Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Bài tiểu luận xu hướng toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.24 KB, 31 trang )

XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong lịch sử từ xa xưa đến nay, không một cộng đồng, một quốc gia hay
một dân tộc nào có thể phát triển bình thường mà không quan hệ không trao đổi
giao lưu trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, … với các cộng
đồng dân tộc và các quốc gia khác. Do đó quan hệ quốc tế xuất hiện với tư cách là
quan hệ lâu đời và phổ biến. Nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi
quá trình phát triển xã hội. Toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế khách quan.
Trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia
tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự chấm dứt
chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới – hoà bình hợp tác và phát
triển. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế kéo theo nó là những cơ hội
và thách thức mới cho các quốc gia khi tham gia vào quá trình đó.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia vào hội nhập kinh tế
thế giới là một nội dung, một khía cạnh quan trọng hiện nay. Do vậy, việc nghiên
cứu tìm hiểu sâu về toàn cầu hoá kinh tế là vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý
luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy mà nhóm 4 chọn đề tài “xu hướng
toàn cầu hóa” làm đề tài viết tiểu luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu các xu hướng toàn cầu hóa nhằm mục đích tìm hiểu các tác
động của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt Nam và đẩy mạnh việc hội nhập sâu và
rộng của Việt Nam.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu:
a.Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung vào nghiên cứu các xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
NHÓM 4
1
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA


b.Phạm vi nghiên cứu: - Không gian: nghiên cứu xu hướng toàn cầu hóa trên thế
giới
- Thời gian: Từ thế kỷ XX đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh
theo thời gian, phương pháp đồ thị và biểu đồ.
5.Cấu trúc đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài liệu tham
khảo, mục lục, khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Khái niệm toàn cầu hóa
Chương 2: Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế
Chương 3: Thời cơ và thách thức với Việt nam trong xu thế toàn cầu hóa
\
NHÓM 4
2
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Chữ
viết tắt
Nguyên nghĩa
1
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
2
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
3
TNCs Các công ty xuyên Quốc gia
4
EU Liên minh châu Âu

5
M&A Mua lại và sát nhập
6
UNDP
Chương trình phát triển liên hiệp Quốc
UNCTAD
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về hợp tác và phát triển
8
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
9
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
10
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
11
ASEM Diễn đàn hợp tác Á Âu
12
IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế
13
WB Ngân hàng thế giới
14
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
NHÓM 4
3
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Bảng 2.1: Xu hướng dài hạn trong giá trị và khối lượng xuất khẩu hàng hóa của
thế giới thời kỳ 1950 – 2010……………………………………………………11
Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 –
2004…………………………………………………………………………….12

Bảng 2.3: Dòng vốn FDI trên thế giới thời kỳ 1970-2010…………………… 14
MỤC LỤC
NHÓM 4
4
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
CHƯƠNG 1 : TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ…………………… 6
1.1 Khái niệm……………………………………………………………………6
1.2 Nguồn gốc của toàn cầu hóa 6
1.3 So sánh toàn cầu hóa với quốc tế hóa 8
CHƯƠNG 2: XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ 9
2.1 Các xu hướng toàn cầu hóa kinh tế 9
2.2 Hệ quả tích cực của Toàn cầu hóa kinh tế 20
2.3 Hệ quả tiêu cực của Toàn cầu hóa kinh tế 21
CHƯƠNG 3: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM TRONG XU THẾ TOÀN
CẦU HÓA 22
3.1 Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa 23
3.2 Cơ hội 26
3.3 Thách thức 26
CHƯƠNG 1 : TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1.1 Khái niệm
NHÓM 4
5
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên quy
mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để
chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ,

