Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Những phát triển chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khoảng thời gian gần đây.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.49 KB, 39 trang )

ÐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRÝỜNG ÐẠI HỌC KINH TẾ
CHUYÊN ÐỀ
NHỮNG PHÁT TRIỂN TRONG CHÍNH SÁCH
THỜI GIAN GẦN ÐÂY


Học viên: Vũ Thị Vân Anh
Bùi Cẩm Vân



2
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, FDI luôn đóng một vài trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của các quốc gia trên nhiều phương diện: vốn, công nghệ, phát triển
xuất khẩu, tham gia vào các thị trường quốc tế, …Trong tình hình kinh tế thế
giới luôn có nhiều biến động, thì thách thức đưa ra được những chính sách về
đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp luôn là bài toán khó đặt ra đối với sự phát
triển kinh tế của mỗi một quốc gia.
Nhiều quốc gia vẫn tiếp tục tự do hóa và thúc đẩy đầu tư nước ngoài trong
các ngành công nghiệp khác nhau để kích thích tăng trưởng trong năm 2011.
Đồng thời, các biện pháp và các quy định hạn chế mới vẫn đang tiếp tục được
giới thiệu, một phần là do các yêu cầu trong chính sách công nghiệp. Chúng đã
trở thành những danh mục đầu tiên trong việc điều chỉnh chính sách nhập cảnh
cho các nhà đầu tư nước ngoài (ví dụ như trong ngành nông nghiệp và dược
phẩm), trong các ngành công nghiệp khai khoáng (đó là những yêu cầu cắt bỏ và
việc quốc hữu) và trong một cách tiếp cận quan trọng hơn đối với FDI ra bên
ngoài.

Hoạch định chính sách đầu tư quốc tế đang thay đổi liên tục. Số lượng hàng


năm của điều ước đầu tư song phương (BIT) tiếp tục giảm, trong khi hoạch định
chính sách khu vực đầu tư được tăng cường. Trong đó phát triển bền vững là vấn
đề nổi bật trong hoạch định chính sách đầu tư quốc tế. Nhiều ý tưởng về cải cách
2
2
3
của các nhà đầu tư trong hệ thống giải quyết tranh chấp Quốc gia (ISDS) được
đưa ra, nhưng chỉ một vài trong số đó được thực hiện.
Các công ty đối tác cần sự hỗ trợ để tuân thủ theo những quy định về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR). Mã CSR của các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs) thường đặt ra những thách thức cho các công ty đối tác ở các nước đang
phát triển (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs)). Họ phải tuân thủ và
báo cáo theo nhiều tiêu chuẩn phân loại. Hoạch định chính sách có thể làm giảm
bớt những thách thức và tạo ra những cơ hội mới cho các nhà cung cấp bằng
cách kết hợp CSR vào sự phát triển doanh nghiệp và các chương trình xây dựng
năng lực. Các công ty đa quốc gia cũng có thể hài hòa các tiêu chuẩn và yêu cầu
báo cáo ở cấp ngành công nghiệp.
Để lý giải rõ hơn về những vấn đề đã nêu, chúng ta sẽ phân tích Những phát
triển chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khoảng thời gian gần
đây.

3
3
4
1. Phát triển chính sách Quốc gia
1.1. Những thay đổi trong quy định chính sách quốc gia - tự do hóa và
xúc !ến đầu tư
Trong năm 2011, ít nhất 44 quốc gia và nền kinh tế đã thông qua 67 biện
pháp chính sách mà có ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài (hình III.1). Trong số
đó, 52 chính sách liên quan đến tự do hóa đầu tư, thúc đẩy và tạo điều kiện thuận

lợi cho đầu tư, trong khi 15 chính sách giới thiệu các hạn chế mới hay quy định
mới cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ phần trăm các giải pháp chính sách
hạn chế đã giảm đáng kể, từ khoảng 32% năm 2010 xuống 22% vào năm 2011.
Tuy nhiên, sẽ là quá sớm để giải thích sự suy giảm này như là một dấu hiệu của
một sự đảo ngược của xu hướng hướng tới một môi trường chính sách nghiêm
ngặt hơn mà đã được thực hiện trong những năm trước đó (hình III.1).
4
4
5
Hình III.1. Thay đổi quản lý quốc gia, 2000-2011 (%)
Nguồn: UNCTAD
Trong số 67 biện pháp được chấp thuận, có gần một nửa (29) hướng trực tiếp
tới đầu tư nước ngoài. Những biện pháp này mang lại những ưu đãi đặc biệt tới
các nhà đầu tư nước ngoài, làm giảm vấn đề phân biệt đối xử hay những hạn chế
hiện tại đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong tổng số đó, có 21 biện pháp
được đánh giá là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và 8
biện pháp là ít thuận lợi hơn. Trong số những biện pháp được đánh giá là tạo
thuận lợi hơn, chỉ có khoảng hơn một nửa (11) có liên quan đến tự do hóa
thương mại đầu tư trực tiếp nước ngoài, 6 biện pháp khác liên quan đến các hoạt
động xúc tiến và tạo điều kiện thuận lợi, và 4 biện pháp còn lại liên quan đến
điều kiện hoạt động của FDI. Các chính sách kém thuận lợi thay đổi liên quan tới
những hạn chế mới về nhập cảnh và thành lập trong đầu tư nước ngoài (6 biện
5
5
6
pháp). Bốn biện pháp cuối cùng hướng tới đầu tư ra nước ngoài, với hai mục tiêu
nhằm thúc đẩy đầu tư và hai nhằm hạn chế đầu tư ra nước ngoài.
Xu hướng chính sách tổng thể đối với tự hóa thương mại liên tục và xúc tiến
đầu tư thường nhắm mục tiêu vào các ngành công nghiệp cụ thể
Ngành công nghiệp khai khoáng là một ngoại trừ, bởi vì như hầu hết các

