Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành dịch vụ vận tải tại công ty cổ phần vận tải biển Vinaship

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.52 KB, 55 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kế toán là công cụ quản lý phục vụ quản lý kinh tế, gắn liền với hoạt
động quản lý và xuất hiện cùng với sự hình thành đời sống kinh tế xã hội
loài người.
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày
càng phát triển, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đã mở ra rất
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nhưng cũng đem lại những khó khăn
thách thức không nhỏ thì kế toán là công cụ không thể thiếu được trong hệ
công cụ quản lý kinh tế .
Như khái niệm kế toán của nhà nghiên cứu lý luận kinh tế Robet
Anthony: “ kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh”.
Xuất phát từ mục đích và nguyên tắc kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường thì mọi sản phẩm khi nó được tạo ra luôn được các doanh nghiệp
quan tâm đến hiệu quả nó mang lại. Vì vậy để quản lý có hiệu quả và kịp
thời đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp luôn cần
biết số chi phí đã chi ra cho từng hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ là
bao nhiêu; tỷ trọng từng loại chi phí hay khả năng hạ thấp các loại chi phí
này…
Do đó, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,
dịch vụ luôn là vấn đề thiết thực có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Xuất phát từ vai trò đó, trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần
vận tải biển Vinaship, em đã đi sâu tìm hiểu công tác hạch toán chi phí và
tính giá thành tại công ty. Dựa vào tình hình thực tế kết hợp với lý luận được
trang bị trong quá trình học tập tại nhà trường, em đã lựa chọn đề tài: “
Hoàn thiện kế toán chi phí và tính giá thành dịch vụ vận tải tại công ty cổ
phần vận tải biển Vinaship” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
và các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, sử dụng phép biện
chứng duy vật làm nền tảng.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong việc nghiên cứu các nội


dung trong đề tài bao gồm: phương pháp đặc thù, các phương pháp phân loại
chi phí, phân tích kinh tế, các phương pháp so sánh, cân đối, sơ đồ…
Nội dung chính của chuyên đề bao gồm có 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí kinh doanh và tính
giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ.
Phần II: Thực trạng công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản
phẩm dịch vụ vận tải tại công ty cổ phần vận tải biển vinaship.
Phần III: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế
toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải tại công ty cổ
phần vận tải biển vinaship.
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM DỊCH VỤ VẬN TẢI TRONG
DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ.
I. Khái quát về chi phí kinh doanh và tính giá thành dịch vụ vận tải.
1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải ảnh hưởng đến công
tác kế toán chi phí, tính giá thành trong các doanh nghiệp vận tải.
Theo đà phát triển của nền kinh tế và sự tiến bộ của văn minh nhân loại, dịch
vụ ở tất cả các lĩnh vực quản lý và công việc ngày càng khẳng định rõ vai trò
quan trọng của mình trong nền kinh tế quốc dân nói riêng cũng như trong xã
hội nói chung. Cho đến nay có nhiều khái niệm về dịch vụ. Song nhìn
chung, theo ISO 8402 dịch vụ được hiểu là: “kết quả của hoạt động sinh ra
do tiếp xúc giữa bên cung ứng và khách hàng và các hoạt động nội bộ bên
cung ứng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ rất đa dạng bao gồm các hoạt động kinh
doanh bưu điện, vận tải, du lịch, giải trí, dịch vụ tư vấn, dịch vụ công
cộng…
Căn cứ vào tính chất của hoạt động dịch vụ, người ta chia làm 2 loại dịch vụ:
• Dịch vụ có tính chất sản xuất như dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu điện,
sửa chữa…

• Dịch vụ không có tính chất sản xuất như dịch vụ hướng dẫn du lịch,
giải trí…
Dịch vụ vận tải nói riêng là ngành sản xuất đặc biệt, sản phẩm vận tải là quá
trình di chuyển hàng hoá, hành khách từ nơi này đến nơi khác và được đo
bằng các chỉ tiêu: tấn.km.hàng hoá vận chuyển và người.km.hành khách vận
chuyển.
Ngành vận tải gồm nhiều loại hình hoạt động như vận tải ô tô, vận tải đường
sắt, vận tải đường thuỷ( vận tải đường biển, vận tải đường sông), vận tải
đường hàng không,…mỗi loại hình vận tải đều có những nét đặc thù riêng,
chi phối đến công tác kế toán.
Ngoài những đặc điểm chung của hoạt động kinh doanh dịch vụ như sản
phẩm của hoạt động dịch vụ hầu như không mang hình thái vật chất, quá
trình sản xuất tiêu thụ gắn liền với nhau không thể tách rời, sản phẩm dịch
vụ không thể tồn kho hay lưu kho, vì vậy không thể tính được chi phí sản
phẩm dở như trong các ngành sản xuất vật chất…Hoạt động kinh doanh dịch
vụ vận tải có những đặc điểm cơ bản sau:
• Hoạt động vận tải được quản lý theo nhiều khâu khác nhau như giao
dịch, hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc hành khách, thanh toán các
hợp đồng, lập kế hoạch điều vận và kiểm tra tình hình thực hiện kế
hoạch vận chuyển.
• Phương tiện vận tải là tài sản cố định chủ yếu và quan trọng không thể
thiếu được trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Các phương tiện
này lại bao gồm nhiều loại có tính năng, tác dụng, hiệu quả và mức
tiêu hao nhiên liệu, năng lượng khác nhau. Điều này có ảnh hưởng lớn
đến chi phí và doanh thu dịch vụ vận tải.
• Kế hoạch tác nghiệp cần được cụ thể hoá cho từng ngày, từng tuần,
định kỳ ngắn…, người và phương tiện làm việc chủ yếu ở bên ngoài
doanh nghiệp. Do đó quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng
được chế độ vật chất rõ ràng, vận dụng cơ chế khoán hợp lý.
• Việc khai thác vận chuyển phụ thuộc khá lớn vào cơ sở hạ tầng,

