Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

ĐẶC điểm cơ bản của một số THỂ THƠ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.08 KB, 10 trang )

PHÒNG GD&ĐT HÒA BÌNH
TRƯỜNG THCS VĨNH THỊNH
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA MỘT SỐ THỂ THƠ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 7
Người viết: Nguyễn Thị Phượng Vĩ
Chức vụ: Giáo viên



Vĩnh Thịnh, ngày 13 tháng 01 năm 2014
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các tác phẩm văn học, hình thức là phương tiện mà người viết dùng để
thể hiện nội dung tư tưởng. Để tác phẩm của mình hay, hấp dẫn, dễ đi vào lòng
người, tác giả đã sử dụng rất nhiều nghệ thuật ngôn từ. Đối với tác phẩm thơ, một
trong những cách chuyển tải tư tưởng, tình cảm của nhà thơ là lựa chọn thể thơ phù
hợp với nhu cầu sáng tác của mình.
Chương trình Ngữ văn 7 có nhiều tác phẩm thơ bất hủ, lại mang sắc thái cổ.
Sẽ là một thiếu sót nếu trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm thơ
mà giáo viên không quan tâm đến việc giúp các em nắm được đặc điểm của thể thơ.
Có nhiều người cho rằng việc trang bị kĩ cho học sinh lớp 7 kiến thức về thể
thơ là tương đối sớm, chỉ nên cho học sinh nhận dạng thể thơ thông qua việc nhận
biết số câu số chữ là đủ. Nhưng theo tôi như vậy là chưa đủ. Đọc và cảm thụ thơ ca
không phải chỉ có đọc để nắm được tư tưởng tình cảm được nhân vật trữ tình gửi
gắm trong đó mà còn cảm thụ được vẻ đẹp về ngôn từ, nhận ra được cái hay trong
cách gieo vần, cái độc đáo trong cách đối câu…Tất cả sẽ dễ dàng hơn nếu người
đọc có những kiến thức cơ bản về thể thơ. Hơn nữa, năng lực cảm thụ văn chương
của học sinh không phải chỉ đến tuổi trưởng thành mới bắt đầu luyện tập mà nó phải
được hình thành ngay từ bây giờ.
Đặc điểm của các thể thơ đã được nhiều tài liệu nhắc đến nhưng chúng còn
tảng mạn, mông lung khó hiểu. Một số tài liệu thì quá tinh gọn, chưa đầy đủ những
đặc điểm cơ bản của các thể thơ, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của việc phân tích tác


phẩm thơ, nhất là các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 7. Vì thế, tôi quyết định
trình bày vấn đề này nhằm trao đổi với đồng nghiệp, giúp nâng cao hiệu quả dạy và
học tác phẩm thơ.
Trong chuyên đề này, tôi sẽ nêu lên tầm quan trọng của việc tìm hiểu thể thơ
khi phân tích tác phẩm thơ. Đồng thời, tôi cũng nêu lên những đặc điểm cơ bản của
các thể thơ trong chương trình Ngữ văn 7 như thể thơ lục bát, song thất lục bát, thất
ngôn bát cú,… mà theo tôi người giáo viên cần phải trang bị cho mình và cung cấp
thêm cho học sinh.
NỘI DUNG
I. Thực trạng của việc nhận diện thể thơ trong dạy học các tác phẩm thơ ở
Trường THCS Vĩnh Thịnh.
Việc nhận diện thể thơ thường được người biên soạn SGK yêu cầu thông qua
một số câu hỏi ở phần Đọc- Hiểu văn bản. Song một số giáo viên chỉ thực hiện
chiếu lệ chứ chưa thực sự đi sâu vào phân tích đặc điểm của các thể thơ với nhiều lí
do. Một phần là do hiểu biết của giáo viên về thể thơ còn hạn chế. Phần lớn thời
lượng của tiết dạy chi phối, không cho phép giáo viên đi sâu hơn nội dung mà đa số
giáo viên cho là ít quan trọng. Điều này ít nhiều cũng ảnh hưởng đến quá trình hình
thành năng lực cảm thụ thơ ca của học sinh, làm cho quá trình đó thiếu tính toàn
diện.
II. Tầm quan trọng của việc tìm hiểu thể thơ.
Như tôi đã nói trên, một trong những cách chuyển tải tư tưởng, tình cảm của
nhà thơ là lựa chọn thể thơ phù hợp với nhu cầu sáng tác của mình. Để thể hiện tình
cảm chứa chan thắm thiết, nhiều nhà thơ đã lựa chọn cho tác phẩm của mình thể thơ
lục bát- một thể thơ mang âm hưởng của lời ca tiếng hát, uyển chuyển, mềm mại, dễ
đọc, dễ nhớ. Hoặc để thể hiện tâm trạng đau buồn, mong nhớ thì lựa chọn tối ưu của
người viết chính là thể thơ song thất lục bát…. Như vậy, người đọc nắm được đặc
điểm của thể thơ thì phần nào cũng đã nhận ra được tư tưởng tình cảm mà tác giả đã
gửi gắm vào đó.
Bên cạnh đó, các yếu tố vần, niêm, luật, đối trong từng thể thơ cũng góp
phần quan trọng trong việc tạo ra âm hưởng của bài thơ. Nếu nắm chắc các yếu tố