biện pháp thuộc chính sách liên quan đến ngành CN khai khoáng đưa ra đều là
kém thuận lợi, mặc dù ảnh hưởng ít rõ ràng hơn so với các năm trước. Các ngành
nông nghiệp và ngành tài chính cũng có nhiều những biện pháp kém thuận lợi.
Trong đó ngành nông nghiệp thì chính sách hạn chế nhập cảnh được đưa ra. Đối
với ngành tài chính, các biện pháp này bao gồm 2 hạn chế ảnh hưởng tới quyền
sở hữu và kiểm soát các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng và bảo
6
6
7
hiểm, và một biện pháp hạn chế quyền xâm nhập vào tài chính địa phương đối
với các công ty đầu tư vốn nước ngoài.
Bảng III.1. Thay đổi, quản lý quốc gia 2000 - 2011 (Số các biện pháp)
Nguồn: UNCTAD
Từ những thay đổi trong chính sách quốc gia, theo phân tích của UNTAD đã
đưa ra 3 nhóm biện pháp riêng biệt:
1. Các biện pháp đầu tư trực tiếp đặc thù: Là những biện pháp chỉ được áp
dụng cho các nhà đầu tư nước ngoài, như là các biện pháp hạn chế điều kiện
nhập cảnh hay quyền sở hữu đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thủ tục kiểm tra
FDI và các ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Các biện pháp đầu tư chung: Là các biện pháp áp dụng cho cả các nhà đầu
tư trong và ngoài nước, như là các biện pháp hạn chế sở hữu tư nhân, tủ tục cấp
giấy phép cho các doanh nghiệp mới, và cá ưu đãi đầu tư chung.
3. Các biện pháp về môi trường kinh doanh chung: Là những biên pháp gián
tiếp ảnh hưởng đến các nhà đầu tư nói chung, chẳng hạn như những thay đổi về
7
7
8
thuế, những quy định về lao động và môi trường, chính sách cạnh tranh và các
quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Những nhóm biện pháp này trực tiếp hay gián tiếp tác động tới môi trường

đầu tư. Những biện pháp tạo thuận lợi hơn là những biện pháp trực tiếp hoặc
gián tiếp hướng tới việc tạo ra một môi trường hấp dẫn đối với đầu tư nước
ngoài, ví dụ như, thông qua tự do hóa thương mại hoặc cung cấp các ưu đãi. Các
biện pháp kém thuận lợi là các biện pháp có tác động ngược lại. Bao gồm, ví dụ,
việc đưa ra các hạn chế nhập cảnh mới, phân biệt đối xử và những hạn chế trong
việc chuyển lợi nhuận về nước.
Tự do hóa đầu tư và xúc tiến đầu tư vẫn là đề tài nóng trong các chương
trình nghị sự về chính sách. (Các quốc gia trên thế giới tiếp tục tiến hành tự do
hóa và xúc tiến đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp khác nhau để thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế). Trong năm 2011, có ít nhất 8 quốc gia đã
tiến hành các biện pháp nhằm mở rộng FDI vào các ngành công nghiệp. Những
ngành công nghiệp mũi nhọn như nông nghiệp, phương tiện truyền thông và tài
chính. Các biện pháp tập trung nhất vào việc tự do hóa nhập cảnh và các điều
kiện thành lập cho các nhà đầu tư nước ngoài ở khu vực Châu Á. Một số nước đã
theo đuổi các chính sách cá nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực sân bay và dịch vụ
viễn thông.
Brazil đã chấp nhận thông qua một đạo luật nâng mức trần lên 49% nguồn sở
hữu vốn nước ngoài cho các nhà khai thác cáp quang. Đạo luật này cũng cho
8
8
9
phép trong lĩnh vực viễn thông nhằm cung cấp gói kết hợp bao gồm các dịch vụ
thoại, băng rộng và truyền hình.
Ấn Độ cũng cho phép toàn quyền sở hữu vốn nước ngoài cho một bộ phận
trong lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể là trong việc phát triển và sản xuất giống và
trồng nguyên liệu, chăn nuôi, ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản với điều kiện có
sự kiểm soát và các dịch vụ liên quan đến kinh doanh nông nghiệp và các ngành
nghề liên quan. Thêm vào đó, quốc gia này cũng mở rộng mức độ đầu tư nước
ngoài trong thương mại bán lẻ lên tới 100% thay vì mức giới hạn 51% như trước
đây.

