầu Bây
Hình 2.5 Hàm lượng kim loại kẽm (Zn) trong nước sông Cầu Bây (đv. mg/L)
Qua kết quả được trình bày trong biểu đồ 2.5, nhận thấy rằng hàm lượng kẽm trong
các mẫu nước sông Cầu Bây đạt tiêu chuẩn A1 (nhỏ hơn 0.5 mg/l).Như vậy nước sông
Cầu Bây không bị ô nhiễm do kim loại kẽm. Tuy nhiên, biểu đồ hình 2.5 cũng cho thấy,
hàm lượng kim loại Zn thay đổi trong sông theo không gian tức là tăng dần về cuối
nguồn sông. Đặc biệt, mẫu 2 có hàm lượng Zn thấp nhất là 0.1 mg/l. Nguyên nhân là do
điểm này là điểm xả thải của khu công nghiệp Đài Tư, thời điểm lấy mẫu là thời điểm
khu công nghiệp đang vận hành hệ thống xử lý nước thải. Mặc dù khối lượng nước thải
được xử lý khá nhỏ(500 m
3
/ngày) nhưng cũng có ý nghĩa rất lớn đến chất lượng nước
sông gần khu vực này do sự pha loãng. Mẫu 4 có hàm lượng kim loại Zn cao đột biến so
với 3 mẫu còn lại (0.29mg/l). Cũng như kim loại Cu, tác nhân chủ yếu gây ra hàm lượng

kim loại Zn cao trong mẫu 4 là do nguồn thải sinh hoạt và do nước thải từ bãi rác Kiêu
Kỵ. Mẫu 1 có hàm lượng Zn khá cao (0.21mg/l) mặc dù chưa vượt tiêu chuẩn nhưng
nguyên nhân có thể do khu vực lấy mẫu là khu đô thị mới, chưa có nhiều hộ gia đình ở
nhưng do nước thải từ quá trình xây dựng, vật liệu xây dựng, và do thời điểm lấy mẫu,
nước sông có lưu lượng dòng chảy nhỏ, nước khá đặc, đen ngòm, mùi hôi thối khó chịu.
Có thể thấy, hàm lượng kim loại Zn trong nước sông Cầu Bây còn khá nhỏ nhưng rất
đáng báo động. Nếu không có các biện pháp xử lý, quản lý chất thải phù hợp thì hàm
lượng Zn sẽ tăng cao và vượt tiêu chuẩn trong thời gian sớm.
2.3 Ô nhiễm kim loại nặng trong trầm tích của sông Cầu Bây
Trầm tích là một đối tượng chịu tác động trực tiếp của các chất ô nhiễm trong nước
sông. Vì vậy, để đánh giá mức độ ô nhiễm của sông Cầu Bây một cách tổng quát nhất thì
phải đánh giá cả mức độ ô nhiễm tích tụ trong trầm tích cũng như ảnh hưởng đến hệ sinh
thái trầm tích. Hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích được so sánh với QCVN 43 –
19
2012/ BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng trầm tích [12] và ngưỡng sinh
thái LEL.
Ngưỡng sinh thái có thể được mô tả như là điểm mà tại đó sự thay đổi tương đối nhỏ
trong điều kiện bên ngoài gây ra một sự thay đổi nhanh chóng trong một hệ sinh thái. Khi
một ngưỡng sinh thái đã được thông qua, các hệ sinh thái có thể không còn có thể trở về
trạng thái của nó. Các xâm phạm ngưỡng sinh thái thường dẫn đến sự thay đổi nhanh
chóng của hệ sinh thái.
Có một số định nghĩa cho khái niệm ngưỡng sinh thái. Đặc điểm chung của hầu hết
các định nghĩa là phi tuyến tính của các câu trả lời trong các hệ thống sinh thái, sinh học
để áp lực gây ra bởi hoạt động của con người hoặc quá trình tự nhiên.
Groffman và những người khác xác định ngưỡng sinh thái như các điểm mà tại đó
có một thay đổi đột ngột trong một chất lượng hệ sinh thái, tài sản hoặc hiện tượng, hoặc
các thay đổi nhỏ trong một trình điều khiển môi trường sản xuất phản ứng lớn trong hệ
sinh thái. Trên một mức độ chung, ngưỡng sinh thái là những điểm phá vỡ các hệ sinh
thái mà ở đó những áp lực dẫn đến những thay đổi đột ngột trong hệ sinh thái.
