Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Nghiên cứu tác động của người dân xã Đức Bình và Đức Thuận đến tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn thiên nhiên Núi Ông, tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.76 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
Là một nước nhiệt đới với 3/4 diện tích đất đai là đồi núi, trong đó có rừng,
Việt Nam rất giàu có về đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này không những có
vai trò quan trọng đối với toàn xã hội, có ý nghĩa quốc gia, mà còn là nguồn sinh kế
chủ yếu của con người, đặc biệt đối với các cộng đồng sống trong và gần rừng. Từ
năm 1962 đến nay (2007), Việt Nam đã thành lập một hệ thống các khu rừng đặc
dụng, gồm hơn 105 Vườn quốc gia (VQG) và Khu Bảo tồn thiên nhiên (KBTTN)
[9]. Hầu hết các VQG và KBTTN này nằm ở vùng núi và là nơi có các cộng đồng
dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy, việc lợi dụng tài nguyên rừng để đáp ứng yêu
cầu của cuộc sống đã và đang là một thực tiễn xảy ra hàng ngày hàng tháng ở những
nơi này .
Đối với người dân địa phương sống trong các vùng đệm của VQG hay
KBTTN, việc tác động vào rừng nhiều hay ít phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, kể cả
tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa, tôn giáo. Bắt đầu từ những thay đổi về vị trí
nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, nguồn sản phẩm sẵn có từ rừng, dẫn
tới nhiều thay đổi khác liên quan tới tập quán canh tác, sinh kế và văn hóa. Tài
nguyên rừng (TNR), nguồn sống chủ yếu của người dân vùng núi bao đời nay
dường như không còn là của họ. Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác
chưa bù lại được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã có mâu thuẫn giữa
VQG, KBTTN và các cộng đồng địa phương. Khi chưa tìm được tiếng nói chung
đối với việc bảo tồn TNR thì việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào
rừng như là một tất yếu.
Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông nằm trên địa bàn huyện Tánh Linh, tỉnh
Bình Thuận được thành lập muộn hơn so với các KBT khác trong cả nước. Căn cứ
quyết định số 50/2001/QĐ-TTg ngày 10/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc
điều chỉnh phạm vi ranh giới và đổi tên thành Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông.
Thực hiện Quyết định 674/QĐ-UBND ngày 13/3/2007 của UBND tỉnh Bình Thuận
về việc điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2006-
1
2010. KBTTN Núi Ông có tổng diện tích là 25.327 ha, trong đó: diện tích rừng đặc
dụng: 24.017 ha, diện tích rừng sản xuất: 1.310 ha [27].


Do vị trí nằm ở vùng địa hình chuyển tiếp từ phía Nam dải Trường Sơn đến
Đông Nam bộ, nên hệ động và thực vật rừng phong phú ở đây có quan hệ chặt chẽ
với hệ động, thực vật của dãy Trường Sơn Nam và miền Đông Nam bộ. Việc thành
lập KBTTN với chức năng để bảo tồn tính đa dạng sinh học, bảo tồn quần thể cây
họ Dầu và họ Đậu đặc trưng của miền Đông Nam Bộ, bảo đảm tác dụng phòng hộ
từ xa cho thủy điện Trị An và cho tỉnh công nghiệp Đồng Nai. KBTTN Núi Ông nối
liền với BQL rừng Hàm Thuận-Đa Mi, BQL rừng phòng hộ Sông Móng-kapet của
Bình Thuận làm thành vùng sinh thái rộng gần 100.000 ha và là môi trường sinh
sống cho các loài động vật rừng.
Do lịch sử hình thành KBTTN Núi Ông nằm trên địa bàn 6 xã của 2 huyện
Tánh Linh và Hàm Thuận Nam với số dân sống trong khu vực của KBTTN khoảng
9.957 hộ. Tình hình phân bố dân cư như vậy gây khó khăn rất lớn cho công tác quản
lý bảo vệ rừng (KBTTN Núi Ông, 2010). Mặc dù tỉnh đã triển khai nhiều chương
trình dự án để tạo công việc, nâng cao đời sống người dân trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, bảo vệ rừng, nhưng chỉ giải quyết tạm thời trong một thời gian nhất
định. Trong đó có việc giao khoán rừng bảo vệ nhưng đã không đạt được kết quả
như mong đợi, người dân lại vào rừng chặt cây, đốn củi, canh tác trái phép. Nhìn
chung các chương trình, dự án chưa giải quyết được vấn đế cơ bản đời sống của
người dân, vì vậy, việc tác động trái phép vào rừng vẫn tiếp tục xảy ra và dẫn đến
làm suy giảm TNR [27].
Các ngành, các cấp của tỉnh Bình Thuận và huyện Tánh Linh có chiến lược
quan tâm đầu tư cho công tác quản lý bảo vệ rừng và đã cơ bản ngăn chặn phá rừng,
nhưng việc xâm hại rừng lén lút vẫn xảy ra. Câu hỏi đặt ra là những nguyên nhân
nào dẫn đến tình trạng đó? và có thể có giải pháp nào làm giảm thiểu được những
tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR của KBTTN Núi Ông hay
không?.
2
Để trả lời những câu hỏi trên, đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu tác động của
người dân xã Đức Bình và Đức Thuận đến tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn
thiên nhiên Núi Ông, tỉnh Bình Thuận” được lựa chọn. Giả thuyết chính được đặt