Liên bang Nga đã nới lỏng các yêu cầu tiên quyết để chấp thuận các nhà đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực khai thác tài nguyên đất, từ 10% lên tới 25%.
Thái Lan cho phép các ngân hàng nước ngoài mở các chi nhánh con tại nước
này để chuyển đổi chúng thành các ngân hàng hỗ trợ cho ngân hàng mẹ.

Angola giới thiệu một chế độ áp dụng đối với nhà đầu tư trong và ngoài
nước đầu tư tại các khu vực đang phát triển, đặc khu kinh tế, khu thương mại tự
do đầu tư mới. Cung cấp một số điều kiện nhất định, khuyến khích đầu tư trong
một loạt các ngành công nghiệp, bao gồm nông nghiệp, sản xuất, đường sắt,
đường bộ, cảng và cơ sở hạ tầng sân bay, viễn thông, năng lượng, y tế, giáo dục
và du lịch.
Trung Quốc công bố hướng dẫn mới khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài
trong các ngành công nghiệp chiến lược đang nổi lên liên quan đến việc sử dụng
9
9
10
hiệu quả năng lượng, bảo vệ môi trường và công nghệ cao, cũng như một số
ngành công nghiệp khác trong sản xuất và các ngành dịch vụ.

Hoa Kỳ thiết lập thiết chế "Chọn USA", đầu tiên là phối hợp thể chế liên
bang thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích nhà đầu tư Hoa Kỳ ra nước
ngoài để đầu tư rồi thiết lập lại các hoạt động kinh doanh trong nước của họ tại
nước ngoài. Sáng kiến này nhằm (i) thể hiện thế mạnh của đất nước theo một
cách tốt hơn, (ii) cung cấp thông tin rõ ràng, đầy đủ và thống nhất về môi trường
đầu tư tại Hoa Kỳ, và (iii) loại bỏ những trở ngại không cần thiết đầu tư. Nó
cũng nhằm mục đích hỗ trợ khu vực tư nhân tạo việc làm và duy trì ngành công
nghiệp cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế.
Uzbekistan đã thông qua một nghị định mới cung cấp các ưu đãi và điều
khoản bổ sung cho các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm một điều khoản
"grandfathering" – được hỗ trợ với việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, và các lợi

ích về thuế.

Một phần lớn (32%) các biện pháp chính sách được thực hiện trong năm
2011 liên quan đến xúc tiến đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi. Trong số đó có
thay đổi hành chính và thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài.
Những biện pháp khác thì cung cấp khuyến khích mới cho các nhà đầu tư trong
các ngành công nghiệp như ngành công nghiệp khai khoáng, phát điện, thông tin
liên lạc công nghệ thông tin và, và chăm sóc giáo dục và y tế.
1.2. Những thay đổi trong qui định nhà nước liên quan đến đầu tư
nước ngoài vào trong nước
10
1
11
Các biện pháp quy định ảnh hưởng đến FDI bao gồm việc điều chỉnh chính
sách đầu tư trong một số khu vực trọng điểm và khu vực công nghiệp khai
khoáng chịu sự kiểm soát của nhà nước.
Năm vừa qua đã có một sự tiếp nối của các chính sách quy định về FDI.
Động cơ đa dạng cho các chính sách này bao gồm những cân nhắc về an ninh
quốc gia, an ninh lương thực và chính sách công nghiệp, cũng như muốn kiểm
soát ngành công nghiệp chiến lược và cơ sở hạ tầng. Sự hạn chế không chỉ xuất
hiện trong khuôn khổ quy định mà còn trong cả những hành động thực tiễn
nghiêm ngặt hơn của chính quyền. Những quy định của Nhà nước đã được cụ thể
hóa trong hai lĩnh vực chính sách: (i) điều chỉnh chính sách nhập cảnh đối với
FDI vào, và (ii) chính sách quản lý trong ngành công nghiệp khai khoáng.
1.2.1. Điều chỉnh chính sách nhập cảnh có liên quan đến FDI vào bên trong.

Một số quốc gia đã thay đổi cách tiếp cận chính sách của họ đối với FDI
trong 2011-2012 bằng cách giới thiệu các rào cản mới hoặc bằng cách tăng
cường các thủ tục kiểm tra. Đặc biệt là ở châu Mỹ Latinh và châu Phi, những lo
ngại ngày càng tăng về mua quá nhiều đất bởi các công ty nước ngoài có quy mô

lớn và các thực thể chịu sự kiểm soát của chính phủ (ví dụ như các quỹ tài sản có
chủ quyền), hậu quả môi trường của khai thác quá mức, và tác động của chúng
đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn cũng như các nhà sản xuất
trong nước ở nông thôn.
11
1
12
Có ít nhất hai quốc gia (Argentina và Cộng hòa Dân chủ Congo) đã thông
qua các biện pháp hạn chế vào nông nghiệp. Những thay đổi này phản ánh thực
tế rằng nông nghiệp là một ngành chiến lược an ninh lương thực và là một nguồn
quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế.

