Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

các thành phần kinh tế với sự phát triển lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.71 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ MIỂN
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HÒA
Huế, 2012

4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào cũng đều tồn
tại nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế đó là một nhu cầu
tất yếu khách quan của xã hội. Tính tất yếu đó bắt nguồn từ quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đây chính là một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận
động và phát triển xã hội loài người. Trong đó lực lượng sản xuất là yếu
tố đóng vai trò quan trọng và quyết định đến quan hệ sản xuất. Lực
lượng sản xuất không chỉ là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động sản xuất của con người mà nó còn là nền tảng cơ sở vật chất kỹ
thuật của mỗi chế độ xã hội. Đồng thời, lực lượng sản xuất cũng là một
trong những nhân tố quan trọng quyết định đến năng suất lao động của
xã hội. Suy cho cùng, sự vận động của xã hội từ chế độ xã hội này sang
chế độ xã hội khác đều bắt nguồn từ sự vận động và phát triển của lực
lượng sản xuất. Vì thế, phát triển lực lượng sản xuất là một vấn đề mà
mọi quốc gia luôn chú trọng. Đối với Việt Nam, khi lực lượng sản xuất


của chúng ta đang ở trình độ thấp gây cản trở đối với sự phát triển của
đất nước, cho nên việc phát triển lực lượng sản xuất là một yêu cầu cấp
thiết ở nước ta hiện nay.
Có thể thấy, với chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu
và các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, điều đó có nghĩa chúng ta đã thiết lập được
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ đang còn thấp của lực lượng
sản xuất ở nước ta. Nhìn lại chặng đường hơn 25 năm đổi mới, sự
phát triển của các thành phần kinh tế đã đạt được những thành tựu to
lớn góp phần quan trọng hàng đầu trong việc huy động các nguồn lực
xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân, thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều quan trọng
hơn cả, sự phát triển của các thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang
phát triển, thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước được củng cố và phát triển, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc
5
phòng được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng lên. Đây chính là những tiền đề, động lực quan trọng cho chúng
ta vững bước đi lên trên con đường đã chọn. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đó thì các thành phần kinh tế còn tồn tại những hạn
chế như là: năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp, các thành phần kinh tế phát triển chậm, thiếu hài hòa, thể chế
kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, khoa
học và công nghệ vẫn còn nhiều yếu kém, đây chính là những rào cản
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Vấn
đề đặt ra hiện nay chúng ta cần phải xác định rõ vị trí, vai trò và mối

quan hệ của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, để từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp
nhằm phát huy vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát
triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định
nước ta tồn tại 4 thành phần kinh tế đó là: Thành phần kinh tế nhà
nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân, thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi thành phần kinh tế có vị
trí, vai trò quan trọng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân, trong đó
Đảng ta đã xác định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thành
phần kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế
nhà nước, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những
động lực để phát triển kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được
khuyến khích phát triển” [16, tr.73-74].
Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò quan trọng đối với
sự phát triển nền kinh tế nước ta, giữa các thành phần kinh tế có mối
quan hệ tác động qua lại, vừa hợp tác vừa mang tính chất cạnh tranh
trong cùng một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành
phần kinh tế trên đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cho nên, việc
phát triển đồng bộ và hài hòa các thành phần kinh tế sẽ là một trong
những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trong xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ
vừa tạo ra những cơ hội vừa tạo ra những thách thức cho chúng
ta, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải bám sát những chỉ dẫn khoa
học lý luận của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí
6
Minh để vận dụng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,

nhằm tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, hướng đến mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát
triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra
cạnh tranh trên thị trường, thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế,
đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh
tế - xã hội; là con đường để xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài “Các thành phần kinh tế với
sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các công trình, các tác phẩm nghiên cứu có liên quan đến đề tài
được các nhà khoa học, trung tâm nghiên cứu cụ thể là: “Phát triển các
thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay” của
GS.TS. Vũ Đình Bách và GS.TS. Ngô Đình Giao (Đồng chủ biên) (Nxb
Chính trị Quốc gia, năm 1997); “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” của GS.TS. Vũ Đình Bách (Nxb Chính trị Quốc gia,
năm 2006); “Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Cúc và PGS.TS. Kim Văn Chính
(Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2006); “Kinh tế có vốn đầu tư của nước
ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” của PGS.TSKH. Nguyễn Bích Đạt (Nxb Chính trị Quốc gia, năm
2006); “Phát triển kinh tế kinh tế thị trường ở Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS. Nguyễn Văn Nam (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, năm 2006); “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của
Nguyễn Thanh Tuyền (Chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2006).

"Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
của C.Mác và vấn đề phát triển kinh tế tri thức hiện nay" của
PGS.TS. Phạm Thị Ngọc Trầm (Tạp chí Triết học số 8, 2008); “Về
vấn đề phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay”
của Nguyễn Đức Luận (Tạp chí Triết học, số 7, tháng 7 - 2008).
7
“Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở nước ta” của
GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 7 - 2011);
“Vai trò của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Huyền (Tạp chí Triết học, số 242, tháng 7 - 2011); “Quan
điểm của đại hội XI về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của GS.TS. Đỗ Thế Tùng (Kỷ
yếu hội thảo, tháng 8 - 2011); “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI” của Đảng Cộng sản (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2011);
“Những vấn đề kinh tế - xã hội trong cương lĩnh” (Bổ sung, phát triển
năm 2011), của GS. TS. Trương Giang Long và PGS.TS. Trần Hoàng
Ngân (Đồng chủ biên) (Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2011).
“Một số đề xuất nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của Cao Thu Hằng (Tạp chí Triết học, số
3 (250), tháng 3 - 2012); “Đổi mới mô hình tăng trưởng cơ cấu lại nền
kinh tế” của PGS.TS. Vũ Văn Phúc (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
năm 2012); “Đổi mới nhận thức về doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” của
Vũ Văn Phúc (Tạp chí Cộng sản, số 838, tháng 8 - 2012); “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững Việt
Nam” của Chu Văn Cấp (Tạp chí Cộng sản, số 839, tháng 9 - năm
2012); “Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực then chốt
để phát triển kinh tế - xã hội” của TS. Trần Đắc Hiến (Tạp chí Triết học,

số 6 (253), tháng 6 - 2012); “Đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước
và một số thách thức đặt ra” của TS. Hồ Sỹ Hùng (Tạp chí Cộng sản, số
840, tháng 10 - 2012).
Những công trình nghiên cứu trên đây đã phần nào lý giải một
số vấn đề quan trọng của các thành phần kinh tế và lực lượng sản
xuất: Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta; tính tất yếu về sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần; vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta; thực trạng và giải pháp phát triển của các thành
phần kinh tế; mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta;
đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước; mối quan hệ biện
chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
8
xuất; vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay; tác
động của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất; phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu và làm rõ vai trò của các thành
phần kinh tế đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
hiện nay chưa có tác giả nào đề cập một cách hoàn chỉnh. Vì vậy, trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc những tác phẩm, những công trình nghiên cứu
của các tác giả trên, đề tài “Các thành phần kinh tế với sự phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” đã góp phần làm sáng tỏ hơn, hoàn
chỉnh hơn trong quá trình thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề ti này nhằm mục đích góp phần làm rõ vai trò của các
thành phần kinh tế với sự phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay, đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả vai trò của các thành phần kinh tế góp phần thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được

mục đích này, luận văn phải làm rõ các nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận của các thành phần kinh tế và lực lượng
sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ vai trò của các thành phần kinh tế với sự phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò
của các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã quy định đối tượng và
phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng là nghiên cứu các thành phần kinh tế và lực lượng
sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu là tập trung làm rõ vai trò của các thành phần
kinh tế với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn này được thực hiện dựa trên cơ sở các
nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngoài ra, đề tài này có sử dụng các tác phẩm, công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học liên quan đến vấn đề.
9
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó luận văn
còn dựa trên các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgích - lịch sử, so
sánh và hệ thống hóa nhằm làm sáng tỏ “Các thành phần kinh tế với sự
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của
sự tồn tại các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời, làm rõ vai trò của
các thành phần kinh tế đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những phương hướng và
giải pháp để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế nhằm thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục các tài liệu
tham khảo luận văn gồm 2 chương 6 tiết:
Chương 1. Lý luận về lực lượng sản xuất và các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
Chương 2. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm
phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
VÀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Lực lượng sản xuất, vai trò của lực lượng sản xuất
trong sự phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm của lực lượng sản
xuất ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người
với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất bao
gồm hai bộ phận chủ yếu: người lao động và tư liệu sản xuất. Trước
hết, người lao động, đây là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng
sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu của toàn
thể nhân loại là công nhân, là người lao động, đây là những chủ thể
đích thực của quá trình lao động.
10