ra cho đề tài này là sự tác động của cộng đồng có thể nâng cao đời sống của cộng
đồng vốn phụ thuộc vào tài nguyên rừng; ngược lại cũng có thể đem lại một kết
cục là tài nguyên bị suy giảm cả chất và lượng. Theo đó, chiều hướng, hình thức
và mức độ tác động phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội và quan hệ hai
chiều giữa người dân và tài nguyên rừng. Để có đủ cơ sở lý luận khoa học, đề tài
này cố gắng thực hiện việc nghiên cứu một cách có hệ thống ở trường hợp cụ thể
của một cộng đồng và đặt nó trong bối cảnh quản lý chung của tỉnh, huyện và Ban
quản lý KBT. Đề tài hy vọng rằng, cách đặt vấn đề này có thể cung cấp các thông
tin thiết yếu để làm nền tảng xây dựng những giải pháp phù hợp trong việc quản lý
và phát triển hệ sinh thái rừng tự nhiên theo hướng bền vững và ổn định, phát huy
những chức năng có lợi do chúng mang lại.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên liên quan cứu trên thế giới
1.1.1 Quan điểm của nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ thống;
quan điểm sinh thái nhân văn; quan điểm bảo tồn và phát triển; phương pháp tiếp
cận có sự tham gia.
(i) Vận dụng lý thuyết hệ thống
Hệ thống được hiểu là cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao gồm nhiều
bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật tự tồn tại và vận
động theo những qui luật thống nhất. Mỗi hệ thống luôn bao gồm những hệ thống
thành phần (nhỏ hơn) hay còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật hiện tượng đều nằm
trong hệ thống và mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn [17].
Sự tác động của người dân đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế xã
hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Nó là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi vì
mức độ tác động của người dân gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người
như sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc…Sự tác động
này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi

nhuận trước mắt và hiệu quả kinh tế thường quyết định tới hình thức sử dụng TNR
của người dân địa phương. Ngược lại, mức độ giàu có của TNR cũng tác động
mạnh mẽ tới nguồn thu của người dân địa phương. Chính quan hệ chặt chẽ giữa tác
động của người dân địa phương đến TNR với các yếu tố kinh tế nên có thể làm
giảm thiếu tác động bất lợi tới tài nguyên rừng bằng cách tác động vào các yếu tố
kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác
động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng và nghiên cứu đề xuất
giải pháp kinh tế để giảm thiếu tác động bất lợi này.
4
Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động xã hội vì các
hoạt động này là của con người. Sự tác động bị chi phối bởi các yếu tố xã hội như
nhận thức của người dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về luật pháp, trách
nhiệm của cộng đồng, tập quán sử dụng TNR. Sự tác động của người dân địa
phương còn phụ thuộc vào những vấn đề như thể chế và chính sách, chính sách đối
với người dân trong KBT, hệ thống quản lý, việc thực thi luật Bảo vệ và Phát triển
rừng. Các tổ chức cộng đồng và những qui định của cộng đồng cũng có ảnh hưởng
tới những tác động của người dân địa phương vào TNR. Sự hiện diện của chúng sẽ
hỗ trợ nhà nước trong việc tuyên truyền chính sách, gắn kết người dân thành cộng
đồng thống nhất trong việc thực thi quản lý bảo vệ TNR. Vì vậy, đề tài nghiên cứu
các nguyên nhân xã hội chi phối sự tác động của người dân địa phương đến TNR và
nghiên cứu các giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu những tác động bất lợi đối với
TNR này [21].
TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ chặt
chẽ. Bất cứ tác động nào từ bên ngoài tới TNR dẫn đến sự thay đổi các thành phần
và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại khách quan và vận động theo qui luật
tự nhiên. Vì vậy để bảo tồn TNR, những tác động của con người phải phù hợp với
qui luật tự nhiên và giảm thiếu những tác động bất lợi tới nó [21].
(ii) Quan điểm sinh thái nhân văn
Thực tế cho thấy, các hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng hay trong
mỗi hộ gia đình đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc điểm sinh thái và

mối quan hệ kinh tế xã hội. Điều này chỉ ra rằng, các hoạt động trong cộng đồng
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào đó giữ vai trò quan trọng
trong cộng đồng này vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng trong thời
điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để nghiên cứu sự tác động bất lợi của người
dân đến TNR, chúng tôi dựa theo tháp sinh thái – nhân văn của Park đề xuất năm
1936 (dẫn theo Võ Văn Thoan và Nguyễn Bá Ngãi (2003) [17]; Ngô Ngọc Tuyên
(2007) [21]).
5
¶nh hưởng Các yếu tố
Hình 1.1: Tháp sinh thái – nhân văn (mô hình của Park, 1936)
Theo Võ Văn Thoan và Nguyễn Bá Ngãi (2003), mô hình sinh thái - nhân
văn được Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động xã hội của cộng đồng
chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo trình tự: Bậc sinh thái, bậc
kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô hình này đề cập đến quan hệ
giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các hoạt động của cá nhân và sự bền
vững [17]. Dựa trên hình tháp này có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động bất lợi
của người dân đến TNR và phát triển kinh tế - xã hội địa phương là quan hệ có xu
hướng nghịch; tức là khi kinh tế - xã hội địa phương càng phát triển, điều kiện sống
về vật chất, tinh thần được đảm bảo và công tác bảo tồn TNR được thực hiện tốt thì
tác động bất lợi tới TNR sẽ giảm.
Bậc sinh thái là sự tác động bất lợi của người dân địa phương vào TNR đều
có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Cơ sở sinh
thái được giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học và chia làm 2 loại: (i) những yếu
tố không thể kiểm soát được như khí hậu, thuỷ văn, địa hình…và (ii) những yếu tố
có thể kiểm soát được cần nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học công nghệ.
6
Tác động
bất lợi
của người
dân địa

phương
tới TNR
Phát triển
kinh tế -
xã hội địa
phương
và bảo
tồn TNR
Bậc đạo
đức
Bậc thể
chế
Bậc kinh
tế
Bậc sinh
thái
-Các yếu tố văn
hoá
-Các yếu tố thể
chế, chính sách
-Các yếu tố kinh
tế
-Các yếu tố sinh
thái- công nghệ
Bậc kinh tế như sinh kế, mức sống của người dân địa phương, nhu cầu thị
trường, những nhân tố này có ý nghĩa đối với sự tác động của người dân địa phương
tới TNR.
Bậc thể chế được giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức cộng
đồng … ảnh hưởng gián tiếp tới những tác động của người dân địa phương đến tài
nguyên rừng.