Mặc dù có mối quan tâm giống nhau về vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh
vực nông nghiệp, nhưng hai nước đã chọn hình thức khác nhau và mức độ hạn
chế về tiếp cận đất đai của người nước ngoài. Cộng hòa Dân chủ Congo đặt ra
một yêu cầu quốc tịch nghiêm ngặt, theo đó công dân Congo, các công ty phần
lớn thuộc sở hữu của công dân Congo được phép nắm giữ đất. Ngược lại,
Argentina thông qua một cơ chế thiết lập hạn ngạch định lượng cho người nước
ngoài sở hữu đất nông nghiệp.

Các phương tiện khác được triển khai trong năm 2011 để tăng cường kiểm
soát của chính phủ đối với FDI vào. Ví dụ, Ấn Độ đã quyết định rằng những đề
xuất FDI đối với các dự án sáp nhập và mua lại trong ngành dược phẩm chỉ đạt
được dưới sự thông qua của một lộ trình phê duyệt của Chính phủ. Quyết định
này được cho là thực hiện để đảm bảo sự cân đối giữa vấn đề sức khỏe công
cộng và thu hút FDI trong ngành công nghiệp dược phẩm.
1.2.2. Những tác động của nhà nước trong ngành công nghiệp khai khoáng
Năm 2011-2012, một số nước giàu tài nguyên thiên nhiên đã đưa ra cách
thức tiếp cận quy định trong ngành công nghiệp khai khoáng. Có nhiều lý do cho
sự phát triển này bao gồm mong muốn của Chính phủ được hưởng lợi từ giá cả

12
12
13
hàng hóa toàn cầu tăng cao và mong muốn của họ nhằm thúc đẩy quản lý nhà
nước về tài nguyên thiên nhiên, cũng như sự bất mãn của họ với hiệu suất của
các nhà khai thác tư nhân trong nước.
Để có được kiểm soát nhiều hơn đối với các ngành công nghiệp khai khoáng,
các chính phủ đã lựa chọn con đường khác nhau. Các đường dẫn này dẫn đến
yêu cầu quốc hữu hóa, tước quyền sở hữu hoặc cắt bỏ.
Chẳng hạn, Argentina đã thông qua một đạo luật tuyên bố vì lợi ích cộng
đồng và đã tước quyền sở hữu 51% vốn cổ phần của YPF SA, thuộc sở hữu của
Repsol YPF SA (Tây Ban Nha), và 51% vốn cổ phần của Repsol YPF Gas SA,
thuộc sở hữu của Repsol Butano SA (Tây Ban Nha).
Nước này cũng đã thông qua đạo luật về đất đai, hạn chế quyền sở hữu của
người nước ngoài (cả cá nhân và các công ty) đến 15% đất nông thôn sản xuất.
Thêm vào đó, không có công dân hay một hãng nước ngoài nào được sở hữu quá
1.000 ha đất ở một số địa bàn sản xuất trọng điểm. Cộng hòa Dân chủ Congo đã
thông qua một đạo luật cho phép đất phải nằm trong tay công dân Congo hoặc
bởi các công ty được phần lớn thuộc sở hữu của công dân Congo.
Tại In-đô-nê-xi-a, ban hành các luật mới yêu cầu các công ty nước ngoài
hoạt động trong lĩnh vực than, khoáng sản và kim loại nhằm gạt bỏ dần dần cổ
phần của họ ở Indonesia.
Chủ sở hữu nước ngoài kinh doanh trong ngành khai thác mỏ được yêu cầu
phải gạt bỏ dần dần cổ phần của mình, bắt đầu từ 5 năm sau khi sản xuất, để đến
13
1
14
năm thứ mười ít nhất 51 % số cổ phần sẽ thuộc quyền sở hữu của các tổ chức
Indonesia
1.3. Những thay đổi trong các phương pháp !ếp cận quan trọng

trong đầu tư trực !ếp ra nước ngoài
Năm 2011-2012, một số nước đã thông qua nhiều chính sách quan trọng đối
với FDI ra nước ngoài. Với tình trạng thất nghiệp trong nước tăng, quan ngại của
chính phủ lúc này là FDI đang góp phần xuất khẩu việc làm ra nước ngoài và tạo
nên sự suy yếu cho các cơ sở công nghiệp trong nước. Những mối quan ngại
chính sách khác như sự ổn định của thị trường ngoại hối và cải thiện trong cán
cân thanh toán. Để giải quyết những mối lo ngại này, các quốc gia đã có những
tiếp cận chính sách khác nhau bao gồm (i) hạn chế FDI đầu tư ra nước ngoài và
(ii) khuyến khích đưa đầu tư ra nước ngoài quay trở lại trong nước. Chẳng hạn,
Argentina đã yêu cầu các công ty bảo hiểm hồi hương tất cả các khoản đầu tư ở
nước ngoài trước khi kết thúc năm 2011. Thông qua biện pháp này, Chính phủ
đã tìm cách để ngăn chặn sự thất thoát vốn ra ngoài. Đối với nhóm thứ hai, bao
gồm các ưu đãi và các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi khác để hồi hương các
khoảng đầu tư ra nước ngoài.
1.4. Những thay đổi trong biện pháp chính sách ảnh hưởng đến môi
trường kinh doanh chung của FDI
Biện pháp chính sách ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh chung của FDI
chủ yếu liên quan đến những thay đổi trong tỷ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nhiều biện pháp bao gồm tăng tỷ lệ thuế suất ở các mốc chủ yếu là trong các
14
1
15
ngành công nghiệp khai khoáng ở châu Phi và châu Mỹ Latinh, vùng Ca - ri - bê.
Các biện pháp chính sách khác cũng ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh nói
chung bao gồm các thay đổi trong chế độ cạnh tranh, quy định lao động, luật
nhập cư và pháp luật của công ty.
Từ những xu hướng thay đổi trong phát triển chính sách đầu tư nước ngoài,
thì thách thức đặt ra trong việc thiết lập chính sách về FDI đó là chính phủ cần
phải theo đuổi cách tiếp cận nhất quán khi điều chỉnh chính sách FDI của họ, và
tránh chính sách bảo hộ đầu tư. Những chính sách trên cũng đã chỉ ra những

