I. Mở đầu
Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, cách mạng nước ta chuyến sang giai
đoạn mới đó là cả nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là sự lựa chọn đúng đắn hay sai lệch? Vì sao không đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa mà kiên định theo chủ nghĩa xã hội? Trên cơ sở vận dụng và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành công và thất bại của chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những năm đầu tiến hành đổi mới, tiếp thu
chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh đã tổng kết hơn 60 năm quá trình cách mạng Việt
Nam, rút ra 5 bài học lớn, phân tích bối cảnh quốc tế trong nước; phác hoạ ra mô hình
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời đã phác hoạ ra con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tế trong những năm đổi mới, những thành tựu về kinh tế, chính trị, khoa học
xã hội đã chứng minh về sự lựa chọn của nhân dân ta, của đảng ta là đúng đắn và
khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu khách quan.
II. Nội dung
2.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
2.1.1. Khái niệm
Chủ nghĩa xã hội là cách mạng do giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn xã
hội tiến hành, dưới sự lãnh đạo của chính Đảng cộng sản, nhằm thực hiện bước chuyền từ
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi những
điều kiện vật chất và tinh thần cho sự thay thế đó đã được chuẩn bị, và khi đã hình thành
tình thế cách mạng chín muồi.
- Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cao trào đấu tranh chính trị
của quần chúng nhân dân, do Đảng cộn sản lãnh đạo, tiến hành lật đổ chế độ xã hội cũ,
giành lấy chính quyền. Chính quyền là mục tiêu chính trị cơ bản của CM, do đó, việc
chính quyền nhà nước chuyển từ tay giai cấp thống trị sang giai cấp công nhân và các lực
lượng liên minh là dấu hiệu cách mạng đã hoàn thành.
1
- Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ cải biến xh lâu dài, bắt đầu từ
khi gccn và nhân dân lao động tiến hành đấu tranh giành lấy chính quyền cho đến khi
hoàn thành việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Ở
đây, giành chính quyền mới chính là tiền đề chính trị để gccn thực hiện sự cải tạo xã hội
toàn diện và triệt để cho đến khi xã hội mới xã hộ chủ nghĩa được xây dựng xong hoàn
toàn.
2.1.2. Nguyên nhân và điều kiện của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên nhân:
Tất cả các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra trong lịch sử đều bắt nguồn từ
nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất đều bắt nguồn từ nhu cầu giải phóng llsx khỏi sự
kìm hãm của quan hệ sản xuất lỗi thời. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất biểu hiện ở tình trạng xung đột
giữa tính chất xã hội của lực lượng sản xuất với hệ thống quan hệ sở hữu tư bản chủ
nghĩa, làm cho đấu tranh giai cấp luôn diễn ra ở những hính thức và mức độ khác nhau,
mâu thuẫn trên đòi hỏi được giải quyết bằng tiến hành cách mạng xã hội, phá bỏ quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp, tiến bộ hơn.
Như vậy, nguyên nhân mâu thuẫn kt là nguyên nhân sâu xa, cơ bản nhất của cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Tất nhiên mâu thuẫn kinh tế phải dẫn đến mâu thuẫn chính trị, xã
hội mới dẫn đến chủ nghĩa xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
- Điều kiện:
+ Điều kiện khách quan: Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển, mang tính xã hội
hóa cao, mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời mới làm nảy sinh trực tiếp nhu
cầu xóa bỏ quan hệ sản xuất đó. Lực lượng sản xuất xã hội hóa bao gồm nền đại công
nghiệp cơ khí và gccn hiện đại là xuất phát điểm của Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chỉ
trên cơ sở lực lượng sản xuất xã hội hóa cao đó, việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa mới trở thành mục tiêu mang tính hiện thực, ko bị rơi vào “không tưởng” như mong
muốn của các nhà xã hội chủ nghĩa trước Mác. Như vậy, chủ nghĩa tư bản tạo ra những
nhân tố phủ định bản thân nó. Quá trình phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa chuẩn bị
những điều kiện cho sự ra đời của chế độ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa từ ngay trong lòng
nó.