thông tin, văn hoá.
Thực chất toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt
động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn
nhau gữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế
thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức
độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên
phạm vi toàn cầu hoá. Quá trình tham gia vào xu thế đó là của các quốc gia được
gọi là hội nhập kinh tế.
Toàn cầu hoá là một xu hướng bao gồm đa phương diện: kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội.v.v Trong các mặt đó thì toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm vừa
là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác của toàn cầu hoá. Toàn
cầu hóa về kinh tế là sự liên kết của nhiều nước cùng trong chiều hướng phát triển
chung, cùng tham gia trong một thị trường chung. Toàn cầu hóa kinh tế gúp thúc
đẩy nhanh chóng quan hệ kinh tế thương mại trên phạm vi quốc tế và nó cũng
chứa đựng những cơ hội cũng như những thách thức lớn.
1.2 Nguồn gốc của toàn cầu hóa
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung bắt
nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra
ngoài biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên
quốc gia, các ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển
NHÓM 4
6
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
gắn với hiện đại hoá… Toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của sự quốc tế hoá sản xuất
cao độ và phân công quốc tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị trường thế
giới.
Trong xã hội phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển thấp, giao thông
kém phát triển, quy mô sản xuất và trao đổi nhỏ bé, thị trường khép kín, không có
thị trường mang ý nghĩa hiện đại.
Khi nền sản xuất tư bản phát triển, thị trường thế giới mở rộng, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã viết: “Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng những sản
phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng
những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô
lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển
những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”[1].
Luận điểm này của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy, sự quốc tế hoá, toàn
cầu hoá đời sống kinh tế đã được bắt đầu từ khi chủ nghĩa tư bản mở rộng thị
trường thế giới, khi phát hiện ra châu Mỹ cách đây hơn 500 năm. Sự phát triển của
quốc tế hoá đời sống kinh tế lúc đầu còn theo ngành dọc, theo hệ thống thuộc địa
của các nước đế quốc thực dân, trên cơ sở sự phân công quốc tế và xuất khẩu tư
bản xuất phát từ các chính quốc đến các nước thuộc địa, thông qua bạo lực và bóc
lột kinh tế. Khi chủ nghĩa đế quốc xuất hiện, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
giữa các thế lực đế quốc trong phân chia thuộc địa và thị trường thế giới, sự quốc
tế hoá đời sống kinh tế đã mở rộng cả theo chiều ngang. Rồi các cuộc chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai nổ ra, quan hệ chính trị và kinh tế thế giới đảo
lộn, khủng hoảng và biến động, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế bị đẩy lùi.
Sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vào năm 1917
và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai tạo nên một kiểu quan hệ mới giữa các quốc gia dân tộc. Kiểu quan hệ mới này
NHÓM 4
7
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
bước đầu mở ra kiểu quốc tế hoá đời sống kinh tế mới, dựa trên tính ưu việt của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhằm khắc phục sự bất bình đẳng trong quan hệ
quốc tế của chủ nghĩa tư bản, đặt nền móng cho sự quốc tế hoá chân chính. Song,
do những thăng trầm của lịch sử, trong những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô sụp
đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, kiểu quan hệ kinh tế quốc tế này đã kết thúc.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất vẫn ngày càng phát triển. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức hình thành, đời
sống kinh tế quốc tế hoá, toàn cầu hoá; các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển

và trở thành lực lượng chi phối thế giới. Có thể nói, từ sau chiến tranh lạnh, toàn
cầu hoá kinh tế dường như chủ yếu gắn liền với chủ nghĩa tư bản.
Mặc dù vậy, trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa
và những nước này đang phát triển. Do vậy, nghiên cứu toàn cầu hoá kinh tế
không thể bác bỏ một thực tiễn lịch sử là toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra trong
bối cảnh hình thành cục diện kinh tế đa cực, hình thành một trật tự kinh tế, chính
trị quốc tế mới, trong đó có hình thức phát triển, hợp tác, cạnh tranh và cùng nhau
phồn vinh của các quốc gia dân tộc. Và khái niệm toàn cầu hoá hiện đại muốn bàn
ở đây là nói đến xu thế khách quan đang diễn ra trong thời đại hiện nay.
1.3 So sánh toàn cầu hóa với quốc tế hóa
Toàn cầu hóa là đỉnh cao của quá trình quốc tế hóa, trong đó quốc tế hóa là
việc lưu thông hóa quá trình tái sản xuất sức lao động bao gồm hàng hóa, vốn và
sức lao động. Cả toàn cầu hóa và quốc tế hóa đều nhằm góp phần tạo gia các mối
liên kết giữa các quốc gia.
Quốc tế hoá thì các quốc gia dân tộc vẫn phân biệt với nhau những địa điểm biệt
lập, giữa chúng vấn có những khoảng cách, và chúng vấn đóng vai trò là một tác
nhân chủ chốt trong nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá thì tạo ra các mối liên kết
rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian.
NHÓM 4
8
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
CHƯƠNG 2: XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
2.1 Các xu hướng toàn cầu hóa kinh tế
NHÓM 4
9
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, toàn cầu hoá nói chung bắt
nguồn từ những giao lưu văn hóa, buôn bán, di dân; từ sự mở rộng các tôn giáo ra
ngoài biên giới các quốc gia, và cho đến nay là sự phát triển của các công ty xuyên
quốc gia, các ngân hàng, các tổ chức quốc tế, sự trao đổi công nghệ, sự phát triển