đường sá, cầu phà và điều kiện địa lý khí hậu…
Sự phát triển của ngành vận tải phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
và nhu cầu ngày càng tăng của con người. Tại nước ta hiện nay, ngành kinh
doanh dịch vụ vận tải đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.
Nghiên cứu đặc điểm của ngành kinh doanh dịch vụ vận tải do đó có ý nghĩa
rất lớn đối với việc tổ chức quản lý hợp lý công tác kế toán, đặc biệt là kế
toán chi phí, tính giá thành cũng như xác định kết quả kinh doanh dịch vụ.
2. Chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải.
2.1 Khái niệm chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
đều phải có đủ ba yếu tố đó là: tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao
động. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp ba yếu tố đó để tạo ra các loại
sản phẩm lao vụ và dịch vụ. Sự tiêu hao các yếu tố này trong quá trình sản
xuất kinh doanh đã tạo ra các chi phí tương ứng, đó là các chi phí về tư liệu
lao động, chi phí về đối tượng lao động, chi phí về lao động sống.
Các loại chi phí này phát sinh một cách thường xuyên trong quá trình sản
xuất kinh doanh, nó luôn vận động, thay đổi trong quá trình tái sản xuất.
Tính đa dạng của nó luôn được biểu hiện cụ thể gắn liền với sự đa dạng,
phức tạp của các loại hình sản xuất kinh doanh khác nhau, của các giai đoạn
công nghệ sản xuất khác nhau và sự phát triển không ngừng của tiến bộ khoa
học kỹ thuật.
Vì vậy để quản lý chi phí một cách có hiệu quả thì cần phải nắm vững được
bản chất của chi phí.
Chi phí luôn có tính chất cá biệt, bao gồm tất cả các chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra để tồn tại và để tiến hành hoạt động của mình, bất kỳ chi phí
đó cần thiết hay không cần thiết. Mặt khác, chi phí của doanh nghiệp luôn
mang tính hai mặt, một mặt chi phí có tính khách quan, nó thể hiện sự
chuyển dịch các hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra vào giá trị sử dụng được
tạo ra, đây là sự chuyển dịch mang tính khách quan không lệ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Một mặt, hao phí về các yếu tố trong quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể lại mang tính chủ quan nó
phụ thuộc vào phương pháp tính, trình độ quản lý và yêu cầu quản lý cụ thể
của doanh nghiệp.
Hiện nay, chi phí hoạt động của doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hao
phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiểt khác mà
doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, biểu hiện bằng
tiền và tính cho một thời kỳ nhất định.
Theo đó, chi phí vận tải được hiểu là: biểu hiện bằng tiền của những hao phí
lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác chi ra cho quá
trình hoạt động dịch vụ vận tải trong một thời kỳ nhất định.
2.2 Phân loại chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải.
Chi phí trong các doanh nghiệp vận tải bao gồm nhiều loại khác nhau, mỗi
loại chi phí có những tính chất khác nhau, mục đích công dụng khác nhau và
yêu cầu quản lý cũng khác nhau. Để quản lý chi phí vận tải một cách chặt
chẽ, tiết kiệm chi phí vận tải, hạ giá thành sản phẩm thì cần thiết phải nghiên
cứu cách phân loại chi phí vận tải. Mỗi cách phân loại có nội dung, yêu cầu
và mục đích quản lý khác nhau. Phân loại chi phí vận tải đúng đắn, khoa
học, phù hợp với điều kiện quản lý kinh tể trong từng giai đoạn là vấn đề
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác
quản lý chi phí và giá thành sản phẩm vận tải, phát huy được chức năng
kiểm tra, giám sát và tổ chức thông tin cũng như cung cấp thông tin chính
xác cho việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh.
Dưới đây là một số cách phân loại:
2.2.1 Phân loại theo hoạt động và công dụng kinh tế.
Căn cứ vào mục đích của từng loại hình hoạt động trong doanh nghiệp, căn
cứ vào công dụng kinh tế của chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành:
a. Chi phí hoạt động chính:
• Chi phí sản xuất gồm:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ chi phí nguyên vật liệu
được sử dụng trực tiếp cho quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, dịch vụ,