Thứ hai, tư liệu sản xuất là tổng thể các yếu tố vật chất của quá
trình lao động, là sự thống nhất giữa đối tượng lao động và tư liệu lao
động. Đối tượng lao động là một vật hay sự tổng hợp những yếu tố
vật chất mà lao động của con người luôn luôn hướng đến, đây chính
là cội nguồn sản phẩm lao động của con người. Tư liệu lao động, là
vật truyền dẫn hoạt động của người lao động vào đối tượng lao động.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và các phương tiện lao
động khác nhằm hỗ trợ cho con người trong quá trình lao động. Công
cụ lao động là bộ phận tác động trực tiếp đến đối tượng lao động, là
hệ thống xương cốt, bắp thịt của sản xuất và là nơi tập trung nhất sức
mạnh của tư liệu lao động, làm cầu nối truyền tải sức lao động của
con người đến đối tượng lao động, là yếu tố động nhất của lực lượng
sản xuất. Cùng với công cụ lao động, phương tiện lao động là bộ
phận không thể thiếu trong trong tư liệu lao động bao gồm nhà máy,
kho, xưởng, bến cảng, sân bay, hệ thống giao thông vận tải, hệ thống
điện, đường sá, viễn thông, vv Trong lực lượng sản xuất, ngoài hai
yếu tố cơ bản là người lao động và tư liệu sản xuất, còn có khoa học
và công nghệ, đây là một bộ phận hợp thành ngày càng quan trọng
của lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở
thành lực lượng đầu tàu của sức sản xuất xã hội.
Như vậy, lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa
người lao động với tư liệu sản xuất tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất xã hội. Tất cả các yếu tố trong lực lượng sản xuất
đều có mối liên hệ tác động qua lại một cách khách quan, trong đó
con người đóng vai trò quan trọng là nguồn lực của mọi nguồn lực. Ở
nước ta, với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp. Do vậy, việc xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, một mặt đó là sự phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất
của nước ta, mặt khác nó cũng là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.

1.1.2. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội
Thứ nhất, lực lượng sản xuất là cơ sở, nền tảng của hoạt động
sản xuất vật chất xã hội. Thứ hai, lực lượng sản xuất là nền tảng cơ
sở vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Thứ ba, lực
lượng sản xuất là yếu tố quyết định đến năng suất lao động xã hội
11
Ở nước ta, tuy rằng chúng ta đã vượt qua được những khó khăn về
kinh tế, đời sống nhân dân về cơ bản được cải thiện. Thế nhưng, so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, năng suất lao động của chúng ta
còn thấp, điều này xuất phát từ chỗ, trình độ lực lượng sản xuất của nước
ta còn ở mức thấp, đã trở thành nhân tố cản trở đến năng suất lao động
xã hội. Do vậy phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay là
một việc làm hết sức cần thiết đối với nước ta.
1.1.3. Đặc điểm của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, đặc điểm về nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
- Nước ta là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, đa số là lao động
trẻ. Nước ta là một nước có quy mô dân số tương đối lớn, trong đó số
người trong độ tuổi lao động chiếm 51% dân số của cả nước và đang
có xu hướng ngày một tăng, bình quân mỗi năm chúng ta có thêm
khoảng 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Như vậy, nước ta là
một nước đa số là lao động trẻ, đây là một trong những đặc điểm nổi
bật của lực lượng lao động ở nước ta hiện nay.
- Chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta còn thấp. Nhìn chung
chất lượng nguồn lao động của nước ta còn thấp, phát triển lại không
đồng đều. Vì vậy, phát triển người lao động một cách toàn diện là một
trong những nhân tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nước ta.
Thứ hai, đặc điểm của tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay. Đối
tượng lao động. Nhìn chung, đối tượng sản xuất của chúng ta rất
phong phú và đa dạng, đây sẽ là một lợi thế rất lớn đối với sự phát