Ngưỡng có thể được mô tả như là điểm như khu vực. Ngưỡng vùng kiểu hàm ý một

sự thay đổi dần dần hoặc chuyển đổi từ một tiểu bang khác chứ không phải là một sự
thay đổi đột ngột tại một điểm cụ thể. Ngưỡng sinh thái đã gây sự chú ý bởi vì nhiều
trường hợp thảm họa ngày càng xấu đi của tình hình đã được chứng minh là khó khăn và
gần như không thể biện pháp khắc phục (còn gọi là điểm không trở lại). Tuyệt chủng sinh
thái là một ví dụ của một điểm dứt khoát không trở lại.
Ngưỡng sinh thái LEL (Lowest effect level) là ngưỡng sinh thái được đưa ra bởi
Persaud et al (1993) [ 1], là ngưỡng mà có những ảnh hưởng ở mức độ thấp nhất gây ra
những biến đổi trong hệ sinh thái đất và trầm tích.
2.3.1. Hàm lượng kim loại đồng (Cu) trong trầm tích của sông Cầu Bây
2.3.1.1 So sánh hàm lượng Cu trong trầm tích với QCVN
Hình 2.6 Hàm lượng Cu trong trầm tích sông Cầu Bây so sánh với QCVN
Hàm lượng kim loại Cu trong trầm tích sông Cầu Bây còn thấp so với quy chuẩn Việt
Nam. Tại bốn điểm lấy mẫu thì hàm lượng Cu chỉ đạt một nửa so với mức quy chuẩn cho
phép. Mẫu M1 tại khu đô thị Việt Hưng là 56.8 mg/kg, hàm lượng này khá thấp so với
20
quy chuẩn. Do đây là nơi không có hoạt động công nghiệp xả thải, chỉ có quá trình xây
dựng khu đô thị (đào xới đất xây nhà, các vật liệu xây dựng như cát, đá, sắt thép ) đã
đưa vào nguồn nước hàm lượng đồng đáng kể theo thời gian tích tụ trong trầm tích. Mẫu
M2 tại khu công nghiệp Đài tư có hàm lượng đồng là 85.3 mg/kg. Khu công nghiệp này
có rất nhiều các nhà máy sản xuất gang thép, cơ khí chế tạo, nên hàm lượng Cu trong
trầm tích tăng rất nhanh. Tuy nhiên kết quả này vẫn nằm trong giới hạn tiêu chuẩn vì tại
khu công nghiệp này có nhà máy xử lý nước thải. Mặc dù tải lượng của nhà máy không
lớn nhưng đã góp phần giảm đáng kể hàm lượng kim loại đồng. Mẫu 3 tại xã Đa Tốn Gia
Lâm là 94.3 mg/kg. Đây là khu vực không có hoạt động xả thải trực tiếp của khu công
nghiệp hay làng nghề nhưng hàm lượng Cu lại lớn nhất. Theo đánh giá của nhóm thì do
địa hình dòng chảy của sông Cầu Bây, kim loại Cu dọc từ đầu nguồn được tích tụ và lắng
đọng xuống phía cuối nguồn và tại đây có lưu vực sông lớn nhất nên khả năng tích tụ là
cao nhất. Mẫu M4, gần bãi rác xã Kiêu Kỵ là 55.2 mg/kg. Tại điểm lấy mẫu này, do vị trí
nằm cách xa khu đô thị, khu công nghiệp và lưu vực sông cũng nhỏ dần nên hàm lượng
đồng giảm xuống nhanh.

2.3.1.2 So sánh hàm lượng Cu trong trầm tích với ngưỡng sinh thái LEL
Hạn chế của QCVN là các thông số chỉ mới đánh giá chung chung về sư ô nhiễm mà
chưa phản ánh cụ thể được sự ảnh hưởng của hàm lượng chất ô nhiễm đến quá trình sinh
trưởng và phát triển của các sinh vật song hệ sinh thái liên quan. Vì vậy, nhóm nghiên
cứu so sánh với ngưỡng sinh thái LEL nhằm đánh giá được ảnh hưởng của hàm lượng
các kim loại nặng nghiên cứu đến các sinh vật sống trong môi trường đất và trầm tích.