này thì việc hướng dẫn phân tích và tìm hiểu văn bản thơ sẽ được dễ dàng hơn.
III. Đặc điểm cơ bản của một số thể thơ trong chương trình Ngữ văn 7.
1. Thể thơ lục bát.
Lục bát là thể thơ cổ truyền của người Việt từ lâu đã ăn sâu bắt rễ trong nhân
dân. Nó đã có sẵn trong kho tàng ca dao, tục ngữ truyền từ bao đời nay, đặc biệt ấn
tượng trong lời ru của bà, của mẹ.
Gọi là thơ lục bát vì trong bài thơ có hai cặp câu: trên sáu (lục), dưới tám
(bát) song hành liên tiếp với nhau cho đến khi diễn tả trọn vẹn thì dừng.
Ví dụ: Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. ( Ca dao)
Thông thường bài thơ lục bát dừng ở câu bát. Tuy nhiên cũng có trường hợp
ngoại lệ tùy theo cảm xúc và quyết định của tác giả.
Một bài thơ, một câu thơ đi vào lòng người ngoài nội dung truyền tải phải là
một khúc ca. Lục bát có đầy đủ thuộc tính đó vì vần và nhịp điệu của lục bát rất
uyển chuyển, dễ thuộc:
a. Vần của thơ lục bát:
Vần là những từ cùng âm điệu tạo nhịp cầu nối liền về âm luật cho người đọc
dễ nhớ, dễ thuộc. Thơ lục bát chủ yếu gieo vần bằng. Vần của cả câu lục và câu bát
đều là thanh bằng. Chữ thứ sáu của câu lục vần với chữ thứ sáu của câu bát, chữ thứ
tám của câu bát vần với chữ thứ sáu của câu lục tiếp theo.
Ví dụ:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. (Ca dao)
b. Luật bằng trắc:
Đây là phần rất quan trọng tạo nên nhịp điệu và tiết tấu của thơ nói chung
trong đó có thơ lục bát.
- Thanh bằng: gồm thanh ngang (không dấu), thanh huyền- viết tắt là B.
- Thanh trắc: gồm các thanh sắc, nặng, hỏi, ngã- viết tắt là T.

- Vần viết tắt là V.
- Luật bằng trắc:
+ Câu lục: B B T T B B (V)
+ Câu bát: B B T T B B (V) T B (V)
Tuy luật bằng trắc đã quy định như trên, nhưng những chữ thứ 1, 3, 5, 7
không bắt buộc theo luật bằng trắc. Còn các chữ thứ 2, 4, 6, 8 bắt buộc phải đúng
theo luật. Trong câu bát , nếu tiếng thứ sáu là thanh ngang (bổng) thì tiếng thứ tám
phải là thanh huyền (trầm) và ngược lại.
Ví dụ: Anh em nào phải người xa
B B B T B BV
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân (Ca dao)
B B T T T BV B BV
c. Nhịp điệu:
Trong thơ lục bát việc ngắt nhịp không cố định. Có khi là nhịp 2, nhịp 3, nhịp
4, nhịp 5, xen kẽ nhau theo giai điệu.
Thể thơ lục bát cơ bản là thể thơ chỉnh chu với những quy định rõ ràng về
vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể.
Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có
khi xê dịch phối thanh, hiệp vần đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do
nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6-8
thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục
bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể
lục bát.
2. Thể thơ song thất lục bát.
Ngoài thể thơ bảy chữ, thơ lục bát thì thể thơ song thất lục bát là một thể thơ
đặc biệt của dân tộc, thơ song thất lục bát ra đời trên cơ sở kết hợp từ thể thơ lục bát
và thể thơ bảy chữ vốn có trong thơ ca dân gian.
Như vậy, có thể nói rằng thể thơ song thất lục bát ra đời muộn hơn thể thơ lục
bát trên cơ sở kế thừa những nét tinh hoa đặc trưng của thể loại này và nét độc đáo
của thơ ca dân gian.