Bậc đạo đức được hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức độ cao hơn nữa
là văn hóa của các cộng đồng dân cư. Mọi tác động của các yếu tố khác có thể làm
thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
Theo logic của tháp sinh thái nhân văn thì bất kỳ giải pháp nào nhằm giảm
thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn và phát triển TNR đều phải dựa trên
cơ sở sinh thái và bảo đảm được các yếu tố về kinh tế xã hội của người dân địa
phương (Ngô Ngọc Tuyên, 2007 [21]).
(iii) Quan điểm bảo tồn và phát triển
Theo Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và phát triển
là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển của địa phương,
bao gồm ba thành phần chính (cách tiếp cận) sau [3]:
- Thứ nhất là, nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phương đó có thể đáp
ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hưởng của nó lên tài nguyên sẽ được giảm
bớt và tài nguyên được bảo tồn: Cách tiếp cận các giải pháp thay thế sinh kế.
- Thứ hai là, nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào quan
tâm đến mặt bảo tồn được vì những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng còn chưa được
đáp ứng thì trước hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tế - xã hội của họ đủ tốt để
họ có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên: Cách tiếp cận phát
triển kinh tế.
- Thứ ba là, cộng đồng địa phương đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên nếu như họ có thể tham gia một cách tích cực vào việc qui hoạch và
7
quản lý sử dụng tài nguyên và được chia sẻ lợi nhuận từ tài nguyên đó. Theo cách
này, tài nguyên có thể được bảo tồn trong khi một số nhu cầu cơ bản của người dân
được đáp ứng thông qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và
bền vững: Cách tiếp cận tham gia qui hoạch.
(iv) Phương pháp tiếp cận có sự tham gia
Sự tham gia định nghĩa như một quá trình, thông qua đó các chủ thể cùng tác
động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết định. Điều quan trọng là
người dân địa phương có khả năng trao đổi các triển vọng của họ về TNR với các

nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý và ngược lai, các cơ quan này có thể hiểu và
đáp ứng các nguyện vọng được nêu ra. Năm 1996, Hosley đưa ra 7 mức độ của sự
tham gia từ thấp đến cao, đó là tham gia có tính chất vận động, tham gia bị động,
tham gia qua hình thức tư vấn, tham gia vì mục tiêu được hưởng các hổ trợ từ bên
ngoài, tham gia theo chức năng, tham gia hổ trợ, tự huy động và tổ chức (dẫn theo
Bùi Việt Hải, 2007 [6]).
Trong nghiên cứu này, phương pháp tiếp cận cùng tham gia được áp dụng,
trong đó người dân địa phương tham gia ở mức độ 3, tức là tham gia qua hình thức
tư vấn, cung cấp thông tin. Các phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và
phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) sẽ được sử dụng để thu thập
thông tin cho nghiên cứu. Các phương pháp này giúp thu thập và phân tích thông tin
của chính người dân địa phương, nên thông tin có thể sử dụng được cho nhiều nhu
cầu của địa phương như sự ủng hộ về quyền sử dụng tài nguyên, các giải pháp giải
quyết xung đột [4], [6], [12].
1.1.2 Các kết quả nghiên cứu ở rừng đặc dụng
Trên thế giới, các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn của các VQG
và KBTTN khẳng định rằng, để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý
gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hóa của người dân địa phương .Ở
Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG
một cách hợp pháp mà họ còn đựơc thừa nhận là chủ rừng của VQG và được tham
8
gia quản lý thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur
(Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [9].
Ở Châu Á, sự tham gia của người dân địa phương vào công tác bảo tồn đa
dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả. Lý do để khuyến
khích sự tham gia này là nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra
khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương diện quản
lý TNR và kinh tế xã hội. Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ
đến một nơi mới chẳng khác nào “bắt cá khỏi nước“ và khi đó các lực lượng khác
có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương

có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế
cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [19],
[28].
Năm 1989, Cục lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái Lan (The Royal Forest
Department) thành lập các khu bảo tồn để bào vệ diện tích rừng còn lại. Điều này đã
dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương với các ban quản lý. Một thử
nghiệm của dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” thực hiện tại
Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan đã được tiến
hành. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu
hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng
đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ (dẫn theo Nguyễn
Thị Phượng [14]).
Theo đó, các nguyên tắc được lập ra trong công tác quản lý tài nguyên thiên
nhiên và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia năm 1992-1996 là “Khuyến
khích người dân cộng tác với chính phủ, trong bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thông
qua việc đề cao vai trò của các tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ, từ trung
ương đến địa phương; trong việc quyết định các dự án quản lý tài nguyên thiên
nhiên cũng như trong việc theo dõi, giám sát và đánh giá thành công của dự án
này”. Nhận rõ sự cần thiết phải xem xét điều kiện kinh tế xã hội xung quanh KBT,
9
các nhà quy hoạch quản lý đã bắt đầu đề xuất và thiết lập các vùng đệm để ngăn
chặn sự xâm hại từ bên ngoài vào các KBT [19].
Tại Nepan, Apple Gate và Gilmour (1987) trong khi nghiên cứu kinh nghiệm
tác nghiệp trong việc quản lý phát triển rừng tại vùng đồi Nepan đã hình thành mối
quan hệ giữa rừng và các hệ canh tác hỗn hợp ở trung du miền núi. Tác giả cho
rằng, các hệ canh tác phụ thuộc nhiều vào rừng đang bị suy thoái nhanh. Sự bền
vững lâu dài của các hệ canh tác phụ thuộc vào việc gia tăng về diện tích dưới bất
cứ các dạng che phủ thực vật nào [28].
Ở Philippines, chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học nêu rõ rằng:
”Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải bảo đảm

rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi
quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế
hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học” [19].
Theo Peluso (1986), tại Indonesia đã công bố một bản tóm tắt các kết quả
của việc nghiên cứu về lâm nghiệp xã hội (LNXH) tại 12 điểm dự án ở Java và
Sulawesi. Các ảnh hưởng qua lại giữa đất và rừng của nhà nước như: rừng sản xuất,
rừng trồng, rừng tự nhiên đều đã được nghiên cứu. Sản phẩm là những mặt hàng
sinh lời được và khó quản lý đối với cơ quan lâm nghiệp nhưng có giá trị to lớn đối
với nhân dân địa phương. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học ở Indonesia cũng
ghi nhận rằng: “Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng
sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục
tiêu chính của kế hoạch hành động và là điều kiện tiến quyết đối với việc thục hiện
kế hoạch [19], [28].
Bink Man (1988) trong tài liệu giới thiệu nghiên cứu định hình chi tiết về
làng Ban Pong, tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ
thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và
hoa quả trong rừng. Tuy nhiên, đây là một minh họa rất cần thiết của người dân địa
10
phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (dẫn theo
Bùi Minh Tân, 2009 [16]).
Năm 1986, trong tác phẩm “LNXH và hành động của cộng đồng” các tác giả
Dorji, Chavada, Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là nguồn cung cấp
gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và chuồng trại cho gia súc.
Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức ăn gia súc, lợi tức, công
ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất và nước trên vùng đất
dốc [28].
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Hệ thống chính sách và các vấn đề liên quan đến rừng đặc dụng
Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, kinh tế đất nước ở những năm đầu
sau chiến tranh khó khăn. Dân số Việt Nam hầu hết là nông dân, dân số tăng nhanh,

nhu cầu về đất canh tác đất nông nghiệp, về lương thực, nhu cầu về gỗ, lâm sản
ngoài gỗ (LSNG) ngày một gia tăng đối với cộng đồng dân cư sinh sống giáp rừng
và gần rừng của các KBT, VQG từ đó gây sức ép lên TNR [26].
Việc đầu tư quản lý bảo vệ và phát triển các khu rừng đặc dụng được nhà
nước quan tâm. Việc xây dựng triển khai, thực thi các chính sách, pháp luật của nhà
nước được coi trọng. Nhưng rừng vẫn bị xâm hại, một trong những nguyên nhân là
đời sống người dân sống trong rừng và ven rừng chưa được cải thiện. Vì thế, dẫn
đến có nhiều vi phạm và vi phạm nghiêm trọng vào rừng.
Việt Nam đã thành lập các khu rừng đặc dụng. Tháng 7/1962, Quyết định số
72/TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập khu rừng cấm Cúc Phương rộng 25.000
ha, sau này trở thành VQG đầu tiên của nước ta. Các năm sau đó, Chính phủ còn ra
các quyết định thành lập các khu rừng cấm như VQG Cát Bà (1968), Nam Cát Tiên
(1978); VQG Côn Đảo (1984); VQG Yok Don (1991); KBTTN đất ngập nước
Xuân Thuỷ (1994); KBTTN Tràm Chim Tam Nông (1994) v.v. Ngoài ra, các nhà
khoa học trong và ngoài nước đã phát hiện nhiều khu rừng có giá trị cao về đa dạng
sinh học không những đối với Việt Nam mà còn trong cả khu vực và thế giới như:
11
KBTTN Vũ Quang (Hà Tĩnh); Pù Mát (Nghệ An); Phong Nha (Quảng Bình); Xuân
Liên, Phù Luông (Thanh Hóa)… Từ đó đến nay, nước ta đã có trên 30 VQG và
hàng trăm khu rừng đặc dụng được thành lập (dẫn theo Nguyễn Thị Phượng, 2003
[14]).
Công tác bảo tồn phải được thực thi trên cơ sở các quy định pháp luật. Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi ban hành ngày 03/12/2004. Quyết định số
08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý xây
dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh
sống trong các KBT, VQG. Năm 2006 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, thay thế Quyết định số 08/2001/QĐ-
TTg; trong đó quản lý rừng đặc dụng được quy định rất cụ thể:
- Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan,
khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học…

- Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau: phân
khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu dịch vụ - hành
chính.
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến quan hệ người dân và tài nguyên rừng
Ở nước ta trong những năm gần đây, các nhà khoa học, nhà quản lý đã chú
trọng đến quan điểm bảo tồn – phát triển và nghiên cứu thực hiện các giải pháp giải
quyết mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội
của người dân địa phương.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên và các cộng tác
viên (1997) đã để cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa
phương vào rừng. Các tác giả đã chỉ ra rằng, diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc
Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác
như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh
kế chủ yếu của người dân miền núi [1].
12
Trần Ngọc Lân (1999) và các cộng sự đã kết luận rằng: Các nông hộ trong
vùng đệm KBT Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ khai thác
lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập của mỗi
nông hộ. Hiện nay, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về sinh kế, song mới chỉ có
rất ít ở các hộ có hiểu biết và có vốn đầu tư [11].
Đỗ Anh Tuấn (2001) đã thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBT Pù Mát cho
đề tài: Nghiên cứu ảnh hưởng của bảo tồn tới kế sinh nhai của cộng đồng địa
phương và thái độ của họ về chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay
đổi sinh kế của người dân địa phương do sự hưởng lợi của KBT và mức độ chấp
nhận của cộng đồng qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên
rừng. Nghiên cứu đã xác định các tỷ trọng thu nhập từ tài nguyên rừng trong tổng
thu nhập chung của thôn, nhưng chưa cụ thể cho từng dân tộc và từng nhóm kinh tế
hộ. Tác giả cho rằng, hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách
hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, 34% tổng thu nhập hằng năm của một hộ gia
đình trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình trong vùng bảo vệ

nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% -
71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương.
Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng
chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [19].
Vấn đề giảm đất canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là một thực
tế đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiên cứu của Đỗ Thị Hà (2002) cho rằng, sau khi
thành lập VQG Tam Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm
nghiệp tập trung vào một số chủ rừng, ảnh hưởng tới sự phân công lao động trong
hộ gia đình [5].
Với đề tài: “Đánh giá vai trò kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở hai thôn người
Dao tại xã Ba Vì” của Trần Ngọc Hải và cộng sự (2002); tác giả cho rằng: Lâm sản
ngoài gỗ, đặc biệt là nhóm tre hương và cây dược liệu đóng vai trò rất quan trọng
trong kinh tế hộ gia đình [8].
13
Nguyễn Thị Phượng (2003) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì – Hà Tây” đã vận dụng phần
mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các
nguyên nhân tác động. Tác giả chỉ ra rằng: cộng đồng ở đây chủ yếu sống bằng
nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa rất thấp. Vì vậy,
để giải quyết nhu cầu cuộc sống hằng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới
nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa, khai thác sản phẩm với
mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc…trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản
xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng
(36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng
của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [14].
Theo Quách Đại Ninh (2003) khi đánh giá tác động của chính sách giao đất
lâm nghiệp đến quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua nghiên cứu một số hộ
gia đình có đất lâm nghiệp và không có đất lâm nghiệp trong địa bàn xã Bắc An,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; tác giả kết luận rằng chính sách giao và khoán đất
lâm nghiệp đã làm thay đổi nhận thức của người dân vào rừng. Sau khi nhận đất,

các hộ gia đình yên tâm sản xuất và sử dụng đất một cách hợp lý nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống. Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra được một số mô hình sản xuất mà
người dân ưa thích, đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của
vùng nghiên cứu để các hộ gia đình tham khảo và phát triển sản xuất [13].
Hoàng Quốc Xạ (2005) với nghiên cứu “Tác động của cộng đồng địa phương
đến tài nguyên rừng vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ”, đã có sự kết hợp tốt
giữa phân tích định tính và định lượng trong việc tồ chức các hình thức tác động và
nguyên nhân tác động, tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp giảm thiểu tác động
bất lợi đến tài nguyên rừng và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của địa phương [23].
Gần đây nhất, nghiên cứu của Bùi Minh Tân (2009) về “tác động và sự phụ
thuộc của người dân đến tài nguyên rừng Khu bảo tôn thiên nhiên Vĩnh Cửu, Đồng
Nai” đã cho một số kết luận như sau [19]:
14
- Sự tham gia vào rừng của nhóm hộ giàu là ít hơn so với nhóm hộ trung
bình và nghèo, nhóm hộ giàu ít tác động vào rừng hơn nhưng thu nhập vẫn cao hơn
nhóm hộ trung bình và nghèo.
- Không có sự phụ thuộc về phương diện thống kê giữa tổng thu nhập vào
thu nhập từ đất lâm nghiệp, giữa tổng thu nhập vào thu nhập từ khai thác lâm sản và
giữa tổng thu nhập vào thu nhập từ chăn thả gia súc trong rừng.
- Các nguyên nhân dẫn tới những tác động bất lợi có: (i) Cơ cấu phân phối
đất canh tác rất không đều giữa các loại đất canh tác của nông hộ; (ii) Diện tích đất
canh tác rất nhiều ở đất lâm nghiệp và vườn hộ, ngược lại có quá ít ở đất hoa màu
và đặc biệt là lúa nước.
Tóm lại
Qua các nghiên cứu về tác động qua lại giữa con người và TNR cả trên thế
giới và ở Việt Nam trong thời gian qua, kết quả đã đề cập đến nhiều mặt khác nhau
của vấn đề nghiên cứu.
- Trước hết, các nghiên cứu trên thế giới đã phân tích định tính về sự phụ
thuộc của các cộng đồng dân cư vào tài nguyên và khẳng định cần thiết phải có sự
tham gia của người dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy nhiên, còn ít các

nghiên cứu định lượng xác định những tác động của cộng đồng vào TNR và những
nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tác động đó.
- Tiếp theo, một số nghiên cứu đã phân tích phương pháp lý luận và thực tiễn
để nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và TNR. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập
trung nhiều ở vùng đệm của các VQG hoặc KBT mà chưa chú ý mở rộng ở các địa
phương khác nhau, loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất.
- Các nghiên cứu ở Việt Nam đã thực hiện đã phân tích, đánh giá sự phụ
thuộc của cộng đồng địa phương vào rừng và đất rừng. Nhưng chưa đưa ra được các
giải pháp để giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên
rừng. Một số nghiên cứu trong những năm gần đây đã để cập đến vấn đề tác động
15
của cộng đồng địa phương tới tài nguyên rừng nhưng chỉ giới hạn ở tác động của
cộng đồng địa phương ở vùng đệm đến các VQG hoặc KBTTN.
- Mặt khác, các nghiên cứu cũng chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu,
chỉ số để đánh giá mức độ tác động của các dân tộc khác nhau, loại hộ khác nhau
nên các giải pháp còn chung chung, không tập trung vào giải quyết những khó khăn
thực tế của người dân. Vì vậy, những vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu trong
thời gian tới.
16
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm tự nhiên Khu BTTN Núi Ông
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Diện tích 25.327 ha, bao gồm: 30 tiểu khu, thuộc địa bàn hành chính 2 huyện
Tánh Linh và Hàm Thuận Nam, có vị trí địa lý như sau:
- Vĩ độ Bắc : 10
0
59


- 11
0
10

.
- Kinh độ Đông: 107
0
32

- 107
0
52.