+ Điều kiện chủ quan: Đồng thời với sự trưởng thành của gccn và phát triển lớn
mạnh của phong trào công nhân thì Đảng cộng sản phải được thành lập để lãnh đạo giai
2
cấp công nhân tiến hành đấu tranh cách mạng. Chỉ có Đảng cộng sản- đảng được trang bị
thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mac-Lênin mới có khả năng
vạch ra được đường lối, chiến lược và sách lược đúng đắn, vận dụng phương pháp CM
phù hợp, thực hiện liên minh các giai cấp và tầng lớp xh, tập hợp đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Có thể nói, sự lãnh đạo
đúng đắn của chính đảng của gccn là nhân tố quyết định thành công của cách mạng xã
hội.
Khi các điều kiện chủ quan nêu trên, biểu hiện ở sự trưởng thành về mặt ý thức, tổ
chức của gccn và các lực lượng tham gia đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản được kết hợp với những điều kiện khách quan bắt nguồn từ sự phát triển của lực
lượng sản xuất đạt tới sự chín muồi, thì cách mạng sẽ diễn ra, và đó là bước chuyển tiếp
từ chế độ tư bản chủ nghĩa sang chế độ xã hội chủ nghĩa
2.2. Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Giai đoạn thứ nhất: giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Giành chính quyền là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của bất cứ cuộc cách mạng nào,
cũng như của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là “giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng
thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ”, tức là giai cấp vô sản từ địa vị bị
áp bức, bóc lột, bởi quyền lực tư bản, tiến hành đấu tranh xóa bỏ ách áp bức , bóc lột đó
trước hết bằng việc xóa bỏ quyền lực tư bảnvề chính trị, giành lấy chính quyền nhà nước
từ tay giai cấp tư sản.
Giai đoạn này của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn hết sức khó khăn phức
tạp, vì cách mạng chỉ có thể diễn ra khi đã xuất hiện tình thế, thời cơ chín muồi, và
phương pháp đấu tranh bao giờ cũng là bằng bạo lực dưới nhiều hình thức, nên nó đòi hỏi
sự năng động và nhạy bén chính trị cao nhất của Đảng cộng sản trong lãnh đạo cuộc đấu
tranh giai cấp của mình, nhất là khả năng nắm bắt và chớp thời cơ cách mạng, vận dụng
mọi thủ đoạn và biện pháp có thể để đạp tan sự phản kháng của kẻ thù vốn ko bao giờ tự
động rời bỏ quyền lực thống trị. Về cơ bản, giai đoạn này kết thúc khi giai cấp vô sản
thiết lập và củng cố được một cách vững chắc sự thống trị chính trị của mình đối với toàn
xã hội để bước vào thời kỳ quá độ xây dựng xã hội chủ nghĩa.
3
- Giai đoạn thứ hai: giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản sử dụng chính quyền nhà nước của mình như một công cụ hữu hiệu nhất
để tiến hành công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ở giai đoạn thứ hai này, CMXHCN thực hiện sự cải tạo xã hội lâu dài và toàn diện
trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị và văn hóa. Với tính cách là cuộc cách mạng hướng
tới một chế độ xã hội không còn áp bức, bất công, con người được tự do và phát triển toàn
diện về mọi mặt, CMXHCN thực hiện sự kế thừa đầy đủ những giá trị vật chất, tinh thần
mà loài người đã tạo ra trong các thời kỳ lịch sử cải tạo tự nhiên và xh trước đó; đồng thời
loại bỏ tất cả những nhân tố tiêu cực, lạc hậu, phản động – là những cái cản trở trên con
đường phát triển và hoàn thiện ko ngừng của nó.
2.3. Mục tiêu và động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
- CMXHCN có mục tiêu bao trùm là giải phóng con người, trong đó trước hết là
người lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. mục tiêu đó được thực hiện thông qua quá
trình xóa bỏ từng bước chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
khắc phục dần những hình thức tha hóa của con người do chế độ tư hữu gây ra, thủ tiêu
giai cấp và những điều kiện làm nảy sinh giai cấp cùng chế độ người bóc lột người, thiết
lập chế độ sở hữu công cộng về tlsx; đồng thời, đó là quá trình bảo đảm xây dựng trong
hiện thực những quan hệ công bằng, bình đẳng, tự do của cuộc sống của con người.