triển của các thành phần kinh tế nói riêng và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta nói chung. Tư liệu lao động, mặc
dù, trình độ phát triển của công cụ lao động ở nước ta hiện nay có bước
phát triển, máy móc được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất,
trình độ công nghệ của một số nghành sản xuất, dịch vụ đã được nâng
lên đáng kể. Nhìn chung, trình độ của công cụ lao động ở nước ta còn ở
mức trung bình, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Về phương tiện lao động, là toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật tạo
nền tảng cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Nhìn trên tổng thể hệ
thống kết cấu hạ tầng ở nước ta vẫn trong tình trạng lạc hậu, tiêu
chuẩn kỹ thuật thấp, tốc độ phát triển thấp, thiếu đồng bộ, chưa có sự
liên kết giữa các bộ phận, nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng kết
cấu hạ tầng còn thiếu trầm trọng, điều này làm cản trở đến sự phát
12
triển các thành phần kinh tế và sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước
ta nói chung trong giai đoạn hiện nay.
Về khoa học và công nghệ, hiện nay khoa học và công nghệ ở
nước ta đang từng bước hình thành và phát triển, đặc biệt trong các
lĩnh vực công nghệ sinh học, năng lượng, công nghệ chế tạo vật liệu
mới, điện tử, tin học. Những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ thực sự đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Đối với các thành phần kinh tế, đây là cơ hội cho quá trình
chuyển giao công nghệ mới, hiện đại vào trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể khoa học và công nghệ ở nước ta vẫn
đang ở trình độ thấp, thiếu đồng bộ và mất cân đối nghiêm trọng.
Nhìn chung so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay còn thấp,
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn
hiện nay. Vì vậy, phát triển các thành phần kinh tế trong giai đoạn
hiện nay, nhằm phát huy tốt hơn nữa mọi nguồn lực của đất nước, là

động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
1.2. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ ở nước ta là kết quả của sự tổng kết thực tiễn, sự kế thừa và phát
triển các lý thuyết về kinh tế thị trường, là sự phù hợp với thực tiễn
của đất nước. Về mục tiêu, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa hướng đến mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp, đây là mục tiêu xuyên suốt trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta, đó là nền kinh tế hướng đến nhân dân. Về mục đích,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng đến là
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội, từng bước xác lập
và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục
tiêu đã đề ra. Về vấn đề sở hữu, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dựa
trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, với
13
ba loại hình sở hữu cơ bản đó là: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân. Trên cơ sở đa dạng hóa về các hình thức sở hữu và
thành phần kinh tế, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức phân phối, phù hợp nền kinh tế thị trường và yếu tố định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phân phối theo kết quả lao động
đóng vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một
cách hợp lý. Về cơ chế vận hành, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cơ
chế đó bảo đảm tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành
phần phát triển theo mục tiêu và bản chất của chế độ xã hội.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là con đường duy nhất để cởi trói quan hệ sản xuất hạn hẹp, lạc hậu,
để mở đường cho sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta.
1.2.2. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước được hiểu là thành phần kinh tế dựa trên hình
thức sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, bao gồm: Các doanh nghiệp
nhà nước, các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu nhà nước
như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ
quốc gia, hệ thống bảo hiểm, kết cấu kinh tế hạ tầng xã hội, phần vốn
các doanh nghiệp nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện: Thứ nhất, kinh tế nhà
nước đóng vai trò là lực lượng vật chất và công cụ sắc bén và quản lý
vĩ mô nền kinh tế. Thứ hai, kinh tế nhà nước với tư cách là một thành
phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, không
ngừng xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cung cấp mọi nguồn
lực, khoa học và công nghệ, tạo ra môi trường thuận lợi để cho các
thành phần kinh tế cùng phát triển. Thứ ba, kinh tế nhà nước là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đối với lực lượng sản xuất, trên nền tảng chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, kinh tế nhà nước nắm trong tay cơ sở hạ tầng của đất
nước bao gồm đối tượng lao động, công cụ lao động và toàn bộ
phương tiện lao động của quốc gia, những yếu tố này chính là tổng
14