thách thức đáng kể mà các quốc gia phải đối mặt trong việc tìm kiếm cách thức
tiếp cận với những khoản đầu tư nước ngoài. Những thách thức này nảy sinh
trong việc đưa ra những quyết định: phải tự do hóa hoặc hạn chế FDI bao nhiêu
thì đủ, xử lý cách nào với FDI ra ngoài, những điều kiện tổ chức thế nào để áp
dụng cho FDI. Đó là 8 thách thức:
Thứ nhất là, khi nói đến việc lựa chọn việc tự do hóa hoặc hạn chế FDI,
quyết định thường đòi hỏi một câu trả lời nhiều sắc thái hơn là trả lời 1 cách đơn
giản "có" hoặc "không". Các quốc gia cần xem xét một danh sách lựa chọn, bao
gồm các lựa chọn thay thế khác nhau giữa hạn chế số lượng chủ sở hữu nước
ngoài so với thủ tục kiểm tra linh hoạt hơn, và yêu cầu bắt buộc so với các biện
pháp tự nguyện để đưa ra quyết định về chính sách. Ngay cả trong một ngành
công nghiệp lựa chọn khác nhau có thể được thực hiện về mức độ mà nó phải
được mở cửa cho FDI.
15
15
16
Thứ hai, các nước cần phải cẩn thận xem xét các ưu và khuyết điểm của các
lựa chọn chính sách khác nhau để tìm mức độ “đúng đắn” cho các Quy định của
Nhà nước.
Thứ ba, quyết định nếu chỉ phụ thuộc vào mức độ cởi mở đối với FDI có thể
sẽ không đủ để giải quyết các vấn đề chính sách cụ thể. Việc thu hút FDI đòi hỏi
một môi trường đầu tư ổn định, có thể dự đoán trước được và cho phép hoạt
động. Để khuyến khích FDI, các nước cũng cần phải cung cấp hỗ trợ "cứng"
thông qua một lực lượng lao động có trình độ và cơ sở hạ tầng tốt. Thách thức
ngành công nghiệp cụ thể cũng tồn tại. Ví dụ, trong lĩnh vực nông nghiệp, việc
mở rộng hay hạn chế mức độ tiếp cận với đất đai của người nước ngoài có thể
không đủ nếu chính quyền không tạo ra một hệ thống đăng ký hiện đại, hài hoà
mà các biện pháp trong phạm vi cho phép các nhà đầu tư hoạt động.
Thứ tư, vấn đề của sự cởi mở đối với FDI cũng đòi hỏi một loạt các vấn đề
nhạy cảm và quan trọng liên quan đến thương mại.

Thứ năm, các nước cần phải đảm bảo rằng các chính sách liên quan đến FDI
của họ giải quyết gốc rễ của vấn đề hơn là chỉ chữa các triệu chứng. Chính sách
tiêu cực đối với FDI ra ngoài có thể làm tổn thương các nước tiếp nhận, đặc biệt
là ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào dòng chảy công nghệ nước ngoài,
vốn.
16
1
17
Thứ sáu, các nước cần phải quyết định chế của họ để thiết lập một bộ chính
sách điều chỉnh FDI. Nhiều quốc gia theo đuổi cách tiếp cận làm thay đổi chính
sách đối phó, đối phó vs những trường hợp phát sinh.
Thứ bảy, những thay đổi chính sách không phù hợp và điều chỉnh chính sách
có thể tạo ra một môi trường không chắc chắn về định hướng của chính sách
FDI, tới khả năng sản xuất với các tác động tiêu cực về môi trường đầu tư.
Những rủi ro này kêu gọi các chính phủ phải có một cái nhìn dài hạn về chính
sách FDI và tập trung vào các điều kiện đầu tư ổn định bền vững.
Thứ tám, trong thời gian khủng hoảng kinh tế, nguy cơ đáng kể của các nước
phải dùng đến biện pháp đầu tư bảo hộ khi giải quyết FDI. Ngoài ra cũng chú ý
đến việc đảm bảo rằng các quy định liên quan đến phát triển bền vững không trở
thành một cái cớ để bảo hộ mậu dịch " xanh"
Gần đây, đã bắt đầu xuất hiện một cuộc tranh luận về việc liệu các chính
sách nhằm tăng trưởng "xanh" có thể có các tác dụng phụ của đầu tư bảo hộ hay
không. Điều này chủ yếu là một mối quan tâm đối với các nước đang phát triển.
Việc thúc đẩy một "nền kinh tế xanh " cung cấp các cơ hội quan trọng và lợi ích
cho quốc gia, bao gồm cả việc mở cửa các lĩnh vực kinh doanh mới, cải thiện
quy trình sản xuất và cải thiện hiệu quả năng lượng, cũng như các tác động tích
cực đến môi trường tự nhiên của địa phương. Ngược lại, nâng cao mức độ bảo vệ
môi trường cả trực tiếp và gián tiếp có thể ngăn cản FDI.
17
1