- Động lực của CMXHCN: gccn và nhân dân lao động là lực lượng trung tâm tiến
hành CMXHCN, vì thế gccn với lợi ích của mình – đặc biệt là lợi ích kt, là động lực cơ
bản của CM. Do đại diện cho phương thức sx mới, có hệ tư tưởng và lý luận khoa học,
gccn là đại biểu cho lợi ích của gc mình, và của hầu hết các gc, tầng lớp lao động xh khác,
cũng như lợi ích của toàn xã hội. Mục tiêu của CMXHCN, do phù hợp với nguyện vọng
của đông đảo các tầng lớp nhân dân, phù hợp với nhu cầu phát triển xh nên tạo ra sự
thống nhất cơ bản giữa lợi ích giữa cá nhân và xh, giữa lợi ích gc và dân tộc, giữa lợi ích
quốc gia và quốc tế, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài. Những lợi ích này được thực hiện
từng bước trong quá trình hiện thực hóa những mục tiêu của CMXHCN mà trở thành
động lực tổng hợp và trực tiếp của cách mạng.
2.4.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
Khi phân tích mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản và những đặc trưng của xã hội
cộng sản – C.Mác đã chỉ ra rằng: Từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN là cả một thời kỳ lịch
sử lâu dài từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền đến khi giai cấp công nhân
4
xây dựng thành công CNCS V.I.Lênin đã phát triển nhiều luận điểm mới về thời kỳ quá
độ:
Một là. V.I. Lênin đã tiếp tục khẳng định quan điểm của C.Mác về thời kỳ quá độ
từ CNTB ở trình độ phát triển cao lên CNCS, đồng thời chỉ ra loại hình quá độ mới- Quá
độ từ các nước tư bản phát triển vào loại trung bình như nước Nga, Người gọi đó là thời
kỳ quá độ đặc biệt – quá độ gián tiếp
Hai là, V.I. Lênin khẳng định, thời kỳ quá độ theo nghĩa rộng nhất như C.Mác đã
chỉ ra, đồng thời, Người chỉ rõ: Trong thời kỳ quá độ ấy, chúng ta đang phải trải qua cả
một loạt thời kỳ quá độ, sau này gọi là quá độ lên CNXH – quá độ theo nghĩa hẹp.
Ba là, V.I.Lênin khẳng định quan điểm của C.Mac về bản chất chính trị của thời kỳ
quá độ. Đồng thời, Người chỉ ra các hình thức quá độ về kinh tế Đó là hình thức
CNTB nhà nước trong công nghiệp lớn và hình thức hợp tác trong quá trình đưa kinh tế
hàng hóa nhỏ lên CNXH, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp…
Bốn là, V.I.Lênin nêu những đặc trưng và mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên
CNCS
Đặc trưng: Thời kỳ quá độ ấy không thể không bao gồm những đặc điểm về kết cấu
của kinh tế TBCN và kinh tế CSCN.
Mâu thuẫn: là thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đã bị đánh bại nhưng chưa tiêu diệt hẳn
và CNCS đã phát sinh nhưng còn rất non yếu.
Năm là, V.I. Lênin chỉ ra loại hình quá độ mới: Quá độ từ các nước tiền tư bản tiến lên
CNXH và CNCS. Người gọi đó là “quá độ đặc biệt của đặc biệt”
2.5. Nội dung con đường đi lên xã hội chỉ nghĩa ở Việt Nam
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Cách mạng Việt Nam suốt thế kỷ XX đã
diễn ra phù hợp với xu thế của thời đại mới
Từ cuối thế kỷ XIX: Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, tất cả các
cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp của nhân dân ta đều thất bại và không tìm được con
đường để cứu dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của đế quốc, thực dân
1920-1930: Chuẩn bị trên cả phương diện tư tưởng lý luận, đường lối chính trị, tổ chức
cán bộ, Nguyễn Ái Quốc tổ chức thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1030
5
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua là những minh chứng khoa
học và cách mạng của con đường phát triển tất yếu của đất nước ta là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI toàn đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Để đạt được những mục tiêu trên cần thực hiện tốt các phương hướng
cơ bản sau đây:
Một là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá.
Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá phải kết
hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, đồng thời phải bảo vệ tài nguyên, môi trường. Như
vậy mới đảm bảo cho việc phát triển nhanh, bền vững, môi trường sống tốt hơn.