gắn với hiện đại hoá… Về bản chất, toàn cầu hoá kinh tế là kết quả của sự quốc tế
hoá sản xuất cao độ và phân công quốc tế, nó xuất hiện và phát triển cùng với thị
trường thế giới.
Toàn cầu hóa trước hết được biểu hiện ở sự định hình nền kinh tế tri thức,
mà trọng tâm là bước ngoặt mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật đạt được đã làm giảm đáng kể chi phí vận
chuyển và liên lạc, qua đó đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Chi phí vận tải biển
ngày nay giảm 1/2 lần so với năm 1930, vận tải hàng không chỉ bằng 1/6. Giá một
chiếc máy tính vào năm 1990 chỉ bằng 1/125 so với năm 1960, mức giá đó còn
tiếp tục giảm tới 80% vào năm 1998. Những thành tựu khoa học công nghệ giúp
giảm chi phí đầu tư và thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hình thành
và phối hợp sản xuất toàn cầu. Ví dụ, một chiếc ô tô Lyman của Ford được thiết kế
tại Đức, hế thống số của nó được sản xuất tại Hàn Quốc, bộ phận bơm dầu được
chế tạo ở Mỹ và động cơ ở Úc. Chính sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo nên
sản phẩm mang tính toàn cầu đó. Thêm vào đó, sự phát triển của loại hình kinh tế
dựa trên mạng lưới này cũng đã hình thành nên những công ty mà đối với họ khó
khăn về khoảng cách và rào cản ranh giới quốc gia là không còn.
Sự phát triển của công nghệ làm cho nền kinh tế thế giới bắt đầu có sự dịch
chuyển cơ cấu, từ những ngành kinh tế như luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi
măng, đã bắt đầu xuất hiện các ngành kinh tế mới phát triển nhanh như điện tử –
bán dẫn, máy tính, viễn thông…, trong đó các dịch vụ liên quan đến thông tin
(ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm…) phát triển mạnh.
NHÓM 4
10
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi nhọn
kinh tế của các quốc gia. Trước hết, phải kể đến công nghệ thông tin. Công nghệ
thông tin bao gồm cả phần cứng, như chế tạo các mạch vi điện tử, máy vi tính,
mạng máy tính… và các phần mềm hệ thống, phần mềm ứng dụng. Ngoài ra, phải
kể đến các loại thiết bị viễn thông, điện tử y tế, điện tử quốc phòng… Có thể nói,

công nghệ thông tin là công nghệ cốt lõi tạo ra điều kiện kỹ thuật của toàn cầu hoá
nhờ hệ thống thông tin toàn cầu mà bao gồm cả hệ thống Internet. Thứ hai là công
nghệ sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một cách tối ưu đã
mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng năng suất lao động, giải đáp
những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây chưa từng biết đến. Thứ
ba là các công nghệ khác như công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới,
công nghệ hàng không vũ trụ… ra đời, mở ra những tiềm năng mới, triển vọng
mới. Thứ tư là tự động hoá trong sản xuất. Tự động hoá trong sản xuất giải phóng
con người khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm cho
xã hội.
Nếu những thành tựu khoa học kỹ thuật và sự phát triển không ngừng của
công nghệ thông tin được coi như là lực đẩy kỹ thuật trong quá trình toàn cầu hóa
thì những cải cách theo định hướng thị trường đang diễn ra ở nhiều nước trên thế
giới lại được coi như một lực đẩy cơ chế trong quá trình này. Trong khuôn khổ của
GATT và WTO, nhiều quốc gia đang dần cắt giảm thuế và các hàng rào phi thuế
quan, tiến hành mở cửa thị trường và tiếp nhận các luồng vốn đầu tư. Từ đó
khuyến khích sự gia tăng của đầu tư và thương mại. Bên cạnh đó, sự chuyển đổi
của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang kinh tế thị trường cũng
đã làm cho những nền kinh tế này nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Biểu hiện tiếp theo cần nhấn mạnh trong quá trình toàn cầu hóa là xu hướng
gia tăng nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế. Từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế đã tăng đáng kể
NHÓM 4
11
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
(Bảng 2.1). Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là mối quan hệ thương mại giữa các
nước trên thế giới ngày càng chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc tế hóa của
nền kinh tế thế giới tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Các nước có
thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của nước khác, từ
đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Sự phân công lao động

quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Xu hướng phân công lao động quốc tế ngày nay đã
chuyển dịch từ chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang, phân công
theo chi tiết sản phẩm, theo quy trình sản xuất. Thí dụ, một loại xe của hãng
Toyota sản xuất tại Mỹ có 25% linh kiện được sản xuất ở ngoài nước Mỹ. Một loại
xe ô tô của công ty Ford có 27% linh kiện do nước khác sản xuất. Việc sản xuất
máy bay của hãng Boing ở Mỹ có các chi tiết được chế tạo từ gần 100 quốc gia
khác nhau.
Bảng 2.1: Xu hướng dài hạn trong giá trị và khối lượng xuất khẩu hàng hóa của
thế giới thời kỳ 1950 – 2010
NHÓM 4
12
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Nguồn: UNCTAD
Toàn cầu hóa làm thương mại quốc tế gia tăng với tốc độ cao và tốc độ tăng
trưởng thương mại quốc tế này còn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới.
Nếu nửa đầu thế kỷ XX, tổng GDP của thế giới tăng 2,7 lần, thì đến nửa cuối thế
kỷ, tổng GDP thế giới đã tăng 5,2 lần. Đầu năm 1950, tỷ trọng thương mại trong
GDP toàn cầu là 7%, thì hiện nay đã tăng lên hơn 50%. Năm 2004, tổng giá trị
thương mại toàn cầu đạt hơn 22.267 tỉ USD, làm cho thương mại thực sự trở thành
động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế thế giới.
Biểu đồ sau đây cho thấy mức tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa thế giới
trong 10 năm sau khi WTO ra đời (Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hóa của thế giới thời kỳ 1995 –
2004
NHÓM 4
13
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Nguồn: Bộ Thương Mại
Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng
là là một biểu hiện đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế ngày nay. Nét đặc trưng này

được biết đến như là một quá trình toàn cầu hoá tài chính. Toàn cầu hóa trong lĩnh
vực tài chính được đẩy mạnh thông qua việc tự do hóa rộng rãi các giao dịch tài
chính quốc gia và phát triển các thị trường tài chính quốc tế, hướng tới một thị
trường tài chính mang tính toàn cầu. Tự do hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ
bản, như: nới lỏng kiểm soát tín dụng; tự do hóa lãi suất; tự do hóa tham gia hoạt
động ngân hàng và các dịch vụ tài chính trên toàn thế giới, không phân biệt biên
giới; tự do hóa việc di chuyển của các luồng vốn quốc tế. Toàn cầu hóa tài chính
được biểu hiện ở hiện tượng các dòng vốn di chuyển trên thế giới đã liên tục gia
tăng. Từ năm 1970, dòng vốn đầu tư quốc tế bắt đầu tăng nhanh bao gồm cả dòng
vốn FDI (Biểu 2.3). Năm 1980, tổng khối lượng giao dich cổ phiếu và trái phiếu ra
khỏi biên giới của các nước phát triển chỉ chiếm chưa đến 10% tổng GDP . Nhưng
sau đó, con số này đã vượt mức 100% vào năm 1995. Sự di chuyển thông qua thị
trường vốn cũng đã tăng từ mức 794 tỷ USD năm 1991 lên đến 4.324 tỷ USD năm
2000 (tăng 21,3%/năm) và tài trợ phát triển chính thức giảm từ 60,9 tỷ USD xuống
NHÓM 4
14
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
còn 38,6 tỷ USD. Giá trị trung bình của các giao dich ngoại hối hàng ngày cũng đã
tăng từ 200 tỷ USD vào giữa thập niên 80 lên tới 1200 tỷ USD vào năm 2000,
chiếm 85% dự trữ ngoái hối của các nước trên thế giới và gấp 70 lần so với giá trị
xuất khẩu mỗi ngày của hàng hóa và dich vụ. Có thể nói, tài chính quốc tế là công
cụ cần thiết cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế do đó toàn cầu hoá
ngày nay chịu sự dẫn dắt của toàn cầu hoá tài chính. Toàn cầu hóa lĩnh vực tài
chính đang dần trở thành xu hướng phát triển nhanh nhất và có ảnh hưởng nhất
của quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Sự gia tăng dòng chảy đầu tư đã làm cho nền
kinh tế thế giới gắn kết chặt chẽ với nhau hơn thông qua sự liên kết chức năng sản
xuất, và khiến cho biên giới kinh tế quốc gia ngày càng mờ nhạt. Kết quả là, quá
trình này dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tùy thuộc, tác
động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ.
Bảng 2.3: Dòng vốn FDI trên thế giới thời kỳ 1970-2010