+ Địa hình
Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có nhiều đỉnh núi cao 1000 m, đặc biệt có
đỉnh Núi Ông cao 1.302m.
+ Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình với đặc trưng có 2 mùa rõ rệt:
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
* Chế độ nhiệt
Nhiệt độ trung bình năm 25,4
0
C.
Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối 37,8
0
C.
Nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 9,6
0
C.
*Chế độ mưa ẩm.

Lượng mưa bình quân năm 2.185 mm
Lượng mưa cao nhất 2.854 mm
Lượng mưa thấp nhất 1.308 mm
Số ngày mưa trong năm 148 ngày.
17
Chủ yếu tập trung vào các tháng 7, 8, 9
Lượng bốc hơi bình quân năm 840 mm
Ẩm độ không khí bình quân năm 83,6%
* Chế độ nhật chiếu.
Tổng giờ nắng bình quân năm 2.124 giờ.
Số giờ nắng bình quân ngày 5,9 giờ.
* Chế độ gió
Có hai hướng gió chính hàng năm là Đông Nam và Tây bắc.
- Gió Đông Nam thổi từ tháng 5 đến tháng 11.
- Gió Tây Bắc thổi từ 12 đến tháng 4 năm sau.
Tốc độ gió trung bình 2,3 m/s. Bão và sương muối ít xuất hiện.
+ Thủy văn
Nguồn nước trong KBTTN Núi Ông khá dồi dào, có nguồn nước quanh
năm, bao gồm các sông như: sông La Ngà, sông Các, sông Phan, sông Mong, sông
Dịch, sông Kapét. Mực nước ngầm trong khu vực thấp, được phân bố ở độ sâu từ 3
– 5 m. Đây là yếu tố thuận lợi để thực vật rừng sinh trưởng và phát triển.
2.1.2. Tài nguyên động thực vật
+ Động vật
Hệ động vật khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông gồm có 247 loài động vật:
Lớp Số bộ Số họ Số loài
Thú- Mammalia
Chim- Aves
Bò sát- Reptilia
Ếch nhái- Amphibia
11

17
3
1
26
42
13
4
68
131
33
15
Đặc điểm hệ động vật Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông nằm ở cực Nam
Trung bộ, tiếp giáp khu Nam bộ nên lòai động vật ở đây mang tính chuyển tiếp giữa
18
khu Nam Trung bộ và Nam bộ. Động vật quý hiếm theo sách đỏ Việt Nam thì Khu
bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có 53 lòai: 31 lòai thú, 7 lòai chim, 15 lòai bò sát. Tình
hình động vật Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông được đánh giá là hệ động vật rừng
rất đa dạng và phong phú vào diện bậc nhất ở các tỉnh duyên hải miền Trung. Tài
nguyên động vật rất qúy hiếm, mật độ và trữ lượng cá thể lòai thuộc lọai trung bình
nghèo.
+ Thực vật
Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có 1.070 lòai, nằm trong 4 ngành thực vật
chính thuộc 49 bộ, 149 họ và 560 chi. Riêng ngành Hạt kín (Ngọc lan) có 989 lòai
thuộc 42 bộ, 122 họ và 516 chi.
Trong 1070 lòai thực vật được ghi nhận tại KBTTN Núi Ông, có:
• 135 loài cây gỗ lớn, chiếm 12,6%.
• 207 loài cây gỗ nhỏ, chiếm 19,3%.
• 235 loài cây tiểu mộc, chiếm 22%.
• 180 loài dây leo, chiếm 16%.
• 188 loài cỏ, chiếm 17,6%.

• 75 loài khuyết thực vật, chiếm 7%.
• 50 loài thực vật phụ sinh, chiếm 4,7%.
Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có 35 loài thuộc nguồn gien qúy hiếm nằm
trong 4 cấp đánh giá về mức độ quý hiếm Sách đỏ Việt Nam. Trong đó có loài Lim
xanh (Erythorophleum fordii). Lim là loài cây gỗ lớn thuộc họ Vang
(Caesalpininoideae) mới được phát hiện, có phân bố tự nhiên ở khu vực Núi Ông
mà các tỉnh phía Nam không có. Một số loài thực vật qúy hiếm khác như: Cẩm lai
(Dalbergia bariensis Pierre), Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Chụt chạt (Baccaurea
sylestris), Giáng hương qủa to (Pterocarpus sp. Kosf), Kim giao lá nhỏ
(Podocarpus wallichianus), Thông tre Nam bộ (Podocarpus annamensis), Trắc mật
(Dalbergia cochinchinensis P.), Trầm hương (Aguilaria crassna), Vắp (Mesua
19
ferrea), Lim xanh (Erythorophleum fordii), Bồng (Lophopetalum wallichii), Căm xe
(Xylia xylocarpa), …
Đặc điểm nổi bật quan trọng là hệ thực vật Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông
mang các yếu tố Đông Dương và Malaixia thuộc vùng hệ thực vật Ấn Độ-Mã Lai,
cũng chứa đựng phần nào yếu tố châu Phi, châu Úc. Ngoài ra, hệ thực vật Khu bảo
tồn thiên nhiên Núi Ông còn hiện diện một số loài trong các họ thực vật cổ xưa
thuộc hai khu hệ thực vật cổ xưa á nhiệt đới và nhiệt đới.
Từ những yếu tố trên cho thấy Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông có những
thực vật đa dạng và phong phú, là kho tàng tài nguyên vô cùng quý giá của quốc
gia, không những có giá trị to lớn về phòng hộ bảo vệ môi trường mà còn có giá trị
cao về nghiên cứu khoa học, về tính đa dạng sinh học.
2.2. Tình hình dân số các xã có địa giới hành chính trong Khu bảo tồn
+ Tổng số xã, thị trấn: 6 xã và 1 thị trấn.
+ Tổng dân số: 43.787 nhân khẩu
+ Tổng số hộ: 9.957 hộ
+ Bao gồm 12 dân tộc: K’ho, Kinh, Chơ-ro, Tày, Hoa, Thái, Mường, Dao,
Nùng, Raglai, Chăm, Khơ Me.
2.2.1 Đặc điểm tự nhiên và xã hội khu vực xã Đức Bình