thể tư liệu sản xuất của đất nước. Đồng thời, kinh tế nhà nước thông
qua hệ thống giáo dục của mình đã đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực,
phát triển khoa học và công nghệ cho đất nước. Vì thế, sự phát triển
của kinh tế nhà nước có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Kinh tế nhà nước phát triển sẽ là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển về mọi mặt.
- Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là một hình thái tổ chức sản xuất kinh doanh
dựa trên chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, trong đó hợp tác xã
đóng vai trò làm nòng cốt.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai
trò kinh tế tập thể được thể hiện: Thứ nhất, sự hình thành và phát
triển của kinh tế tập thể đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của đất nước. Thứ hai, kinh tế tập thể tạo việc làm, góp phần tăng thu
nhập cho thành viên và người lao động, cung cấp hàng hoá và dịch
vụ xã hội. Thứ ba, kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy phát triển tinh
thần “hợp tác” cộng đồng, từng bước hiện thức hoá các giá trị đạo
đức cao đẹp và các nguyên tắc hợp tác xã; nâng cao trách nhiệm xã
hội của từng công dân cũng như của cộng đồng; tạo điều kiện cho
cộng đồng ngày càng ổn định và gắn kết với nhau hơn.
Đối với lực lượng sản xuất, có thể nói sự phát triển của kinh tế
tập thể thật sự đã tạo ra động lực cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất, bởi trong sự phát triển các yếu tố cấu thành trong lực lượng sản
xuất được chú trọng phát triển.
- Kinh tế tư nhân
Ở nước ta, kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế có vị trí,
vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, điều này đã được Đảng
ta quán triệt trong đường lối đổi mới đất nước. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân có vai trò:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế có khả năng thu hút lao

động cao, phong phú và đa dạng trong xã hội. Thứ hai, kinh tế tư
nhân đóng góp quan trọng vào thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Thứ ba, kinh tế tư nhân là khu vực có nhiều đóng
góp trong việc thu hút các nguồn vốn trong xã hội nhằm đầu tư và
phát triển kinh tế. Với vị trí và vai trò như vậy, phát triển kinh tế tư
15
nhân trong giai đoạn hiện nay là một trong những động lực quan
trọng để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, qua đó
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế dựa
trên hình thức sở hữu hầu như tuyệt đối là vốn của nước ngoài. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài có có vai trò: Thứ nhất, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần tạo công ăn, việc
làm cho người lao động, phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Thứ
ba, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần chyển dịch cơ cấu
kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ tư,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quan hệ đối
ngoại và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Như vậy, sự phát triển của các thành phần kinh tế thật sự đã
đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, qua đó thúc đẩy lực lượng sản
xuất ở nước ta ngày một phát triển hơn.
1.2.3. Vai trò của các thành phần kinh tế với sự phát triển

lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, các thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển nguồn nhân lực trong lực lượng sản xuất
- Các thành phần kinh tế góp phần giải quyết việc làm, khắc
phục tình trạng thất nghiệp cho người lao lao động.
- Các thành phần kinh tế có vai trò nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Một mặt, các thành phần kinh tế đã nhiệt tình tham gia đầu tư và phát
triển, nâng cao chất lượng mạng lưới giáo dục các cấp cho hội. Mặt
khác, thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng người lao động, các thành
phần kinh tế đã trực tiếp thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực cho
đất nước, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, các thành phần kinh tế có vai trò trong việc phát triển
tư liệu sản xuất cho xã hội
16
Tư liệu sản xuất là sự thống nhất giữa đối tượng lao động và tư
liệu lao động, trong đó công cụ sản xuất là nhân tố đóng vai trò quyết
định. Đối với các thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, do vậy ngoài yếu tố con người đóng
vai trò quyết định, thì tư liệu sản xuất là nhân tố không thể thiếu, là
điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất và tái sản xuất. Do
vậy, bên cạnh việc chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, các
thành phần kinh tế phải không ngừng mở rộng và phát triển tư liệu
sản xuất, quá trình mở rộng và phát triển này không chỉ mang đến lợi
ích cho các nhà sản xuất kinh doanh mà còn mang lại lợi ích cho toàn
xã hội, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, các thành phần kinh tế có vai trò thúc đẩy và chuyển
giao khoa học và công nghệ
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, khoa học và công nghệ
là nhân tố quyết định, giúp cho các doanh nghiệp trong các thành
phần kinh tế diễn ra có hiệu quả, năng suất lao động cao hơn và sản

phẩm mang tính cạnh tranh hơn trên thị trường. Vì vậy, khoa học và
công nghệ luôn luôn được chú trọng đầu tư và phát triển, chính quá
trình đó đã trở thành động lực để thúc đẩy sự phát triển của khoa học
và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ ngày càng trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp trong xã hội.
Tiểu kết chương 1
Lực lượng sản xuất với tư cách là một thành tố vật chất có vai
trò quan trọng và quyết định đến sự vận động và phát triển của xã hội
loài người. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò khác nhau trong
nền kinh tế quốc dân. Như vậy, phát triển các thành phần kinh tế là
con đường để chúng ta từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
CHƯƠNG 2
PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
NHẰM PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của các thành phần kinh tế với việc phát huy sử
dụng và phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay.
17
2.1.1. Các thành phần kinh tế với việc phát huy sử dụng và
phát triển các yếu tố của con người trong lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế nhằm giải
quyết việc làm, khắc phục tình trạng thất nghiệp cho người lao động.
Đối với nước ta, là một nước có dân số đông, mỗi năm có hơn 1triệu
người bước vào độ tuổi lao động, đến nay dân số trong độ tuổi lao động
ước tính khoảng 52,7 triệu người, trong khi đó nền kinh tế còn mang
nặng tính thuần nông, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp 5,89%
(2011), chưa tạo được nhiều việc làm có thu nhập cao và ổn định cho