Hình 2.7 So sánh hàm lượng Cu trong trầm tích sông Cầu Bây với ngưỡng sinh
thái LEL
So sánh hàm lượng Cu trong trầm tích của sông Cầu Bây với ngưỡng sinh thái LEL
cho thấy: tuy hàm lượng Cu ở đây vẫn đạt quy chuẩn Việt Nam nhưng lại vượt ngưỡng
sinh thái rất nhiều lần. Nếu ngưỡng sinh thái cho phép hàm lượng kim loại đồng là 16
mg/ kg thì kết quả phân tích ở bốn mẫu phân tích đều cao hơn cụ thể là: mẫu M1là 56.8
mg/kg, mẫu M2 là 85.3 mg/kg, mẫu M3 là 94.3 mg/kg và mẫu M4 là 55.2 mg/kg. Qua đó
có thể thấy tuy vẫn nằm trong giới hạn cho phép theo quy chuẩn Việt Nam nhưng hàm
lượng Cu tích tụ trong trầm tích đã có tác động rất lớn đến môi trường sinh thái. Các tác
động vô hình đó không chỉ làm chết, làm giảm lượng các vi sinh vật trong trầm tích ,
nước mà theo khuếch đại sinh học, kim loại đồng sẽ tích tụ và khuếch đại lên gấp nhiều
lần và gây hại cho sinh vật, theo dây chuyền chuỗi thức ăn sẽ làm ảnh hưỡng đến sức
khỏe con người. Vì vậy, cần có kế hoạch giảm thiểu và hạn chế hàm lượng kim loại Cu
trong trầm tích trước khi nó có xu hướng tăng cao.
21
2.3.2. Hàm lượng kim loại chì (Pb) trong trầm tích của sông Cầu Bây
2.3.2.1 So sánh hàm lượng Pb trong trầm tích với QCVN
Chì là một kim loại nặng có độc tính cao không chỉ tồn tại trong đất, nước mà còn có sẵn
hoặc tích tụ trong trầm tích. Qua biểu đồ hình 2.10, cho thấy hàm lượng kim loại chì
trong trầm tích vẫn nằm trong giới hạn cho phép của quy chuẩn Việt Nam. Với kết quả
phân tích : mẫu M1 có hàm lượng Pb là 39.2 mg/kg. Do vị trí lấy mẫu M1 là đầu nguồn
và là nơi tiếp nhận nước thải của khu đô thị Việt Hưng ( đang xây dựng) nên hàm lượng
chì ở đây khá thấp. Nguồn thải chủ yếu có thể là do quá trình xây dựng ( đào xới đất, vật
liệu xây dựng như sắt thép, cát, đá, ). Mẫu M2 được lấy tại khu công nghiệp Đài Tư có

hàm lượng Pb là 63.7 mg/kg. Khu công nghiệp Đài Tư là cụm công nghiệp với rất nhiều
công ty sản xuất, chế tạo gang thép, cơ khí, các chất hóa học, nên khả năng nước thải
chứa nhiều kim loại nặng, đặc biệt là Pb . Mặc dù có nhà máy xử lý nước thải đang vận
hành nhưng do quy mô nhà máy nhỏ, hoạt động cầm chừng nên không xử lý được triệt để
toàn bộ nước thải. Mẫu M3, tại xã Đa Tốn, do đặc điểm nằm xa nguồn thải và lưu lượng
nước sông ở đây là lớn nhất nên hàm lượng chì bị pha loãng và giảm xuống còn 58.5
mg/kg. Mẫu M4, gần bãi rác xã Kiêu Kỵ có hàm lượng chì là 54.4 mg/kg. Do cách xa
nguồn thải nên hàm lượng chì giảm nhưng lại có tác nhân là bãi rác xã Kiêu Kỵ nên hàm
lượng chì giảm không đáng kể. Nhìn chung, hàm lượng kim loại Pb thay đổi theo không
gian, tức là giảm dần về hạ lưu sông. Nguyên nhân là do các điểm xả thải chính tập trung
trên đầu nguồn, càng về cuối sông hàm lượng kim loại Pb càng giảm, ngoài ra, chiều dài
sông Cầu Bây chỉ đạt khoảng 13km, là khá ngắn, độ dài dòng chảy ngắn cũng khiến cho
các vật chất không kịp lắng đọng xuống trầm tích. Đó cũng là nguyên nhân khiến hàm
lượng kim loại nặng nói chung và kim loại Pb nói riêng trong trầm tích sông Cầu Bây khá
thấp so với quy chuẩn Việt Nam.