18
Về tác động trực tiếp, yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn khí thải và các biện
pháp năng lượng khác có thể làm tăng chi phí đầu tư và sản xuất và do đó có khả
năng ngăn cản các công ty này đầu tư. Vấn đề này liên quan đến các dự án đầu tư
công cộng, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng phát triển, mà nhà nước tìm kiếm sự
tham gia của các nhà đầu tư tư nhân. Các công ty từ các nuớc đang phát triển có
thể không có vốn và biết làm thế nào để tuân thủ các yêu cầu này. Ngoài ra,
chính phủ khuyến khích các nước phát triển đầu tư vào một nền kinh tế xanh có
thể gây ra tác dụng phụ ngăn cản các nước này đầu tư vào các nước đang phát
triển nơi mà họ không thể mong đợi sự hỗ trợ tương đối của chính phủ.
Vấn đề môi trường cũng có thể gián tiếp ảnh hưởng tiêu cực FDI. Ví dụ,
những chính sách thương mại của một quốc gia có thể áp đặt các hạn chế nhập
khẩu hàng hoá được sản xuất ở một nước khác theo một cách thức mà nước nhập
khẩu xem xét là không thân thiện với môi trường. Các công ty có thể e ngại việc
thực hiện đầu tư trong nước A mà sau đó họ không thể xuất khẩu hàng hóa sản
xuất sang nước B. Vấn đề tương tự có thể xảy ra trong kết nối với các chính sách
mua sắm công.
2. Chính sách đầu tư quốc tế
18
1
19
2.2. Hiệp ước khu vực đang chuyển dần sang giai đoạn trung tâm.
Các cuộc đàm phán về Các hiệp định đầu tư song phương BITs đang mất đà
bởi hoạch định chính sách khu vực đầu tư đang được tăng cường. Với 47 hiệp
định đầu tư quốc tế (IIAs) ký kết năm 2011 ( 33 BITs và 14 " IIAs khác " ), hiệp
ước đầu tư truyền thống vẫn tiếp tục mất đà. Xu hướng này dự kiến sẽ kéo dài
đến hết năm 2012, trong năm tháng đầu năm nay chỉ có 10 BITs và 2 " IIAs khác
" được ký kết.
Bảng III.2.: Xu hướng BITs và IIAs, 1980-2011
Nguồn: UNCTAD

Xu hướng chung của việc đưa ra hiệp ước giảm có thể có nhiều nguyên
nhân, bao gồm (i) thay đổi dần dần hướng tới thiết lập hiệp ước khu vực thay vì
các hiệp ước song phương, (ii) thực tế là IIAs đang trở nên ngày càng gây tranh
19
1
20
cãi và nhạy cảm về chính trị, bởi hầu hết những mở rộng trong các IIAs liên
quan tới việc xét xử giữa các nhà đầu tư và nhà nước.
Đến cuối năm 2011, IIA tổng thể bao gồm 3.164 thỏa thuận, trong đó bao
gồm 2.833 BIT và 331 " IIAs khác". Về định lượng, thỏa thuận song phương vẫn
chiếm ưu thế đầu tư quốc tế hoạch định chính sách, tuy nhiên, về ý nghĩa kinh tế,
có một sự thay đổi dần dần hướng tới chủ nghĩa khu vực. Một số phát triển ở
châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ là ví dụ minh họa điều này trong thảo luận xu
hướng về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương vẫn được tiếp tục diễn ra,
với vòng đàm phán thứ 12 được ký kết tháng 5 năm 2012. Hiện nay, chín nước
tham gia (Úc, Bru-nây Đa-ru-sa-lam, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru,
Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam), Canada và Mexico đã được chính thức mời
tham gia các cuộc đàm phán và Nhật Bản cũng đã bày tỏ quan tâm. Các thỏa
thuận này được dự kiến sẽ thành lập một khu vực thương mại tự do và bao gồm
một chương đầu tư đầy đủ với tiêu chuẩn cao về tự do hóa đầu tư và bảo hộ -
một vấn đề mà đã gây ra một số tranh cãi giữa các bên liên quan đầu tư.
Nếu tất cả 12 quốc gia ký thỏa thuận, kết hợp sức mạnh kinh tế của họ sẽ lên
đến 35 % sản phẩm quốc nội (GDP), và các điều ước quốc tế có khả năng có thể
thay thế 47 IIAs Năm 2012 thỏa thuận đầu tư quốc gia ba bên giữa Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc Cùng với ký kết của 3 nước này, những người đã đồng ý
bắt đầu đàm phán một hiệp ước thương mại tự do.
Hiệp ước này cũng bao gồm một số ngành mới, quan trọng nhất liên quan
quyền sở hữu trí tuệ trong nước. Tuy nhiên thỏa thuận này không chấm dứt BIT
trước đây đã ký giữa các bên.
20