lao vụ. Đối với vận tải đường biển, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao
gồm nhiên liệu, vật liệu, động lực để chạy tàu…
+ Chi phí nhân công trực tiếp: chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền
lương và các khoản phải trả trực tiếp cho công nhân sản xuất, các khoản
trích theo tiền lương của công nhân sản xuất như bảo hiểm xã
hội(BHXH), bảo hiểm y tế( BHYT), kinh phí công đoàn(KPCD). Đối với
vận tải đường biển, chi phí nhân công trực tiếp bao gồm: các khoản
lương và trích theo lương của thuỷ thủ, thợ máy, thợ điện, công nhân
khác trực tiếp tham gia sản xuất lao động…
+ Chi phí sản xuất chung: chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí sản
xuất liên quan đến việc phục vụ và quản lý sản xuất trong phạm vi các
phân xưởng đội sản xuất…Đối với vận tải biển, chi phí sản xuất chung
bao gồm chi phí khấu hao tàu, thuyền, các tài sản cố định khác sử dụng;
các khoản chi phí công cụ dụng cụ; chi phí sửa chữa tàu; chi phí khác có
liên quan…
• Chi phí ngoài sản xuất:
+ Chi phí bán hàng là: các khoản chi phí lưu thông phát sinh trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ. Loại chi phí này đối
với ngành vận tải biển bao gồm các khoản như chi phí hoa hồng giao
dịch…
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp là: các khoản chi phí liên quan đến việc
phục vụ và quản lý, chi phí đồ dùng văn phòng, khấu hao tài sản cố định
dùng chung cho toàn doanh nghiệp, chi phí khánh tiết, hội nghị; tiền
lương của cán bộ quản lý công ty…
b. Chi phí hoạt động khác:
• Chi phí hoạt động tài chính: là các khoản chi phí và các khoản lỗ liên
quan đên các hoạt động về vốn như chi phí liên doanh, chi phí liên
quan cho vay vốn, chi phí đầu tư tài chính, lỗ liên doanh…
• Chi phí khác là các khoản lỗ do các sự kiện hay các nghiệp vụ bất
thường mà doanh nghiệp không thể dự kiến trước được như: thanh lý,

nhượng bán tàu, tài sản cố định, tiền phạt vi phạm hợp đồng,…
2.2.2. Phân loại căn cứ vào mối quan hệ với doanh thu vận tải.
Theo tiêu chuẩn phân loại này, chi phí vận tải được chia thành 2 loại:
• Chi phí cố định( bất biến ): là những khoản chi phí khi doanh thu vận
tải tăng hay giảm thì số tiền chi phí không thay đổi hoặc tăng hay
giảm không đáng kể. Nhưng số tiền chi phí tính cho một đồng doanh
thu, tức là tỷ suất chi phí thì thay đổi theo chiều ngược lại( giảm hoặc
tăng).
- Chi phí cố định ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải bao
gồm các khoản như: chi phí khấu hao tàu, thuyền, và các tài sản cố
định khác như thiết bị văn phòng; tiền thuê mặt bằng; tiền bảo
hiểm tàu, và tài sản khác…
• Chi phí biến đổi: là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải tăng
hay giảm thì số tiền chi phí cũng tăng hay giảm theo nhưng chi phí
cho một đồng doanh thu, tức là tỷ suất chi phí thì hầu như không thay
đổi.
- Chi phí biến đổi ở các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải
bao gồm các khoản như: chi phí lương của thuỷ thủ trên tàu, chi
phí nhiên liệu
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định điểm hoà vốn,
phân tích dự toán chi phí. Ngoài ra giúp cho các nhà quản trị, quản lý được
chi phí của một đơn vị sản phẩm tốt hơn và tìm ra các biện pháp để hạ giá
thành sản phẩm.
2.2.3. Phân loại theo phương pháp tập hợp và đối tượng chịu chi phí.
Theo cách phân loại này, chi phí vận tải được chia thành 2 loại chi phí: chi
phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
• Chi phí trực tiếp: là những chi phí liên quan một cách trực tiếp đến
việc hoàn thành sản phẩm vận tải, nó có thể hạch toán trực tiếp theo
từng đối tượng chịu chi phí như: chi phí nhiên liệu, vật liệu…
• Chi phí gián tiếp: là những khoản chi phí có liên quan đến nhiều sản