NHÓM 4
15
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Nguồn : UNCTAD
Một nguyên nhân trực tiếp và đồng thời cũng là biểu hiện của xu thế toàn
cầu hóa là sự phát triển mạnh mẽ của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia
(TNCs) - nhân vật trung tâm quyết định dòng chảy vốn đầu tư và chuyển tài tri
thức khoa học công nghệ để hình thành nền kinh tế tri thức nêu trên. Theo thống
kê của Liên hợp quốc, nếu vào cuối những năm 60 có khoảng 7000 Công ty xuyên
quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20.000 và trong những thập niên 90 đã
có 53.000 công ty hoạt động xuyên quốc gia với 450.000 cơ sở sản xuất và chiếm
gần 2/3 tổng khối lượng buôn bán trên toàn thế giới, kiểm soát 2/3 thương mại thế
giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ trên thế giới. Tính đến năm 2004, toàn thế giới có khoảng
63.000 công ty xuyên quốc gia với trên 800.000 chi nhánh. Các công ty xuyên
NHÓM 4
16
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
quốc gia hiện chi phối hơn 80% giá trị thương mại quốc tế, chiếm hơn 90% tổng
giá trị vốn đầu tư và thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới.
Với sức mạnh ngày càng lớn, các công ty xuyên quốc gia ngày càng mở
rộng ảnh hưởng, duy trì và nâng cao quyền lực kiểm soát trong các lĩnh vực quan
trọng như tài chính, công nghệ, dịch vụ và lao động. Với một mạng lưới rộng
khắp, rải rác khắp các quốc gia trên địa cầu, hoạt động của các TNCs thực sự tác
động đến nền kinh tế toàn cầu và kéo theo các nền kinh tế quốc gia vào vòng chu
chuyển của mạng lưới công ty. Các công ty xuyên quốc gia không những có ưu
thế phân phối tài nguyên trong phạm vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công
lao động quốc tế đi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn cầu hoá sản xuất
và lao động quốc tế để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Như vậy,
sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu đã

tạo mạng lưới liên kết kinh tế quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau gia tăng.
Bên cạnh đó, một trong những xu hướng mới của toàn cầu hóa kinh tế hiện
nay là việc các công ty xuyên quốc gia đã tăng cường hoạt động mua lại và sáp
nhập (M & A), hình thành các công ty quốc tế khổng lồ, nhất là các công ty khoa
học kỹ thuật, công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và
ngoài nước cũng như gia tăng sự ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động
quốc tế. Làn sóng sát nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỷ
XX. Ví dụ, năm 1998, Exon đã sáp nhập Mobile trị giá 86 tỷ USD; Travelers
Group sáp nhập Citi Corp trị giá 73,6 tỷ USD.
Quá trình toàn cầu hoá làm nổi lên xu hướng liên kết kinh tế, xu hướng này
dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế - thương mại - tài chính toàn cầu và khu vực.
Quá trình liên kết kinh tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên kết tam
giác, tứ giác phát triển đến liên kết khu vực như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu
NHÓM 4
17
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh các nước Đông Nam Á
(ASEAN)…Nếu năm 1956 đánh dấu sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là
Cộng đồng kinh tế Châu Âu , thì trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên kết
kinh tế khu vực đã trở thành làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên toàn thế
giới có khoảng 24 tổ chức liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn với những mức
độ quan hệ khác nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng đến mức hầu như không có
quốc gia nào không là thành viên của một liên kết kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia
đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau. Bên cạnh các
tổ chức liên kết kinh tế khu vực, còn có các tổ chức liên kết liên khu vực như Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á–Âu
(ASEM)…các tổ chức liên kết kinh tế toàn cầu như Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB). Tùy theo mục tiêu
chức năng của mình, các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt

động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lý các hoạt động này:
- Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đây là tổ chức có vai trò hàng đầu
trong thúc đẩu sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế.Ngày
1/1/1995 WTO ra đời thay cho GATT. WTO hoạt động với tính chất một
diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa phương, tìm kiếm các giải
pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám sát các chính sách thương mại
quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới hoạch định
chính sách kinh tế toàn cầu. Với chức năng như trên thực tế trong thời gian
tồn tại của mình WTO đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩu tự do hoá thương
mại toàn cầu.
- Các tổ chức tài chính - tiền tệ lớn như WB, IMF… cũng đóng vai trò lớn
trong thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá.tham gia vào điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia
NHÓM 4
18
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
thành viên và thực hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế – xã
hội.
- Liên Hiệp Quốc: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ
đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế
mà lớn nhất là Liên hợp quốc. Liên hợp quốc cùng với các cơ quan chức
năng của nó như Chương trình phát triển liên hiệp Quốc (UNDP), Hội nghị
Liên Hiệp Quốc về hợp tác và phát triển (UNCTAD)… lại tác động trở lại
đến tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu, nhưng không chỉ ở
lĩnh vực kinh tế mà còn lan tỏa sang các lĩnh vực đời sống xã hội khác.
- Cùng với các tổ chức có tính toàn cầu như trên, các tổ chức khu vực như
EU, ASEAN,v.v… cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy xu hướng khu
vực hoá, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vai trò và tác động
của các tổ chức này rất khác nhau do trình độ phát triển của các nước thành
viên, do mức độ gắn kết và mục tiêu hoạt động .v.v…

Tóm lại, các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là động
lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.Thiếu vắng các tổ chức trên, quá trình toàn
cầu hóa sẽ diễn ra chậm chạp. Có thể nói, thông qua các tổ chức kinh tế, thương
mại, tài chính quốc tế này, quy mô lưu thông vốn quốc tế gia tăng ngày càng mạnh
mẽ; tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các
lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng phát triển.
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay cho thấy một xu hướng nổi cộm đó là nền
kinh tế toàn cầu chủ yếu là nền kinh tế do chủ nghĩa tư bản chi phối, bao gồm ba
trung tâm kinh tế lớn trên thế giới (Mỹ, EU, Nhật Bản) và các công ty xuyên quốc
gia. Một là, đứng về mặt gia tăng các luồng giao lưu quốc tế về thương mại, đầu
tư, vốn, công nghệ, dịch vụ, nhân công, v.v thì các trung tâm tư bản lớn như Bắc
NHÓM 4
19
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn đóng vai trò chủ chốt. Năm 1996, tổng khối lượng xuất
khẩu của các nước phát triển đạt 4,057 tỷ USD, chiếm 81.7% tổng giá trị thương
mại quốc tế. Năm 1995, đầu tư ra nước ngoài của 10 nước phát triển nhất bao gồm
G7, Thụy Sỹ, Thụy Điển và Hà Lan chiếm 85.1% tổng giá trị đầu tư FDI của toàn
thế giới. Thứ hai, xét về vai trò vượt trội của các quốc gia này trong việc hình
thành và phát triển các thị trường trên phạm vi khu vực và toàn cầu đã phản ánh
một thực tế rằng, họ chính là những người quyết định các quy tắc trong trao đổi
kinh tế quốc tế. Kinh tế quốc tế và các tổ chức tài chính quốc tế được đặt dưới sự
kiểm soát của Mỹ, Nhật và các nước phương tây khác. Họ đang tận dụng những
ưu thế này để thúc đẩy và chi phối sự phát triển của toàn cầu hóa. Đồng thời họ
cũng là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ toàn cầu hóa kinh tế.
Từ những biểu hiện và xu hướng trên đây, có thể thấy, về bản chất toàn cầu
hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên
giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong
sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất.
2.2 Hệ quả tích cực của Toàn cầu hóa kinh tế