người lao động. Trong điều kiện đó, việc phát triển các thành phần kinh
tế sẽ góp phần giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, giảm bớt tỉ
lệ thất nghiệp cho người lao động Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, các thành phần kinh tế với việc nâng cao chất lượng
nguồn lao động ở nước ta hiện nay
- Kinh tế nhà nước, thông qua các hình thức đào tạo của mình
đã góp phần vào việc nâng cao trình độ, năng lực, đổi mới cơ chế
quản lý kỹ thuật - công nghệ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao; cải
tiến công nghệ và sáng tạo công nghệ mới, sử dụng hợp lý công nghệ
dùng nhiều lao động, giáo dục bồi dưỡng đạo đức cho đội ngũ quản
lý nhằm tạo ra những đội ngũ quản lý vừa có tài vừa có đạo đức tốt
để thích ứng với nhu cầu phát triển của đất nước.
- Kinh tế tập thể, sự phát triển của kinh tế tập thể đã góp
phần hỗ trợ, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho cho đất nước,
đặc biệt nguồn nhân lực ở nông thôn.
- Kinh tế tư nhân, thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng nâng
cao tay nghề cho người lao động trong các doanh nghiệp. Đồng thời,
quá trình quản lý, kỷ luật lao động rất nghiêm ngặt nhằm tạo ra tác
phong nghề nghiệp cho người lao động, điều này đã góp phần xây
dựng và phát triển đội ngũ những người lao động có kỹ năng và tác
phong công nghiệp lớn nhằm thích ứng với cơ chế thị trường và quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, là một thành phần kinh tế
dựa trên trình độ khoa học và công nghệ, trình độ tổ chức quản lý
hiện đại. Do vậy, sự phát triển của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
đã giúp cho người lao động ở nước ta có điều kiện để học tập, chuyển
giao những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiếp
18
thu trình độ tổ chức và quản lý hiện đại, nhằm nâng cao trình độ của
người lao động nước ta về mọi mặt.

Thứ ba, các thành phần kinh tế góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Nhìn chung, trong những năm gần đây, cơ cấu lao động ở nước
ta trong các lĩnh vực kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực,
tăng tỷ trọng lao động trong các nghành công nghiệp và dịch vụ. Có
được thành quả đó là nhờ vào sự phát triển của các thành phần kinh
tế. Theo xu hướng phát triển, các thành phần kinh tế sẽ phát triển
mạnh trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ và có xu hướng giảm
trong các lĩnh vực nông nghiệp, điều này cho phép quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động ở nước ngày một nhanh và hợp lý hơn.
2.1.2. Các thành phần kinh tế với việc phát huy sử dụng và
phát triển các yếu tố của tư liệu sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển các thành phần kinh tế trong
giai đoạn hiện nay không chỉ góp phần khai thác và sử dụng có hiệu
quả tư liệu sản xuất sẵn có mà nó còn là cơ sở để mở rộng và phát
triển tư liệu sản xuất ngày một hiện đại hơn, nhằm mang lại lợi ích
thiết thực cho đất nước. Mỗi thành phần kinh tế có một thế mạnh
riêng, do vậy tạo ra nhiều động lực khác nhau để mở rộng và phát
triển tư liệu sản xuất, qua đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2.1.3. Các thành phần kinh tế với việc phát huy hiệu quả
ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, sự phát triển của các thành phần kinh tế
đã trở thành chiếc cầu nối khoa học và công nghệ ở bên ngoài vào đất
nước, ban đầu đó là quá trình nhập khẩu, chuyển giao công nghệ máy
móc hiện đại vào trong sản xuất, trên cơ sở đó chế tạo ra những máy
móc, công nghệ hiện đại ứng dụng trực tiếp vào sản xuất. Do vậy,
trong giai đoạn hiện nay cần đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh

tế nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa việc ứng dụng những thành tựu
khoa học và công nghệ vào sản xuất, qua đó thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Kinh tế nhà nước với tư cách là thành phần kinh tế đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đây là thành phần kinh đi đầu
19
trong việc ứng những tiến bộ về khoa học và công nghệ, mở đường
cho sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Kinh tế tập thể góp
phần chuyển giao khoa học và công nghệ ở khu vực nông thôn. Với
việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn. Đối với kinh tế tư nhân, sự phát triển của kinh tế tư nhân
đã góp một phần quan trọng trong việc chuyển giao khoa học, công
nghệ cho đất nước, bởi kinh tế tư nhân trong những năm gần đây đã
không ngừng tự đổi mới khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện đại nhằm
tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh
trên thị trường. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh
tế có ưu thế về nguồn vốn, khoa học và công nghệ, trình độ tổ chức
quản lý hiện đại, phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong
giai đoạn hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn, khoa học
và công nghệ, trình độ tổ chức quản lý hiện đại để phát triển khoa
học và công nghệ ở nước ta.
2.2. Tác động của các thành phần kinh tế đối với việc xác
lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Tác động của các thành phần kinh tế với việc xác lập
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản,
quyết định đến bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định đến toàn bộ
nền sản xuất xã hội. Các thành phần kinh tế dựa trên các hình thức
sở hữu khác nhau. Trong đó, kinh tế nhà nước dựa trên quan hệ sở

hữu công hữu về tư liệu sản xuất, đây là quan hệ sở hữu cơ bản, đặc
trưng, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trên nền tảng
kinh tế tập thể, xác lập nên loại hình sở hữu tập thể về tư liệu sản
xuất. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế được hình thành dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Với trình độ lực lượng sản
xuất đang còn thấp như chúng ta hiện nay, sự tồn tại và phát triển
kinh tế tư nhân cũng như việc xác lập quan hệ sở hữu tư nhân là một
tất yếu khách quan, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng dựa trên hình
thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tư liệu sản xuất chủ yếu là
nguồn vốn, đây một loại hình kinh tế đang ngày càng có vị trí và vai
trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần rất lớn trong việc
phát triển lực lượng sản xuất
20
2.2.2. Tác động của các thành phần kinh tế với việc xác lập
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất
Sự phát triển của các thành phần kinh tế đã có tác dụng trong
việc xác lập và làm biến đổi của quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất. Trên cơ sở đó các quan hệ quản lý và phân công lao động cũng
như quan hệ phân phối phải thay đổi cho phù hợp với quan hệ sở
hữu, điều này đã thật sự tạo ra động lực để thúc đẩy lực lượng sản
xuất ở nước ta ngày một phát triển.
Các thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, do vậy sẽ có sự khác nhau trong cách thức
tổ chức và quản lý đối với tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của
mình. Để phát huy tốt hiệu quả tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu
của mình, thì phải làm tốt khâu tổ chức và quản lý tư liệu sản xuất, để
mang lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều
phải tuân theo cơ chế thị trường và chịu sự sự quản lý của Nhà nước.

2.2.3. Tác động của các thành phần kinh tế với việc xác lập
quan hệ phân phối sản phẩm lao động
Ở nước ta, các thành phần kinh tế dựa trên các hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động là hình
thức phổ biến trong các thành phần kinh tế, đặc biệt thành phần kinh
tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người đều có quyền bình đẳng đối
với tư liệu sản xuất, do vậy phân công theo lao động là cơ sở đảm
bảo tính công bằng trong xã hội, đồng thời là sự phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Theo đó sự phát
triển của kinh tế nhà nước trong giai đoạn hiện nay là cơ sở để việc
xác lập quan hệ phân phối phù hợp chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, đảm bảo tính công bằng trong xã hội, tạo động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
2.3. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của các
thành phần kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
2.3.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn
Thứ nhất, cơ sở lý luận. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã
chỉ ra rằng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một
21
phương thức sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố vật chất
đóng vai trò quan trọng và quyết định đến quan hệ sản xuất. Quan hệ
sản xuất đóng vai trò tạo mọi địa bàn thuận lợi để cho lực lượng sản
xuất phát triển.
Vì vậy, việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển lực lượng sản xuất là một yêu cầu tất yếu khách quan. Thứ
hai, cơ sở thực tiễn. Có thể nói, các thành phần kinh tế trong những
năm qua đã thúc đẩy lực lượng sản xuất ở nước ta ngày một phát
triển hơn. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, các thành phần kinh tế vẫn