phẩm vận tải. Các chi phí này khi phát sinh phải tập hợp lại để cuối kỳ
phân bổ cho từng đối tượng chịu chi phí theo tiêu chuẩn phân bổ hợp
lý. Các khoản chi phí như: chi phí khấu hao, chi phí sửa chữa tài sản
cố định, chi phí đào tạo bồi dưỡng…
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp
tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm vận tải cho từng đối tượng một
cách khoa học và hợp lý.
3. Giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải
3.1 Khái niệm giá thành
Giá thành kinh doanh sản phẩm được xác định bao gồm những chi phí về lao
động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác được dùng để sản xuất hoàn
thành một khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành nhất định.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa
mang tính chất khách quan vừa mang tính chủ quan. Trong hệ thống các chỉ
tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình sản xuất kinh
doanh, cũng như tính đúng đắn của những giải pháp quản lý mà doanh
nghiệp đã thực hiện để nhằm mục đích hạ thấp chi phí, tăng cao lợi nhuận.
Theo đó, giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ chi phí vận tải mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện khối lượng sản phẩm
vận tải đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải là một chỉ tiêu chất lượng, tổng hợp có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý các doanh nghiệp vận tải. Thông
qua chỉ tiêu giá thành có thể xác định được hiệu quả của việc sử dụng nguồn
nhân tài, vật lực, trong doanh nghiệp cũng như đánh giá một cách có cơ sở
các biện pháp tổ chức quản lý, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong
quá trình thực hiện dịch vụ vận tải.
3.2 Phân loại giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải.
3.2.1 Phân loại theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành.
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải được chia thành

3 loại sau:
• Giá thành sản phẩm kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính toán
trên cơ sở chi phí kế hoạch và số lượng sản phẩm sản xuất theo kế
hoạch. Giá thành kế hoạch bao giờ cũng được tính toán trước khi bắt
đầu quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời
kỳ. Giá thành sản phẩm kế hoạch là mục tiêu phấn đấu trong kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cũng là căn cứ để so sánh, phân
tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh
nghiệp. Việc xác định giá thành kế hoạch nhằm giới hạn chi phí để
thực hiện quá trình kinh doanh vận tải, là cơ sở để doanh nghiệp phấn
đấu hạ giá thành và phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
trên thực tế.
• Giá thành định mức: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các
định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho một đơn vị sản phẩm.
Định mức chi phí được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế - kỹ
thuật của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Giá thành sản phẩm
định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Giá thành định mức được coi như là
một thước đo chuẩn xác để xác định kết quả của việc tiết kiệm hay
lãng phí chi phí thuộc giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải nói riêng
cũng như giá thành dịch vụ nói chung. Vì vậy, nó giúp cho doanh
nghiệp có thể đánh giá được tính đúng đắn, hợp lý của các giải pháp
kinh tế, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt
động kinh doanh.
• Giá thành thực tế: là giá thành sản phẩm được tính toán và xác định
trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát sinh và tập hợp được
trong kỳ cũng như số lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất và tiêu thụ
trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được khi kết thúc quá
trình sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng
giá thành và giá thành đơn vị. Là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh

kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các
giải pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và công nghệ…để thực hiện quá
trình sản xuất sản phẩm. Đồng thời cũng là cơ sở để xác định kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó xác định nghĩa
vụ của doanh nghiệp với Nhà nước cũng như với các bên liên quan.
3.2.2 Phân loại căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành.
Theo cách phân loại này, giá thành sản phẩm được phân biệt thành hai loại
sau:
• Giá thành kinh doanh sản phẩm: Giá thành sản xuất của sản phẩm bao
gồm các chi phí liên quan đến quá trình kinh doanh sản phẩm như: chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản
xuất chung tính cho sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành. Giá thành sản
xuất sản phẩm được sử dụng để hạch toán dịch vụ hoàn thành.
• Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: bao gồm giá thành sản xuất tính
cho số sản phẩm dịch vụ vận tải tiêu thụ cộng với chi phí bán hàng,
chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh trong kỳ tính cho số sản phẩm
dịch vụ vận tải này. Như vậy, giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ chỉ
tính và xác định cho số sản phẩm dịch vụ vận tải do doanh nghiệp
hoàn thành, nó là căn cứ để tính toán chi phí chi tiết hơn.
3.3 Mối quan hệ giữa chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải với giá thành
sản phẩm dịch vụ vận tải.
Về mặt bản chất chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm dịch vụ
vận tải là biểu hiện hai mặt của quá trình sản xuất, kinh doanh. Chúng giống
nhau về chất vì đều cùng biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Chi phí biểu hiện mặt
hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất kinh
doanh. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình. Tuy nhiên, chúng khác
nhau về mặt lượng. Khi nói đến chi phí sản xuất sản phẩm dịch vụ vận tải là
nói đến chi phí sản xuất của một kỳ nhất định, không phân biệt cho sản
phẩm dịch vụ, lao vụ nào, hoàn thành hay chưa, còn khi nói đến giá thành