Hai là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng kinh tế thị trường được thể hiện
qua 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh", giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao chất
lượng đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng…
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách
phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, y tế… giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ
6
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, cùng các
nguồn lực khác, thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền
kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ba là: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Văn hoá hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Đại
hội XI tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc
Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ công
bằng, văn minh.
Bốn là: Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước". Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh tư tưởng văn hoá, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không phải chỉ
bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn phải bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, bảo vệ kinh tế, văn hoá, sự
nghiệp đổi mới…
Năm là: Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước tham gia. Kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chủ
động về đường lối chính sách và bước đi trong hội nhập, tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ
7
hơn vào quá trình toàn cầu hoá vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Sáu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết các
dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các hình thức thực hành dân chủ: Dân chủ đại diện, dân
chủ trực tiếp ở cơ sở và tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc
vừa là nguồn lực chủ yếu, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Bảy là: Xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nhà nước Pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi bật là bảo
đảm quyền tối cao của Pháp luật. Nhà nước Pháp quyền của nước ta là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà
nước, thông qua Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước Pháp quyền hiện nay là
xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới lập pháp, hành
pháp và tư pháp; kiên quyết phòng ngừa, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Tám là: Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong
điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là "nhiệm vụ
then chốt" có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng nước ta. Thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Nước ta đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khoa học,
công nghệ trên thế giới đang phát triển mạnh; xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế thực chất là một quá trình vừa hợp tác để phát triển vừa đấu tranh rất phức
tạp, song một nước đang phát triển như Việt Nam không thể đứng ngoài. Trong quá trình
phát triển của đất nước thời gian tới, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định đó là: tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN,
nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Tình hình
đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải kiên định mục tiêu, định hướng XHCN; xác định rõ
hình thức, bước đi và biện pháp cụ thể trong quá trình xây dựng đất nước. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về mục tiêu và động lực của cách mạng XHCN
ở nước ta là việc làm cần thiết, giúp chúng ta thực hiện được những yêu cầu trên.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ: “Tư tưởng HCM là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
độc lập dân tộc gắn liên với CNXH, ” (VK ĐH Đảng lần thứ IX, Nxb CTQG. HN. tr
83). Nếu nói rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư tưởng
HCM, thì tư tưởng về CM XHCN là một một bộ phận cốt yếu của nội dung ấy. Đây là
vấn đề được Chủ tịch HCM xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng ta.Có thể nói, quan niệm của HCM về CNXH chính là sự khẳng định tính chất và
triển vọng của một chế độ chính trị, xã hội đầy tính nhân đạo và hiện thực, thể hiện việc
vận dụng sáng tạo CN Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, VN là nước thuộc địa nửa phong
kiến, 2 mâu thuẫn xã hội cơ bản nhất nổi lên là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với
thực dân Pháp, và giữa nhân dân VN với gc địa chủ phong kiến. Sự phát triển xh nước ta
bấy giờ đặt ra yêu cầu phải giải quyết 2 mâu thuẫn đó, mà thực ra là tiến hành đồng thời 2
9
sự nghiệp: giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, trong đó nổi lên hàng đầu là yêu cầu
cứu nước, giành độc lập dân tộc.
Mặc dù đã thực hiện khá nhiều các phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc theo
nhiều đường hướng, phương pháp khác nhau, chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng chính
trị khác nhau, nhưng các phong trào đó đều thất bại trong chính sự vận động thực tiễn của
nó.
Yêu cầu gắn kết hữu cơ hai sự nghiệp giải phóng: dân tộc và gc đã đặt con đường
cứu nước VN trước đòi hỏi phải được giải quyết theo một đường lối mới, triệt để, vừa
phản ánh đúng nhu cầu phát triển nội tại của xã hội Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế vận
động khách quan của thời đại, đường lối đó là đường lối cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mac-Lênin, do Đảng cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh lựa chọn và lãnh đạo
tiến hành: “…làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đây là đường lối phản ánh nét chủ đạo của con đường cách mạng Việt Nam, đó là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Sự đúng đắn, phù hợp của đường lối đó đã được chứng mính bằng thành công của
cách mạng tháng 8 năm 1945 và thắng lợi vẻ vang qua 2 cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ, giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc năm 1975, hoàn thành
cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân, đưa nước ta vào giai đoạn phát triển mới, xây dựng
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình.