20
21

Ở cấp độ châu Âu (EU) Liên minh, Ủy ban châu Âu đàm phán không chỉ
liên quan đến tự do hóa thương mại và đầu tư, mà còn về các điều kiện liên quan
đến bảo hộ đầu tư thay mặt cho tất cả các quốc gia thành viên (xem WIR10,
WIR11). Cho rằng các nước EU chiếm 1/4 GDP toàn cầu và gần một nửa các
luồng FDI toàn cầu, bất kỳ thỏa thuận nào được ký kết của EU sẽ có sức mạnh
kinh tế đáng kể. Trong tháng 9 năm 2011, Hội đồng EU đã ban hành 3 chỉ thị
đầu tiên đàm phán với Ủy ban châu Âu tiến hành các cuộc đàm phán về bảo vệ
đầu tư cho các hiệp định thương mại tự do (FTA) với Canada, Ấn Độ và
Singapore. Như đã đề cập trong Giao lưu của Ủy ban châu Âu, "Hướng tới một
chính sách toàn diện châu Âu đầu tư quốc tế" và Kết luận của Hội đồng châu Âu,
mục tiêu cho các hợp đồng có quy định về bảo hộ đầu tư trong tương lai là để
bảo vệ mức độ cao các thành viên quốc gia hiện có (ví dụ như điều khoản của
quyền sở hữu trí tuệ như là một hình thức bảo vệ đầu tư, đối xử tối huệ quốc và
quốc gia của nhà đầu tư; và ISDS). Trong tháng 12 năm 2011, Hội đồng EU đã
thông qua đàm phán FTA sâu sắc và toàn diện với Ai Cập, Jordan, Morocco và
Tunisia, mà trong đó cũng bao gồm cả các quy định về bảo hộ đầu tư.
Nhìn chung, sự cân bằng đang dịch chuyển từ các hình thức hiệp ước song
phương sang hiệp ước khu vực, do đó làm tăng tác động mang tính chất vùng.
Trong hầu hết các trường hợp, các hiệp ước khu vực thường đi cùng lúc với các
FTA. Để giải quyết một cách toàn diện các yếu tố thương mại và đầu tư của các
hoạt động kinh tế quốc tế, các thỏa thuận rộng lớn hơn có thể đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu của thực tế kinh tế ngày nay - nơi mà thương mại quốc tế và đầu tư
đang ngày càng kết nối. Đáng chú ý là chương đầu tư trong các hiệp định khu
21
21
22
vực mới thường có quy định tinh tế hơn và chính xác hơn trong các điều ước

trước đó.
Nhìn chung sự thay đổi này có thể củng cố và hài hòa hóa các quy tắc đầu tư
và đại diện cho một bước tiến trong việc đàm phán đa phương. Tuy nhiên, hiệp
ước mới không có những tiến độ thực hiện của những người cũ, kết quả có thể là
ngược lại: thay vì đơn giản hóa và phát triển nhất quán, khu vực hóa có thể dẫn
đến một phép nhân của các lớp hiệp ước, làm cho mạng IIA thậm chí phức tạp
hơn và dễ bị chồng chéo và không nhất quán.
2.2. Xu hướng Phát triển xung đột với ISDS
Trong khi các nhà đầu tư tiếp tục sử dụng các cơ chế của ISDS thì một số
quốc gia đã bày tỏ sự bất mãn của họ trong việc giải quyết tranh chấp hiện tại
bằng thủ tục tố tụng.
Trong năm 2011, số lượng đề xuất của ISDS được biết đến dưới hình thức
IIAs tăng ít nhất là 46. Điều này tạo thành số lượng cao nhất được biết đến trong
các tranh chấp dựa trên số lượng hiệp ước từng được nộp trong một năm.
Sự gia tăng nhanh chóng này có thể được giải thích bởi một số yếu tố bao
gồm nhận thức ngày càng tăng của ISDS bởi các nhà đầu tư và tư vấn pháp lý
của họ, điều này phản ánh chính phủ nhà đầu tư tái khẳng định vai trò của họ
trong việc điều hành và chỉ đạo các nền kinh tế, như thực hiện thông qua một số
thay đổi quản lý quốc gia. Trong các trường hợp khác gần đây, các nhà đầu tư
22
22
23
thách thức chính sách công cốt lõi đã ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng kinh
doanh của họ. Ví dụ như, hang thuốc lá Philip Morris bắt đầu tố tụng trọng tài
chống lại Uc, tuyên bố rằng những yêu cầu về bao bì và yêu cầu ghi nhãn của
nước này đối với thuốc lá vi phạm quy định BIT. Vattenfall, một công ty năng
lượng Thụy Điển, nộp đơn lên ICSID chống lại Đức về quyết định của nước này
nhằm loại bỏ việc tạo điều kiện thuận lợi phá triển năng lượng hạt nhân.
Một số quốc gia đã bày tỏ lo ngại của họ với hệ thống ISDS hiện nay. Trong
tháng 4 năm 2011, Chính phủ Úc đã ban hành một tuyên bố chính sách thương