sản phẩm dịch vụ vận tải là một đại lượng chi phí sản xuất nhất định, tính
cho một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định.
Chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải trong kỳ là cơ sở, là căn cứ để tính giá
thành của sản phẩm dịch vụ vận tải hoàn thành, sự tiết kiệm hay lãng phí của
doanh nghiệp về chi phí kinh doanh dịch vụ vận tải có ảnh hưởng trực tiếp
đến giá thành cao hay thấp.
Việc quản lý giá thành dịch vụ vận tải gắn liền với quản lý chi phí kinh
doanh dịch vụ vận tải để làm sao tiết kiệm chi phí, phấn đấu thực hiện được
khối lượng dịch vụ vận tải lớn hơn, hạ giá thành sản phẩm.
II. Kế toán chi phí kinh doanh dịch vụ và tính giá thành sản phẩm dịch
vụ vận tải trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải.
1. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành sản
phẩm dịch vụ vận tải.
1.1 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể phát sinh ở nhiều địa
điểm khác nhau, liên quan đến việc sản xuất chế tạo các loại sản phẩm, lao
vụ khác nhau. Các nhà quản trị doanh nghiệp cần biết được các chi phí đó ở
đâu, dùng vào việc sản xuất sản phẩm nào…Chính vì vậy chi phí sản xuất
kinh doanh phát sinh trong kỳ phải được kế toán tập hợp theo một phạm vi,
giới hạn nhất định. Đó là đối tượng kế toán chi phí sản xuất.
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi và giới hạn để tập hợp chi phí
sản xuất theo các phạm vị và giới hạn đó. Xác định đối tượng kế toán chi phí
sản xuất là khâu đầu tiên trong việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất. Thực
chất của việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là xác định nơi gây
ra chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất,…).
Khi xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí phải căn cứ vào mục đích sử
dụng của chi phí sau đó căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh,
quản lý sản xuất kinh doanh, loại hình sản xuất sản phẩm, khả năng, trình độ
và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Cụ thể:
+ Đặc điểm tổ chức kinh doanh dịch vụ: Trong ngành vận tải kinh doanh vận

chuyển được tiến hành liên tục mức độ hoạt động tuỳ theo thời vụ mà nhiều
hay ít.
+ Đặc điểm sản phẩm dịch vụ: dịch vụ vận tải tạo ra sản phẩm ở trên đường,
ngay trong quá trình vận chuyển. Khi hoạt động vận chuyển kết thúc thì sản
phẩm cũng được hoàn thành.
+ Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp: tuỳ theo mục đích của lãnh
đạo của doanh nghiệp mà chia thành các đối tượng tập hợp chi phí khác
nhau
Đối với ngành kinh doanh vận tải đường biển thì có thể tập hợp chi phí vận
tải theo từng con tàu, đoàn tàu; có khi lại theo vụ việc…
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí vận tải sẽ là cơ sở để tính toán
chính xác giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải, tạo tiền đề cho việc hạch toán
ban đầu và vận dụng tài khoản kế toán.
1.2 Đối tượng tính giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải.
Xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên của công
tác tính giá thành sản phẩm, là căn cứ quan trọng để kế toán mở các phiếu
tính giá thành sản phẩm, tổ chức công tác kế toán tính giá thành theo từng
đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành
xác định chính xác kết quả kinh doanh và phát hiện khả năng tiềm tàng của
doanh nghiệp.
Cũng như khi xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất, việc xác định đối
tượng tính giá thành cũng cần phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất,
đặc điểm quản lý, khả năng cũng như yêu cầu quản lý, tính chất của từng
loại sản phẩm,…
Đối tượng tính giá thành sản phẩm vận tải là các loại sản phẩm của doanh
nghiệp vận tải cần xác định được giá thành và giá thành đơn vị theo khoản
mục chi phí trong giá thành đã được quy định. Trong ngành vận tải hiện nay,
đối với vận tải biển chuyên chở hàng hoá thường là tấn (1000 tấn).km.hàng
hoá vận chuyển.
Qua phân tích hai khái niệm đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng

tính giá thành giống nhau ở bản chất, đều là những phạm vi, giới hạn nhất
định để tập hợp chi phí sản xuất theo đó cùng phục vụ cho công tác quản lý,
phân tích và kiểm tra chi phí, giá thành sản phẩm. Tuy nhiên hai khái niệm
này có sự khác nhau nhất định:
+ Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là xác định phạm vi, giới hạn
tổ chức kế toán chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
+ Xác định đối tượng tính giá thành là xác định phạm vi, giới hạn của chi
phí liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành của quy trình sản xuất
2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dịch vụ vận tải.
2.1 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử dụng để
tập hợp, phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ theo
các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định. Nội dung cơ bản của phương
pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ vào các đối tượng tập hợp
tập hợp chi phí sản xuất đã xác định để mở các sổ kế toán nhằm ghi chép,
phản ánh các chi phí phát sinh theo đúng các đối tượng hoặc tính toán, phân
bổ phần chi phí phát sinh cho các đối tượng đó.
Hiện nay có hai phương pháp tập hợp chi phí:
2.1.1 Phương pháp tập hợp trực tiếp:
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp chi phí có liên quan trực tiếp đến
các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, tức là đối với các loại chi phí phát
sinh liên quan đến đối tượng nào có thể xác định được trực tiếp cho đối
tượng đó, chi phí phát sinh liên quan đến từng đối tượng tập hợp chi phí cụ
thể đã xác định sẽ được tập hợp và quy nạp trực tiếp cho đối tượng đó.
Phương pháp này yêu cầu kế toán phải tổ chức công tác hạch toán một cách
cụ thể tỉ mỉ từ khâu lập chứng từ ban đầu, tổ chức hệ thống tài khoản, hệ
thống sổ kế toán…theo đúng các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, chỉ
có như vậy mới đảm bảo các chi phí phát sinh tập hợp đúng theo các đối
tượng một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ.