Thể thơ này thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng phù hợp cho việc
diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. Thể song thất và lục bát kết kết
hợp nhau làm cho tình cảm vốn đa chiều, phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt
với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu. Chính những đặc trưng của thể
thơ góp phần thể hiện nội dung của bài ca dao được sâu sắc và diễn đạt nhiều cung
bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Dựa vào kết cấu của bài thơ mà tên gọi song thất lục bát được hình thành.
Song thất lục bát là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (song thất) thì có một dòng sáu chữ
và một dòng tám chữ (lục bát), kết cấu thành từng khổ mỗi khổ có bốn câu, cũng
như thể thơ lục bát và một vài thể thơ khác thì trong thể thơ song thất lục bát không
hạn chế về dung lượng câu trong một tác phẩm.
a. Cách hiệp vần.
Cách hiệp vần trong thơ song thất lục bát tương đối khó hơn các thể thơ khác,
chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ hai (đều
là thanh trắc). Chữ thứ bảy của dòng bảy thứ hai hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng
lục tiếp theo (đều thuộc thanh bằng). Chữ thứ sáu của dòng lục hiệp vần với chữ thứ
sáu của dòng bát (đều thuộc thanh bằng).
Ví dụ: Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chữ cuối của câu tám vần với chữ thứ năm của câu bảy tiếp theo(đều thuộc
thanh bằng). Tuy nhiên, chữ cuối của câu tám vần với chữ thứ ba của câu bảy tiếp
theo, biến đổi âm trong vần chữ này đổi sang vần bằng do đó chữ thứ ba trong câu
thứ bảy trên có thể trắc hay bằng.
Câu thơ song thất lục bát cũng có thể giản rộng ra bằng cách thêm vào một số
chữ. Lúc đó ta có song thất lục bát biến thể, nghĩa là không theo đúng quy luật của
nó nữa.
Một bài thơ song thất lục bát nếu được mở đầu bằng một cặp lục bát rồi mới
đến hai câu thất thì ta gọi đó là lục bát gián cách.

b. Nhịp thơ.
Hai câu thất thường dùng nhịp 3/4 và hai câu lục bát thường sử dụng nhịp đôi
2/2. Đôi khi kết cấu nhịp lại thay đổi, sự thay đổi này gắn liền với tâm trạng.
c. Về đối.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật cần nhắc đến khi nghiên cứu về thể thơ
song thất lục bát chính là đối (các chi tiết đối phải cân với nhau về nhiều bình diện).
Một số kiểu đối được sử dụng như:
- Bình đối: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại > < Bến Tiêu Tương
thiếp hãy trông sang
- Tiểu đối: Hình khe > < thế núi/ gần > < xa
- Đối ngữ đoạn: Xông pha, gió bãi > < trăng ngàn
d. Phối thanh:
Chữ thứ năm và chữ thứ bảy của dòng thất đầu tiên là bằng và trắc, dòng thất
ở dưới thì ngược lại. Thanh bằng trắc trong câu sáu- tám giống như trong thơ lục
bát.
3. Thất ngôn bát cú.
Thể thất ngôn bát cú là thơ Đường chuẩn luật, gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Sau
đây là một số điểm khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:
a. Bố cục:
- Đề gồm:
+ Câu phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.
+ Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.
- Thực gồm câu 3 và câu 4: giải thích, khai triển tựa đề.
- Luận gồm câu 5 và câu 5: bàn luận ý nghĩa của bài.
- Kết gồm câu 7 và câu 8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm và thái độ.
b. Luật lệ căn bản:
* Vần: Trong thơ thất ngôn bát cú chỉ gieo một vần, gọi là độc vận rơi vào
năm chữ cuối của năm câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5
chữ này tránh trùng lặp nhau, phải hiệp vần cho đúng nêu sai gọi là lạc vận, gieo
vần không sát gọi là gượng ép. Vần có vần chân và vần lưng.