Hình 2.8 So sánh hàm lượng Pb trong trầm tích sông Cầu Bây với QCVN
2.3.2.2 So sánh hàm lượng Pb trong trầm tích với ngưỡng sinh thái LEL
Hình 2.9 So sánh hàm lượng Pb trong trầm tích sông Cầu Bây với ngưỡng sinh
thái LEL
Cũng giống như đồng, hàm lượng chì trong trầm tích của sông Cầu Bây đã vượt
ngưỡng sinh thái. Hàm lượng chì biến động theo vị trí dòng chảy từ đầu nguồn đến cuối
nguồn, theo nguồn xả thải dọc theo hai bên bờ và theo lưu lượng nước sông lớn hay nhỏ.
Mặc dù vẫn đạt tiêu chuẩn Việt Nam nhưng hàm lượng chì nằm ngoài giá trị cho phép là
31 mg/kg theo ngưỡng sinh thái LEL. Điều đó cho thấy độ nhạy của yếu tố sinh thái với
các chất độc hại. Nó đã gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái, tác động tiêu cực tới sinh vật.
Theo khuếch đại sinh học cũng sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Nếu không có
22
biện pháp xử lý, ngăn chặn thì tác hại mà nó gây ra là rất lớn và theo chiều hướng phức
tạp.
2.3.3. Hàm lượng kim loại chì (Zn) trong trầm tích của sông Cầu Bây

2.3.3.1 So sánh hàm lượng Zn trong trầm tích với QCVN
Hình 2.10 So sánh hàm lượng kim loại Zn trong trầm tích sông Cầu Bây với QCVN
Khác với hai kim loại Cu và Pb, hàm lượng kim loại Zn trong trầm tích sông Cầu Bây
trong bốn mẫu đều vượt quá quy chuẩn 43 – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
trầm tích. Nguyên nhân là do kim loại Zn khá phổ biến trong cuộc sống hằng ngày từ
công nghiệp, nông nghiệp đến sinh hoạt, cũng như có hàm lượng tích lũy trong tự nhiên
khá cao. Hàm lượng Zn thay đổi theo không gian. Tại vị trí khu đô thị Việt Hưng có hàm
lượng thấp nhất là 490 mg/kg, cao hơn QCVN 220 mg/kg. Cao thứ hai là mẫu M4 gần
cống Xuân Thụy với hàm lượng đạt 758 mg/kg. Tiếp đến là mẫu M2 tại khu công nghiệp
Đài Tư có hàm lương Zn trong trầm tích là 1449 mg/kg, cao hơn QCVN hơn 5 lần. Riêng
mẫu M3, có hàm lượng Zn cao đột biến: 3600 mg/kg. Nguồn thải chủ yếu của khu vực
này là nước thải, rác thải của người dân, cũng có thể do tại đây, dòng sông uốn khúc nên
Zn lắng đọng nhiều, cũng có thể do hàm lượng Zn tích tụ tự nhiên tại khu vực này ban
đầu đã cao. Có thể nói, hàm lượng kim loại Zn trong trầm tích sông Cầu Bây đã vượt quy
chuẩn cho phép tức là đã ô nhiễm, vì vậy cần có những biện pháp phù hợp để khắc phục
tình trạng ô nhiễm này.
2.3.3.2 So sánh hàm lượng Zn trong trầm tích với ngưỡng sinh thái LEL
23
Hình 2.11 So sánh hàm lượng kim loại Zn trong trầm tích sông Cầu Bây với
ngưỡng sinh thái LEL
Từ hình 2. Cho thấy, hàm lượng kim loại Zn vượt mức rất nhiều lần mức cho phép
của ngưỡng sinh thái LEL. Điều đó chứng tỏ hệ sinh thái trầm tích đã bị ảnh hưởng khá
lớn bởi sự ô nhiễm kim loại Zn. Mặc dù kim loại Zn là kim loại có tính độc thấp hơn hai
kim loại Cu và Pb thậm chí còn là một kim loại cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển
bình thường của sinh vật, nhưng nếu tích tụ ở hàm lượng cao như vậy sẽ gây ảnh hưởng
ngược trở lại hoặc có thể là nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng ô nhiễm môi trường
khác. Vì vậy, cần khẩn trương nghiên cứu các biện pháp phù hợp để xử lý nhanh chóng,
kịp thời sự ô nhiễm hiện tại.