2.1.2 Phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp:
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp các chi phí gián tiếp, đó là các
chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã xác định
mà kế toán không thể tập hợp trực tiếp các chi phí này cho từng đối tượng
đó. Theo phương pháp này, trước tiên căn cứ vào các chi phí phát sinh kế
toán tiến hành tập hợp chung các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng
theo địa điểm phát sinh hoặc nội dung chi phí. Để xác định chi phí cho từng
đối tượng cụ thể phải lựa chọn các tiêu chuẩn hợp lý và tiến hành phân bổ
các chi phí đó cho từng đối tượng liên quan.
Việc phân bổ chi phí cho từng đối tượng thường được tiến hành theo hai
bước sau:
- Bước 1: Xác định hệ số phân bổ:
H = C/T
Trong đó: H: hệ số phân bổ chi phí
C: tổng chi phí cần phân bổ cho các đối tượng.
T: tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của các đối tượng cần phân
bổ chi phí.
- Bước 2: Xác định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng tập hợp cụ thể:
C
i
= H x T
i
Trong đó: C
i
: phần chi phí phân bổ cho đối tượng i
T
i
: đại lượng tiêu chuẩn phân bổ dùng để phân bổ chi phí của đối
tượng i.
Việc xác định tiêu chuẩn phân bổ chi phí có thể được xác định riêng rẽ theo

từng nội dung chi phí cần phân bổ, khi đó cũng phải xác định hệ số phân bổ
theo từng nội dung chi phí này hoặc cũng có thể xác định chung cho tất cả
các chi phí cần phân bổ. Nói chung, việc xác định tiêu chuẩn phân bổ tuỳ
thuộc vào đặc thù cụ thể của từng doanh nghiệp.
2.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải.
Phương pháp tính giá thành là phương pháp sử dụng số liệu, chi phí sản xuất
sản phẩm dịch vụ vận tải đã tập hợp được trong kỳ để tính toán tổng giá
thành và giá thành đơn vị theo từng khoản mục chi phí quy định cho các đối
tượng tính giá thành. Doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất,
đặc điểm của sản phẩm, yêu cầu quản lý sản xuất và quản lý giá thành, mối
quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí với đối tượng tính giá thành
để lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp cho từng đối tượng tính
giá thành.
2.2.1 Phương pháp tính giá thành giản đơn.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ vận tải có quy trình công nghệ giản đơn như vận tải đường sông,
đường biển; vận tải hàng không. Giá thành theo phương pháp này được xác
định như sau:
Giá thành đơn vị =
Tổng giá
thành sản
phẩm
Chi phí vận
tải còn đầu
kỳ
Chi phí vận
tải còn cuối
kỳ
Chi phí vận
tải phát sinh

trong kỳ
= +
-
Tổng giá thành sản phẩm
Khối lượng vận tải hoàn thành
2.2.2 Theo phương pháp tính giá thành định mức.
Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp đã có các định mức
kinh tế kỹ thuật tương đối ổn định và hợp lý, chế độ quản lý theo định mức
đã được kiện toàn và có nề nếp; trình độ tổ chức và nghiệp vụ chuyên môn
kế toán tương đối cao, đặc biệt là thực hiện tốt chế độ hạch toán ban đầu.
Việc kiểm tra tình hình thực hiện chi phí vận tải, sử dụng hợp lý, tiết kiệm
và hiệu quả chi phí vận tải để hạ giá thành sản phẩm vận tải.
Nội dung cơ bản của phương pháp tính giá thành định mức bao gồm:
- Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành và dự toán chi phí
được duyệt để tính giá thành của hoạt động vận tải.
- Tổ chức hạch toán một cách riêng biệt số chi phí thực tế phù hợp
với định mức và số chi phí chênh lệch thoát ly định mức. Tập hợp
riêng và thường xuyên phân tích nguyên nhân những khoản chi phí
thoát ly định mức để có biện pháp khắc phục.
- Khi có sự thay đổi định mức phải kịp thời tính toán lại giá thành
định mức và số chi phí chênh lệch do thoát ly định mức.
Công thức xác định giá thành định mức như sau:
2.2.3 Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
Phương pháp này thường được áp dụng với những doanh nghiệp vận tải
hành khách và vận tải hàng hoá chọn lô theo hợp đồng của khách hàng. Đối
Giá thành
thực tế của
sản phẩm
dịch vụ vận
tải