mại công bố rằng họ sẽ ngừng bao gồm cả điều khoản ISDS trong IIAs. Giải
thích về quyết định này, Chính phủ tuyên bố rằng ISDS sẽ cung cấp cho các
doanh nghiệp nước ngoài quyền pháp lý lớn hơn so với các doanh nghiệp trong
nước và sẽ hạn chế khả năng hoạch định chính sách công cộng của Chính phủ (ví
dụ như sự thong qua và thực hiện pháp luật xã hội, môi trường và kinh tế). Trong
tháng 1 năm 2012, Vê-nê-zu-ê-la thông báo ý định rút khỏi Công ước ICSID, trở
thành nước thứ ba để làm như vậy (sau Nhà nước Plurinational của Bolivia và
Ecuador). Bên cạnh đó số lượng ngày càng tăng của yêu cầu truất quyền của
trọng tài viên, gồm cả nhà đầu tư và các quốc gia, là một dấu hiệu của sự không
hài lòng với thủ tục ISDS.
Theo thời gian, các luận cứ công khai về các tính hữu dụng và tính hợp pháp
của các cơ chế ISDS ngày càng nhiều đôi khi việc diễn ra ở cấp quốc gia và tập
trung vào sự lựa chọn của một quốc gia theo hướng lựa chọn của ISDS trong một
IIA cụ thể ( ví dụ như Ấn Độ, Hàn Quốc ) và đôi khi cũng mang tầm cỡ quốc tế,
liên quan đến một loạt các quốc gia (như với bức thư ngỏ của các luật sư về Hiệp
23
23
24
định TPP- Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương). Tất
cả điều này đã dẫn đến một cuộc tranh luận tăng cường trong các diễn đàn quốc
tế.
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-
Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là TPP) là một
Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, được ký kết với mục tiêu thiết lập một
mặt bằng thương mại tự do chung cho các nước khu vực châu Á Thái Bình
Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006 giữa
4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei (vì vậy Hiệp định này còn gọi là
P4) Theo như báo chí đưa tin thì dường như ở Mỹ vẫn còn nhiều ý kiến bất đồng
xung quanh việc Mỹ có nên ký kết và thực hiện TPP hay không (bằng chứng là
Phó Đại diện thương mại Hoa Kỳ đã phải thực hiện một chuyến công du “chưa

từng có trong tiền lệ” đến các bang của Hoa Kỳ để thuyết phục cộng đồng doanh
nghiệp Mỹ về lợi ích của TPP).
2.3. ISDS - Chương trình cải cách chưa hoàn chỉnh
Có rất nhiều ý kiến đưa ra nhằm cải cách ISDS, nhưng trong đó chỉ có số ít
được đưa vào thực tiễn.
Những thiếu sót của hệ thống ISDS đã được ghi nhận. Mối lo lắng bao gồm
(i) nới rộng việc sử dụng IIAs vượt ra ngoài những dự kiến ban đầu; (ii) mâu
thuẫn trong việc làm sáng tỏ điểu khoản IIA quan trọng đã dẫn đến sự không
chắc chắn về ý nghĩa của chúng; (iii) ICSID của các quốc gia xem xét cơ chế để
sửa chữa những sai lầm nội dung của các tòa án cấp đầu tiên; (iv) sự xuất hiện
24
24
25
của một "câu lạc bộ" của các cá nhân phục vụ như một tư vấn viên trong một số
trường hợp những đồng thời lại làm trọng tài trong những trường hợp khác,
thường có các cuộc hẹn lặp đi lặp lại, do đó làm tăng lo ngại về xung đột lợi ích;
(v) thực tiễn đề cử những trọng tài viên – những người mà hẩu như chỉ ủng hộ
cho bên mà tiến cử họ; (vi) nhiều thủ tục tố tụng “kín”; (vii) chi phí cao và thủ
tục tố tụng kéo dài, và (viii) tổng thể mối lo ngại về tính hợp pháp và tính công
bằng của hệ thống.
Sự tham gia ngày càng tăng của các nhà hoạch định chính sách, các học giả,
các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dân sự vào các vấn đề của ISDS đã tạo ra
một loạt các đề xuất cải cách:
- Kiềm chế số lượng ngày càng tăng các vụ kiện tụng ISDS
- Nâng tính hợp pháp và tính minh bạch của thủ tục tố tụng ISDS
- Đối phó với những giải thích mâu thuẫn trong các quy định chính của IIAs
và giải thích điều ước quốc tế nghèo nàn
- Nâng cao tính công bằng và chất lượng trọng tài viên
- Giảm thời gian và chi phí trong suốt quá trình tiến hành thủ tục tố tụng
- Hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc xử lý các vụ kiện tụng ISDS -

Giải quyết mối quan tâm tổng thể về các chức năng của hệ thống, bao gồm cả
việc thiếu sự gắn kết giữa các giải thưởng, bằng cách thiết lập một tòa án đầu tư
quốc tế đầy đủ với các thẩm phán thường xuyên để thay thế các quảng cáo hoc
Trọng tài theo nhiều nguyên tắc, hoặc bằng cách yêu cầu sự cạn kiệt các biện
pháp khắc phục hậu quả địa phương.
25
25

×