2.4 Hàm lượng kim loại nặng trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ
Sông Cầu Bây là nguồn nước tưới chính cho đất nông nghiệp trên toàn khu vực, đặc biệt

là đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ - hạ du sông. Phần trên đã nghiên cứu sự ô nhiễm kim loại
nặng trong nước tưới và trầm tích sông Cầu Bây hiện đã bắt đầu có những biều hiện của
sự ô nhiễm so với QCVN. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu hàm lượng tồn lưu kim loại
nặng trong đât nông nghiệp xã Kiêu Kỵ. Đất nông nghiệp được lấy mẫu và thí nghiệm tại
Tổng cục đo lường chất lượng quốc gia, phòng thí nghiệm Quatest 1, và số liệu được so
sánh liệu QCVN 03 – 2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn cho phép
kim loại nặng trong đất [8], ngưỡng sinh thái LEL.
2.4.1 Hàm lượng kim loại nặng Cu, Pb, Zn trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ trên 3
mẫu.
Hình 2.12 Hàm lượng kim loại nặng Cu, Pb, Zn trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ
trên 3 mẫu.
Từ biểu đồ có thể thấy, hàm lượng các kim loại nặng trong đất nông nghiệp xã
Kiêu Kỵ thay đổi theo vị trí lấy mẫu khá rõ nét. Theo thứ tự, mẫu MĐ1 là vị trí gần bãi
rác Kiêu Kỵ nhất (cách bãi rác khoảng 50m), đất mẫu là đất trên một ruộng trồng cây đu
đủ Đài Loan, đất cố định khoảng 3 đến 5 tháng, nước tưới được lấy vào ruộng là nước
sông Cầu Bây được bơm lên con mương nhỏ đầu ruộng. Mẫu MĐ2 được lấy tại ruộng
đang trồng lúa gần trạm bơm nước từ sông Cầu Bây vào cánh đồng xã Kiêu Kỵ. Hàm
lượng Zn tại mẫu này là 127mg/kg, hàm lượng Pb là 18.95, hàm lượng Cu là 16.6, đều
chưa vượt ngưỡng cho phép của QCVN, tuy nhiên nó cũng thể hiện sự tích lũy khá cao
hàm lượng kim loại nặng cũng như đặc trưng ô nhiễm của nguồn nước tiếp nhận. Những
thửa ruộng này thường xuyên dùng nước sông Cầu Bây làm nước tưới, tuy nhiên, theo
phản ánh của bà con thì nhiều năm trở lại đây, nước sông Cầu Bây đen ngòm, có mùi hôi
24
thối, tiếp xúc với da thì bị ngứa, dị ứng, và từ đó, năng suất lúa giảm hẳn, có nhiều sâu
bệnh, bà con phải chăm bón rất nhiều phân bón, dùng nhiều loại thuốc trừ sâu bệnh hơn
trước kia rất nhiều để đảm bảo năng suất. Từ đó có thể thấy, hàm lượng kim loại tích tụ
trong mẫu này do hai nguyên nhân chính là nguồn nước tưới ô nhiễm và do hoạt động
bón phân, dùng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp
Mẫu MĐ3, được lấy tại 1 ruộng đất bỏ hoang cỏ mọc, cách bãi rác khoảng 100m. Hàm
lượng kim loại Zn, Pb ở mẫu này có giá trị thấp nhất trong 3 mẫu và lần lượt là: 122

mg/kg, 13.2 mg/kg. Có thể do ruộng đất này đã bị bỏ hoang từ lâu (cỏ mọc đây kín
ruộng) các quá trình sinh, lý hóa xảy ra mạnh mẽ trong thời gian dài, không được lấy
nước tưới vào ruộng, và khoảng cách xa bãi rác nên hàm lượng tích tụ các kim loại nặng
nhỏ nhất trong 3 mẫu.
Tuy nhiên, vì khoảng cách về số liệu không quá nhiều, khoảng cánh giữa các vị trí lấy
mẫu kkhas nhỏ, hạn chế về độ dài bài báo cáo và mục đích nghiên cứu của nhóm hướng
đến sự tổng quát, toàn diện nên chúng tôi xử lý số liệu bằng cách lấy số trung bình làm
mẫu trộn để so sánh với QCVN và ngưỡng sinh thái LEL.