Giá thành
định mức
sản phẩm
dịch vụ vận
tải
Chênh lệch
do thoát ly
định mức
Chênh lệch
do thay đổi
định mức
= +
_
+
_
tượng tính giá thành là dịch vụ vận tải theo từng hợp đồng đặt hàng hoặc
hàng loạt hợp đồng. Kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ cung cấp dịch vụ. Khi
nào thực hiện dịch vụ hoàn thành từng hợp đồng hoặc hàng loạt hợp đồng thì
kế toán mới tính giá thành cho từng hợp đồng hay hàng loạt hợp đồng đó.
Khi có khách hàng đến ký hợp đồng, kế toán phải trên cơ sở hợp đồng để
mở bảng tính giá thành cho hợp đồng đó. Cuối tháng hoặc kết thúc hợp đồng
kế toán tính toán tập hợp chi phí và tính giá thành căn cứ vào số liệu chi phí
đã tập hợp được từ các đội vận chuyển.
3. Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dịch vụ vận tải trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải hiện
nay.
3.1 Kế toán chi phí nhiên liệu trực tiếp.
Trong giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải nhiên liệu là khoản chi phí trực
tiếp có tỉ trọng cao. Không có nhiên liệu phương tiện không thể nào hoạt
động được, chi phí nhiên liệu cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác

nhau như loại phương tiện vận tải, mức độ mới hay cũ của phương tiện, …
Do đó doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thực tế để xây dựng định mức
nhiên liệu tiêu hao cho từng loại phương tiện.
• Chi phí nhiên liệu được xác định theo công thức:
• Chứng từ kế toán sử dụng:
- Hoá đơn giá trị gia tăng.
- Phiếu nhập kho, xuất kho.
Chi phí
nhiên liệu
tiêu hao
Chi phí
nhiên liệu
còn ở
phương tiện
đầu kỳ
Chi phi
nhiên liệu
sử dụng
trong kỳ
Chi phí
nhiên liệu
còn ở
phương tiện
cuối kỳ
= + _
- Bảng theo dõi nhiên liệu tiêu hao.
- …
• Tài khoản sử dụng: Để tập hợp chi phí nhiên liệu, kế toán sử dụng tài
khoản 621, có kết cấu như sau:
Bên nợ: phản ánh giá trị thực tế của nhiên liệu,vật liệu đưa vào sử dụng

trực tiếp cho phương tiện vận tải.
Bên có: kết chuyển giá trị nhiên liệu, vật liệu tính vào TK 154 hoặc
TK631 để tính giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải.
TK( tài khoản)621 không có số dư.
• Phương pháp hạch toán chi phí nhiên liệu trực tiếp:
- Nếu xuất nhiên liệu sử dụng cho phương tiện vận tải từ trong kho,
căn cứ giấy yêu cầu nhiên liệu của thuyền trưởng tàu, phiếu xuất
kho, kế toán nhập dữ liệu theo định khoản:
Nợ TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. (chi tiết cho từng đối
tượng tập hợp)
Có TK 152: nguyên vật liệu
- Nếu mua ngoài, xuất luôn, kế toán căn cứ vào giấy yêu cầu nhiên
liệu của thuyền trưởng tàu, và hoá đơn giá trị gia tăng:
Nợ TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 133: thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
Có TK 111,112…: tiền mặt, tiền gửi…
Sau khi hoàn thành chuyến vận tải, kế toán kết chuyển chi phí nguyên
vật liệu, nhiên liệu trực tiếp cho từng tàu, để tính giá thành sản phẩm
dịch vụ vận tải:
Nợ TK 154: chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. ( chi tiết từng đối
tượng tập hợp chi phí)
Có TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
* Với những doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm
kê định kỳ, thì trị giá nhiên liệu xuất dùng trong kỳ được xác định:
Sau đó ghi:
Nợ TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,( chi tiết từng đối tượng)
Có TK 611: mua hàng
Đến cuối kỳ, kết chuyển sang TK 631_ giá thành sản xuất( chi tiết cho từng
đối tượng)
• Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí nhiên liệu trực tiếp:

3.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
Trong hoạt động dịch vụ vận tải, chi phí nhân công trực tiếp bao gồm:
tiền lương, các khoản trích theo lương BHXH, BHYT, KPCD thuỷ
thủ, thợ máy, điện… trực tiếp tham gia trên tàu.
TK111,112,61
1
Giá trị
nhiên liệu
mua
ngoài
TK621 TK154
TK 152 Giá trị
nhiên liệu
xuất dùng
TK133
Kết chuyển
giá trị nhiên
liệu dùng
trong kỳ.(theo
phương pháp
kê khai thường
xuyên)
TK631Kết chuyển
giá trị nhiên
liệu dùng
trong kỳ
(theo phương
pháp kiểm kê
định kỳ)
Chi phí

nhiên liệu
dùng trong
kỳ
Chi phí
nhiên liệu
nhập trong
kỳ
Chi phí
nhiên liệu
tồn đầu kỳ
Chi phí
nhiên liệu
tồn cuối kỳ
= + _
Chi phí nhân công trực tiếp thường được tính trực tiếp cho từng đối
tượng chịu chi phí có liên quan, trường hợp nếu liên quan đến nhiều
đối tượng thì cần phải phân bổ cho từng đối tượng theo tiêu chuẩn hợp
lý.
• Chứng từ sử dụng:
- Bảng chấm công
- Bảng thanh toán tiền lương
- Bảng phân bổ BHXH, BHYT, KPCĐ
• Tài khoản sử dụng:
Để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng TK
622, có nội dung và kết cấu như sau:
Bên nợ: phản ánh chi phí về tiền lương và các khoản trích theo lương
của công nhân
Bên có: kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang TK 154 hoặc
TK631 để tập hợp chi phí
Tài khoản 622 không có số dư.

• Phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Căn cứ vào bảng số liệu ở bảng thanh toán lương bao gồm lương
chính, lương phụ, phụ cấp phải trả để tập hợp cho từng đối tượng liên
quan:
Nợ TK 622: chi phí nhân công trực tiếp ( chi tiết cho từng đối tượng
liên quan)
Có TK 334: phải trả công nhân viên
Các khoản trích về BHXH, BHYT, KPCĐ được tính trên cơ sở tổng
lương phải trả trong kỳ:
Nợ Tk 622: chi phí nhân công trực tiếp ( chi tiết cho từng đối tượng)
Có TK 338: phải trả phải nộp khác.
TK 3382: kinh phí công đoàn
TK 3383: bảo hiểm xã hội
TK 3384: bảo hiểm y tế
Cuối kỳ kết chuyển cho từng đối tượng tập hợp chi phí:
Nợ TK154: chi phí sản xuất kinh doanh dở dang,( chi tiết cho từng đối
tượng)
Có TK 622: chi phí nhân công trực tiếp.
* Với những doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp
kiểm kê định kỳ.
Cuối kỳ sẽ kết chuyển vào TK 631 để tập hợp chi phí, như sau:
Nợ TK 631: giá thành sản xuất( chi tiết cho từng đối tượng)
Có TK 622: chi phí nhân công trực tiếp.
• Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp:
3.3 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung bao gồm các chi phí như khấu hao toàn bộ tàu,
chi phí sửa chữa, các khoản phí: phí bảo hiểm, tiền vệ sinh tàu…
• Chứng từ sử dụng:
- Phiếu xuất kho
- Hóa đơn giá trị gia tăng.

- …
• Tài khoản sử dụng: để tập hợp chi phí sản xuất chung sử dụng
tài khoản 627, có nội dung và kết cấu như sau:
Bên nợ: tập hợp các khoản chi phí chung:
- các khoản phí: phí cảng, phí bảo hiểm, phí kiểm đếm…
TK338
BHXH, BHYT,
KPCĐ
TK622 TK154
TK 334
Tiền lương
của nhân
viên
TK 631
Kết chuyển
chi phí nhân
công trong kỳ
(theo phương
pháp kiểm kê
định kỳ)
Kết chuyển
chi phí nhân
công trong kỳ
(theo phương
pháp kê khai
thường xuyên)
- tiền vệ sinh hầm tàu
- tiền sửa chữa tàu
- khấu hao tàu…
Bên có: kết chuyển sang TK154 hoặc TK631 để tính giá thành sản phẩm

dịch vụ vận tải.
Tài khoản 627 không có số dư.
• Phương pháp kế toán chi phí sản xuất chung.
- Kế toán khấu hao TSCĐ:
Hàng tháng căn cứ vào bảng tính và phân bổ khấu hao phương tiện cho các
hoạt động vận tải:
Nợ TK 6274: chi phí sản xuất chung( chi tiết cho từng đối tượng)
Có TK214: hao mòn TSCĐ.
- Kế toán sửa chữa phương tiện:
Đối với sửa chữa thường xuyên:
Khi phát sinh chi phí thực tế, kế toán ghi:
Nợ TK627: chi phí sản xuất chung ( chi tiết cho từng đối tượng)
Có TK 152: xuất nguyên liệu, vật liệu
Có TK 111: xuất tiền mặt
Có TK 112: xuất tiền gửi
Đối với sửa chữa định kỳ theo kế hoạch:
(1) Căn cứ vào số liệu đã tính toán trước, kế toán ghi:
Nợ TK627: chi phí sản xuất chung ( chi tiết cho từng đối tượng)
Có TK 335: chi phí phải trả.
(2) Khi phát sinh chi phí thực tế:

×