Diện tích của KBTTN Núi Ông nằm trên địa bàn hành chính xã Đức Bình:
6.413 ha. Bao gồm: 8 tiểu khu: 343, 344, 345, 346, 347, 348, 349, 352. Là khu vực
sườn Tây của Núi Ông, có độ dốc cao tiếp giáp dân cư xã Đức Bình, có quốc lộ 55
chạy ngang qua, phía Bắc tiếp giáp sông La Ngà và suối Daru.
+ Tổng dân số: 7.538 người (trong đó: dân tộc Kinh chiếm 79,4%, Raglai
chiếm 18,27%, còn lại là dân tộc khác).
+ Tổng số hộ: 1675; số khẩu bình quân/hộ: 4,5
+ Số hộ nghèo chiếm 14,4 %, số hộ giàu chiếm: 16,7 %; còn lại là số hộ
trung bình.
20
Phần lớn bà con làm nông nghiệp và chăn nuôi nhỏ lẻ. Ở đây có đồng bào
dân tộc thiểu số thôn 4, trình độ học vấn thấp, đời sống khó khăn, ngoài thu nhập
sản xuất nông nghiệp họ thường vào rừng khai thác lâm sản phụ như măng, mây,
tre, thu lượm nhựa chai, trái ươi, hái gùi, dâu v.v và săn bắt các loài động vật làm
ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên rừng của Khu bảo tồn. Một số đối tượng lợi
dụng địa hình khó khăn lén lút vào rừng khai thác gỗ xây dựng loại 5 x 10cm làm
bao bì, làm mộc dân dụng. Mặt khác, do một số loài cây trồng như bắp lai, mì bán
được giá, một số người dân lấn chiếm rừng canh tác nương rẫy trên các tiểu khu
343, 344, 345, 346 làm cho công tác quản lý bảo vệ rừng của đơn vị và của địa
phương thêm phần khó khăn.
2.2.2 Đặc điểm tự nhiên và xã hội khu vực xã Đức Thuận
Diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Ông nằm trên địa bàn hành chính xã
Đức Thuận: 7.108 ha. Bao gồm 9 tiểu khu : 350, 351, 360, 361, 359, 353, 354, 355,
356. Địa hình có nhiều sườn dốc, đỉnh cao, thấp dần từ đỉnh Núi Ông đến chân Thác
Bà, tiếp giáp khu dân cư thôn Hòa Thuận và thôn Bàu Chim. Trên địa bàn hành
chính xã Đức Thuận có Thác Bà là nơi vui chơi sinh thái lý tưởng thuộc tiểu khu
361 của KBTTN Núi Ông.
+ Tổng dân số: 5.535 người (trong đó: dân tộc Kinh chiếm 76,9%, Raglai
chiếm 0,2%, Chăm 2,23%, còn lại là dân tộc khác).
+ Tổng số hộ: 1.302, số khẩu bình quân/hộ: 4,3 người

+ Số hộ nghèo chiếm 15,7 %, số hộ giàu chiếm: 8,7 %; còn lại là số hộ trung
bình.
Lâm phần đơn vị quản lý nằm trên địa phận quản lý hành chính của xã Đức
Thuận khá rộng, dân cư sinh sống giáp ranh giới KBTTN Núi Ông, có một số ít dân
tộc sinh sống trong vùng lõi tiểu khu 351, phân khu phục hồi sinh thái tiểu khu 361.
Đời sống dân cư chủ yếu làm nông, một số ít dân cư sống bằng nghề rừng như thu
nhặt lâm sản phụ, lấy măng , mây, mật ong, nhặt hoa qủa như thanh trà, gùi, và chặt
các loại cây làm thuốc như vàng đắng, trái ươi v.v Ngoài ra, vẫn có một số đối
21
tượng chuyên sống bằng nghề khai thác buôn bán lâm sản trái phép. Trong hai năm
gần đây, do ảnh hưởng về giá trị của cây cao su nên dân cư xã Đức Thuận cũng đột
phá chuyển đổi cây trồng từ cây điều sang trồng cây cao su, một số ít tự chuyển đất
nông nghiệp sang trồng cây cao su (thôn Bàu Chim và thôn Phú Thuận), cũng có
một số đối tượng lén lút lấn chiếm đất rừng TK 350, 360 với mục đích là trồng cây
cao su và cây mì.
2.3. Đánh giá chung về thực hiện nhiệm vụ QLBVR trong thời gian qua
KBTTN Núi Ông nằm trên địa bàn hành chính 2 huyện Tánh Linh và Hàm
Thuận Nam, sườn Tây Núi Ông bao bọc tiếp giáp địa bàn dân cư 5 xã và 1 thị trấn.
Phần lớn người dân ở đây thuộc di dân tự do, diện kinh tế mới nên đời sống kinh tế
còn nhiều khó khăn. Nghề nghiệp chính của người dân là làm nông, chăn nuôi nhỏ
lẻ, thiếu vốn sản xuất, thiếu đất canh tác nông nghiệp; một số lao động nông nhàn là
người dân địa phương còn nhiều nên họ thường lén lút vào rừng khai thác, vận
chuyển lâm sản và phá rừng làm rẫy trái phép. Phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống ở thôn 4 xã Đức Bình; thôn Chăm, thôn Đồng Me xã Đức Thuận; thôn
Tân Thành thuộc thị trấn Lạc Tánh và người dân ở các bản xã La Ngâu, xã Mỹ
Thạnh còn sống phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên rừng. Vấn đề này tạo nên áp
lực cho công tác quản lý bảo vệ rừng của KBTTN.
KBTTN Núi Ông tổ chức lực lượng tuần tra kiểm sóat, phối hợp truy quét
chống phá rừng trong những năm qua đạt được một số kết quả nhất định. Số vụ vi
phạm đến rừng KBTTN ngày càng giảm, năm sau giảm so với năm trước.