2.4.2 So sánh hàm lượng kim loại nặng khi trộn mẫu trong đất nông nghiệp xã Kiêu
Kỵ với QCVN 03 – 2008/BTNMT
Hình 2.13 Hàm lượng kim loại Cu, Pb, Zn trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ
Từ hình 2.6 có thể thấy rằng, hàm lượng các kim loại nặng chủ yếu: Cu, Pb, Zn
trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ đã tích tụ khá lớn, tuy nhiên hàm lượng vẫn chưa vượt
quá giới hạn cho phép theo quy chuẩn Việt Nam. Hàm lượng Zn còn nhỏ hơn quy chuẩn
73mg/kg, hàm lượng Pb nhỏ hơn quy chuẩn 51.05 mg/kg, hàm lượng Cu nhỏ hơn quy
chuẩn 33.4 mg/kg. Nguyên nhân là do đất là nguồn tiếp nhận cuối cùng các chất ô nhiễm,
do hàm lượng các kim loại nặng trong nước cũng còn khá thấp nên hàm lượng tích tụ
trong đất còn khá nhỏ. Hơn nữa, các quá trình biến đổi sinh, lý, hóa trong đất nhờ các vi
sinh vật diễn ra mạnh mẽ cũng là nguyên nhân khiến hàm lượng kim loại nặng nhỏ. Mẫu
đất được lấy theo phương pháp lấy mẫu trộn, các điểm lấy mẫu gồm 1 mẫu tại đất nông
nghiệp bỏ hoang, cỏ mọc; 1 mẫu là ruộng trồng đu đủ Đài Loan – giống cây ăn quả mới;
1 mẫu là tại ruộng đang cấy lúa. Như vậy có thể thấy, 2/3 mẫu là khu đất ổn định trong
thời gian dài, các quá trình sinh, lý, hóa xảy ra mạnh mẽ, đó có thể cũng là nguyên nhân
khiến hàm lượng kim loại nặng trong đất nông nghiệp khá nhỏ. Tuy nhiên, số liệu cho
thấy có sự tích tụ kim loại nặng trong đất, điêu này sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng hệ
sinh thái đất cũng như hệ sinh thái trên mặt đất.
2.4.3 So sánh hàm lượng kim loại nặng trong đất nông nghiệp xã Kiêu Kỵ với
ngưỡng sinh thái LEL
25
Hình 2.14 So sánh hàm lượng kim loại nặng Cu, Pb, Zn trong đất với ngưỡng sinh

thái LEL
Từ hình 2.7 có thể thấy, hàm lượng các kim loại nặng Cu, Zn đã vượt ngưỡng sinh
thái LEL. Hàm lượng kim loại Cu vượt 0.6 mg/kg, hàm lượng kim loại Zn vượt ngưỡng 7
mg/kg. Riêng kim loại Pb vẫn còn thấp hơn ngưỡng LEL. Như vậy có thể thấy, hàm
lượng các kim loại nặng vẫn còn khá nhỏ, hai kim loại Cu, Zn đã vượt ngưỡng tức là đã
gây ảnh hưởng ít nhất đối với sinh vật trong hệ sinh thái đất, Pb chưa gây ảnh hưởng đến
hệ sinh thái. Tuy nhiên, mặc dù mức độ ảnh hưởng còn rất nhỏ, nhưng nếu không có
những biện pháp quan trắc thường xuyên và có các biện pháp giảm thiểu sự phát thải thì
hàm lượng các kim loại sẽ tăng cao và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sinh vật
trong hệ sinh thái mà không thể kiểm soát được.
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU
3.1 Giải pháp quản lý
- Việt Nam đã có luật bảo vệ môi trường từ lâu nhưng hệ thống các văn bản luật còn
có nhiều bất cập, phương thức thực hiện luật còn trải qua nhiều khâu chồng chéo, mức độ
các chế tài xử phạt còn rất thấp và chưa cụ thể khiến hiệu quả chưa cao. Vì vậy cần tổ
chức thực hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của
Nhà nước về bảo vệ môi trường cảnh quan và khai thác bền vững lưu vực.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất các cơ sở sản xuất kinh doanh
đặc biệt là các khu công nghiệp, các công ty lớn trong khu vực, phát hiện kịp thời các cơ
sở không thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, vi phạm các cam kết trong báo
cáo đánh giá tác động môi trường, Bản cam kết bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm các vi
phạm theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư và đẩy mạnh xã hội hóa công tác
bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên trên toàn lưu vực sông.
- Tổ chức quan trắc thường xuyên chất lượng nước sông và chất lượng đất nông
nghiệp xã Kiêu Kỵ nhằm phát hiện kịp thời sự ô nhiễm cũng như những vi phạm về bảo vệ
môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
3.1.1 Quan trắc ô nhiễm môi trường do hoạt động công nghiệp
Hiện tại, sông Cầu Bây đang phải gánh chịu sự xả thải của các khu công nghiệp trọng
điểm của vùng: khu công nghiệp Đài Tư, khu công nghiệp Sài Đồng A, Khu công nghiệp

×