Ví dụ: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta. (Qua đèo Ngang)
* Đối: Là phép đặt hai câu thơ đối nhau gồm có:
- Đối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động
từ
- Đối ý: Ví dụ cảnh dưới núi đối với cảnh bên sông, cảnh động đối với cảnh
tĩnh nhứ trong hai câu: Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà. (Qua đèo Ngang)
Trong thể thơ này , hai câu thực phải đối nhau, hai câu luận phải đối nhau.
* Luật: Các tiếng 1, 3, 5 không ràng buộc phải theo luật bằng trắc. Tiếng thứ
2 và 6 phải là vần bằng, tiếng thứ 4 phải là vần trắc hay ngược lại.
Ví dụ: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
T T B B T T B
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
T B B T T B B
* Niêm: Nghĩa là dán lại cho dính. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp
các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu , hay nói cách khác niêm là sự
liên lạc về âm luật giữa hai câu thơ với nhau. Trong bài Đường luật, câu 1 và 8, 2 và
3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau. Hai chữ thứ hai phải cùng một thanh.
Ví dụ: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
T
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
B
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

B
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
T
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
T
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
B
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
B
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
T
4. Các thể thơ khác.
a. Cổ phong (hay cổ thể):
Là một thể thơ cổ có từ nhiều thời đại trước đời nhà Đường. Về sau trở thành
tên gọi chung cho tất cả thơ ngũ ngôn, thất ngôn mà không theo luật, không theo
niêm luật, không hạn chế số câu, chữ như thơ Đường luật.
Thơ Cổ phong có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng
vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có luật bằng trắc xen nhau cho dễ
đọc.
b. Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Thất ngôn tứ tuyệt thực chất là một bài thất ngôn bát cú đem bỏ đi bốn câu
đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật
đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6.
c. Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Ngũ ngôn tứ tuyệt thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ hai chữ đầu ở
mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
IV. Kết quả đạt được.
Trong thời gian dạy Ngữ văn 7, tôi đã vận dụng những kiến thức trên vào
việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản thơ . Qua đó, nhiều học sinh đã nắm được
một số kiến thức cơ bản về các thể thơ, bước đầu vận dụng nhận diện thể thơ, xác

định vần, luật bằng trắc, phép đối trong thơ Đường luật Các em đã hạn chế tình
trạng cảm thụ tác phẩm thơ một cách phiến diện mà đã từng bước tiếp thu thơ ca
thông qua những giá trị nghệ thuật của nó. Tuy các em chưa vận dụng được một
cách thành thạo nhưng tôi tin rằng đây là một sự trang bị cần thiết cho quá trình
hình thành năng lực cảm thụ thơ ca của các em.
KẾT LUẬN
Kiến thức là vô tận. Con người phải thường xuyên học tập để tự hoàn thiện
bản thân. Xã hội đã giao cho thầy cô giáo sứ mệnh trồng người thì mỗi giáo viên
cũng phải thường xuyên trau dồi tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn. Có như
vậy chúng ta mới hoàn thành được trọng trách của mình.
Kiến thức về các thể thơ rất nhiều và phức tạp. Trên đây tôi chỉ chọn lọc và
nêu ra các vấn đề mà theo tôi đó là cơ bản nhất. Trong quá trình thực hiện chuyên
đề này tôi cũng đã tham khảo một số tài liệu có liên quan. Nó có thể đáp ứng được
nhu cầu dạy và học các tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn 7. Và tôi hi vọng
là nó sẽ giúp ích cho các đồng nghiệp. Nếu có vấn đề nào tôi chưa nêu hoặc nêu
chưa đúng rất mong quý đồng nghiệp đóng góp ý kiến để chuyên đề này ngày càng
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vĩnh Thịnh, ngày 13 tháng 01 năm 2014
Người viết
Nguyễn Thị Phượng Vĩ

×