22
Chương 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu chung
Đề tài làm rõ mối quan hệ giữa người dân sống gần rừng và tài nguyên rừng;
đồng thời là cơ sở khoa học và thực tiễn cho chính quyền địa phương và Ban quản
lý KBTTN Núi Ông đề ra các giải pháp bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định các nhóm đối tượng người dân cùng các hình thức và mức độ tác
động bất lợi đến tài nguyên rừng tại khu vực nghên cứu.
- Phân tích các yếu tố có ảnh hưởng hay dẫn đến những tác động bất lợi của
người dân tới tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu các tác động bất lợi của người dân
vào tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu.
3.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là: (i) những diện tích rừng
thuộc khu bảo vệ nghiêm ngặt hoặc vùng đệm của Khu BTTN Núi Ông mà người
dân có thể tác động, (ii) những hộ dân sống giáp rừng hoặc gần rừng thuộc các xã
Đức Bình, Đức Thuận đã và đang can thiệp vào tài nguyên rừng vì cuộc sống của
chính họ.
3.2.2. Giới hạn nghiên cứu
Người dân sống gần rừng, do nhận thức đã có tác động có lợi cho rừng như
nhận khoán bảo vệ rừng, tham gia phòng cháy, trực tiếp chữa cháy rừng, tham gia
các hoạt động trồng rừng, chăm sóc rừng, tuần tra bảo vệ rừng, tố giác các đối
23
tượng phá rừng… Bên cạnh các hoạt động có lợi đó, do nhu cầu về cuộc sống cũng
có các tác động bất lợi tới TNR, thậm chí ảnh hưởng của những tác động bất lợi đối
với rừng còn lớn hơn nhiều so với tác động có lợi, chính nó làm suy giảm tài

nguyên rừng. Quan hệ giữa con người và tài nguyên thiên nhiên ở bất cứ đâu và bao
giờ cũng là quan hệ hai chiều. Trong khuôn khổ của đề tài này chỉ nghiên cứu
những tác động theo chiều hướng bất lợi của người dân địa phương sống giáp rừng
và gần rừng tới diễn biến của TNR. Vì vậy, đề tài tìm hiểu và phân tích nguyên
nhân tác động, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp giảm thiểu tác động của người dân
tới tài nguyên rừng.
Hình 3.1: Các yếu tố chi phối tác động bất lợi của người dân tới TNR
Các yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội và yếu tố công nghệ đều có chi phối tới
những tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng. Trong điều
kiện hoàn cảnh người dân sống gần rừng, nguyên nhân chính dẫn đến tác động vào
rừng thường là khó khăn về kinh tế và các vấn đề xã hội, yếu tố công nghệ chưa
phải là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến TNR. Theo đó, hướng của đề tài sẽ tập trung
nghiên cứu yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội là những yếu tố phổ biến, có ảnh hưởng
quyết định tới hình thức và mức độ tác động bất lợi tới TNR tại KBTTN Núi Ông.
3.3. Nội dung nghiên cứu
(1) Tình hình kinh tế xã hội của cộng đồng và các nhóm hộ dân địa phương
tác động vào tài nguyên rừng
- Sơ lược về tình hình kinh tế và xã hội của cộng đồng
Những tác động bất lợi của người dân
địa phương tới tài nguyên rừng
Yếu tố văn hóa,
xã hội
Yếu tố công
nghệ, kỹ thuật
24
Yếu tố kinh tế
- Các nhóm đối tượng người dân có tác động bất lợi vào tài nguyên rừng
(2) Thực trạng của công tác quản lí bảo vệ rừng và mức độ tác động bất lợi
của người dân đến tài nguyên rừng
- Công tác quản lí rừng của các cơ quan nhà nước

- Sự tham gia của người dân vào các hoạt động lâm nghiệp
- Các hình thức và mức độ tác động bất lợi của người dân vào TNR.
(3) Các yếu tố cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi của người dân địa
phương đến TNR.
- Nhóm yếu tố kinh tế
- Nhóm yếu tố xã hội và chính sách
(4) Các giải pháp làm giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa
phương đến TNR
- Giải pháp về kinh tế
- Giải pháp về xã hội và chính sách
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ thống;
quan điểm sinh thái nhân văn; quan điểm bảo tồn và phát triển; phương pháp tiếp
cận có sự tham gia.
- Vận dụng lý thuyết hệ thống
Sự tác động của người dân đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế xã
hội và tác động tới hệ thống tự nhiên. Nó là hoạt động trong hệ thống kinh tế, bởi vì
mức độ tác động của người dân gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người
như sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia súc… Nó là hoạt
động xã hội vì các hoạt động này là của con người. Sự tác động bị chi phối bởi các
yếu tố xã hội như nhận thức của người dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về
luật pháp, trách nhiệm của cộng đồng, tập quán sử dụng TNR. Sự tác động của
25

×