chưa phát huy hết mọi tiềm năng, thế mạnh của mình…Vì vậy, trong
giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để
thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, nhằm xây dựng và hoàn
thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ độ phát triển của lực
lượng sản xuất, qua đó tạo động lực để thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển
2.3.2. Phương hướng
Thứ nhất, đẩy mạnh phát triển nhanh, hài hòa các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong cả nước. Thứ hai, phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ ba, đẩy
mạnh phát triển khoa học và côn nghệ. Thứ tư, phát triển các loại
hình, nghành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong các thành
phần kinh tế.
2.3.3. Giải pháp
Thứ nhất, tạo lập môi trường thuận lợi đảm bảo cho các thành
phần kinh tế phát triển nhanh, hài hòa. Thứ hai, đổi mới toàn diện và
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Thứ ba, tạo
lập môi trường thuận lợi đảm bảo cho sự phát triển khoa học và công
nghệ. Thứ tư, đa dạng hóa các loại hình, nghành nghề, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh trong các thành phần kinh tế.
Tiểu kết chương 2
Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy sức mạnh của các thành
phần kinh tế góp phần tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của các thành phần kinh tế với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, trên cơ sở những phương hướng
chúng ta đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy các thành phần kinh
tế phát triển, qua đó tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển
22
KẾT LUẬN
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động

và tư liệu sản xuất tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất vật
chất xã hội. Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất luôn
đóng vai trò quan trọng và quyết định đối với hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất đó. Do vậy, đối với mỗi đất nước, phát triển
lực lượng sản xuất là yếu tố được đặt lên hàng đầu, trong đó con người
được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, bởi suy cho cùng
tư liệu sản xuất cùng với sự phát triển khoa học và công nghệ đều phụ
thuộc vào khả năng sáng tạo của con người.
Đối với nước ta, nhìn trên tổng thể lực lượng sản xuất còn ở
trình độ thấp, do vậy phát triển lực lượng sản xuất là một yêu cầu cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Động lực cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất chính là đẩy mạnh phát triển các thành phần
kinh tế, đây là con đường để chúng ta từng bước củng cố và xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, qua đó tạo động lực để thúc đẩy lực lượng sản xuất ở nước ta
ngày một phát triển.
Sự ra đời và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự lựa chọn sáng suốt
của Đảng, dựa trên lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác
nhau, tương ứng là những trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất.
Trong đó, kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân,
kinh tế tư nhân là một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Do vậy, sự phát triển của các thành phần kinh tế góp phần khai
thác tốt hơn mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Các thành
phần kinh tế góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực;
phát triển tư liệu sản xuất; thúc đẩy quá trình chuyển giao, ứng dụng

khoa học và công nghệ hiện đại; chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước
ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó thúc đẩy lực
lượng sản xuất ở nước ta ngày một phát triển.
23
Trong giai đoạn hiện nay, việc phát huy sức mạnh của các thành
phần kinh tế góp phần: thứ nhất các thành phần kinh tế góp phần phát
huy việc sử dụng và phát triển yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất; thứ hai, các thành phần kinh tế góp phần phát huy việc sử dụng và
phát triển các yếu tố của tư liệu sản xuất; thứ ba, các thành phần kinh tế
góp phần nâng cao hiệu quả ứng dụng và phát triển khoa học và công
nghệ ở nước ta hiện nay; thứ tư góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở
nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Như vậy, việc phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế
trong giai đoạn hiện nay sẽ tạo ra động lực to lớn để phát triển lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của các thành phần kinh tế còn là cở sở
để chúng ta từng bước xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay
Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của các thành phần kinh tế với
sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở những
phương hướng phát triển chúng ta đưa ra những giải pháp cơ bản:
thứ nhất tạo lập môi trường thuận lợi đảm bảo cho các thành phành
phần kinh tế phát triển nhanh, hài hòa; thứ hai, đổi mới toàn diện và
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; thứ ba, tạo lập môi trường
thuận lợi đảm bảo cho sự phát triển khoa học và công nghệ; thứ tư đa
dạng hóa các loại hình, nghành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh
trong các thành phần kinh tế.
Việc thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ
góp phần phát huy tốt hơn nữa vai trò của các thành phần kinh tế đối
với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong giai đoạn

hiện nay. Góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm thực hiện
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển
về sau.

×