Tuy nhiên, trong quá trình 10 năm (1975-1985) lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta đã phạm những sai lầm, khuyết điểm lớn, nhất là trong
lĩnh vực cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển sang thực hiện một cách nhanh
chóng các mục tiêu xã hội chủ nghĩa khi điều kiện kinh tế-xã hội nước ta chưa cho phép,
lực lượng sản xuất còn ở trình độ rất lạc hậu và thấp kém là biểu hiện rõ ràng nhất của
nhận thức thiếu đúng đắn, thiếu đầy đủ và biện chứng của bước chuyển từ cách mạng dân
chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đáng lẽ, các nhiệm vụ phát triển dân chủ đã phải
được thực hiện tốt hơn nữa, nhiều hơn nữa để làm cơ sở nền tảng vững chắc cho việc
chuyển lên chủ nghĩa xã hội thì trên thực tế các nhiệm vụ đó đã ko được chú ý đúng mức,
thậm chí bị xem nhẹ hoặc lãng quên. Hậu quả của một loạt nhứng hoạt động vi phạm quy
luật khách quan nêu trên là làm cho kinh tế-xã hội đất nước rơi vào khủng hoảng, chủ
nghĩa xã hội hiện thực trở nên xơ cứng, trì trệ.
10
Khó khăn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nằm trong bối cảnh
những khó khăn chung của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới ở vào thập niên 80 của thế
kỷ XX, từ đó đã dấy lên một làn sóng đổi mới, cải tổ và cải cách toàn diện chủ nghĩa xã
hội. Đổi mới ở nước ta với tính cách là quá trình thay đổi nhận thức, phương pháp, bước
đi xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành đòi hỏi sống còn đối với vận mệnh và tiền đồ chủ
nghĩa xã hội Việt Nam.
Trước đổi mới, tức là trước Đại hội VI (năm 1986) trở về trước, quan niệm về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta chịu ảnh hưởng của mô hình Xô Viết.
Nhìn một cách tổng quát, thời kỳ trước đổi mới, nhận thức của Đảng ta về mục
tiêu, bản chất của CNXH và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta là đúng đắn - giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Điều này phù hợp với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề đặt ra là, vì sao bên cạnh những thành
tựu đã đạt được nhưng việc thực hiện đường lối đó, chỉ ít lâu sau Đại hội IV của Đảng
nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối
những năm 1970 nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Đại hội VI của Đảng với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng với
sự thật, nói rõ sự thật đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ rõ những
khuyết điểm, sai lầm. Đại hội chỉ rõ chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng và kéo
dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Về mặt lý luận, đó là sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật
đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa,
muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở
chặng đường đầu tiên.
Chúng ta đã có thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó không chú ý vận dụng
chúng vào việc định chế các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em.
Từ thực tiễn cách mạng, cả thành công và khuyết điểm sai lầm, Đại hội VI đã rút
ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”.
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất, phát triển lưu thông thông suốt, đời sống
11
vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới
XHCN ngày càng được hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ XHCN
được củng cố. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận
dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ…
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đưa ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; nắm
vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc… Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông
qua các chủ trương, chính sách, sản xuất trong nước ngày càng phát triển, lưu thông ngày
càng thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và
nâng cao, xã hội ngày càng lành mạnh, qua đó, chế độ XHCN ngày càng được củng cố…
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã
hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”.
ĐH lần thứ XI của Đảng đã đánh giá: “Đất nước thực hiện thành công bước đầu
công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xhcn được giữ vững, vị thế và uy
tín của VN trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng
lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường
XHCN”; đồng thời khẳng định: “Nhiều vấn đề mới nảy sinh từng bước được Đảng ta
nhận thức và giải quyết có hiệu quả; nhiều vấn đề liên quan đến Cương lĩnh đã có nhận
thức mới, sâu sắc hơn; quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày
càng rõ hơn; đổng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp”.
III. Kết luận
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa. Với điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá
trình đó tất yếu phải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường.
12
Tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011) và 25 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng nêu rõ: Xã hội, xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
"Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh”.
Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã được thực
tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, chính xác.
13