Thứ nhất, mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế thể hiện ở chỗ:
- thông qua tự do hoá thương mại sẽ làm giảm hoặc huỷ bỏ các hàng rào
ngăn cách, làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ rộng hơn,
do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động
quốc tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước
được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn.
- Làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế
- Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, những thành tựu của khoa học kỹ thuật,
kinh nghiệm tổ chức, quản lý, kinh doanh,
NHÓM 4
20
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Thứ hai, toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hàng hoá,
dịch vụ, buộc các nền kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp, mở
rộng nền kinh tế thị trường, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả
kinh doanh.
Thứ ba, toàn cầu hóa kinh tế tạo ra một môi trường thuận lợi trong việc
nắm bắt thông tin, tri thức mới, giao lưu văn hoá thế giới, trên cơ sở đó các quốc
gia buộc phải cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, chuẩn hoá nền tài chính quốc
gia nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ tư, toàn cầu hóa kinh tế làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự
phát triển, tính xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế toàn cầu hoá
phát triển ở mức ngày càng cao hơn.
2.3 Hệ quả tiêu cực của Toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu – nghèo trong từng nước và
giữa các nước Tất cả những thành tựu của toàn cầu hoá kinh tế đang làm nới rộng
ra khoảng cách về mức sống và trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ
giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, làm trầm trọng thêm sự bất
công trong xã hội. Tính đến Năm 2009, thế giới có khoảng 1,7 tỷ người sống trong
nghèo đói cùng cực. Chênh lệch giữa thu nhập của những người nghèo nhất và

giàu nhất trên thế giới trong năm 1960 là 30 lần, đến năm 1990 lên tới 60 lần và
năm 1997 là 74 lần. Các nước phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm tới 86%
GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 vốn đầu tư nước ngoài; trong khi đó,
các nước nghèo nhất với 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP thế giới.

Toàn cầu hóa kinh tế có thể mang đến những tác động xấu tới nền kinh tế
các quốc gia, kể cả quốc gia giàu lẫn nghèo. Bởi vì, nó đưa đến tình trạng cạnh
tranh gay gắt, nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn
NHÓM 4
21
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
đề về lao động, xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ thất
nghiệp lại càng gia tăng ở một số quốc gia.
Các nước đang phát triển hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày
càng khốc liệt và không bình đẳng trong các quan hệ kinh tế - thương mại. Tham
gia tự do hóa thương mại buộc tất cả các nước phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, tuy
nhiên nền kinh tế của các nước đang phát triển còn đang ở một trình độ thấp kém
thì chính sự tự do cạnh tranh này đặt họ trước những thách thức vô cùng to lớn.
Toàn cầu hóa kinh tế mở ra cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, song
chính điều đó lại bao hàm khả năng phụ thuộc rất lớn vào bên ngoài của các quốc
gia. Sự lệ thuộc này dồn các nước vào tình thế phải đối mặt với nhiều rủi ro do
biến động thị trường, giá cả, thậm chí cả các sự cố về xung đột chính trị, sắc tộc ở
một nơi nào đó trên thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế có thể đưa lại những hậu quả xấu về môi trường sống
và xã hội, đó là sự xâm nhập công nghệ lạc hậu, nạn ô nhiễm môi trường, các tệ
nạn xã hội, sự bất bình đẳng trong xã hội gia tăng.
CHƯƠNG 3: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA
NHÓM 4

22
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
3.1 Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Năm 2011 và những tháng đầu 2012 đã phản ánh rõ những thách thức mà
các nền kinh tế thế giới, cụ thể là Việt Nam đang phải đối mặt như: ảnh hưởng tiêu
cực từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đang tiếp tục leo thang, sự mất ổn định
về địa chính trị khiến giá dầu mỏ leo thang, kéo theo lạm phát tăng gây ảnh hưởng
tới tốc độ tăng trưởng, các chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt quá mức đẩy một số
quốc gia rơi vào tình trạng giảm phát hoặc các hoạt động kinh tế suy yếu trong
một thời gian dài; thất nghiệp tiếp tục tăng cao ở các nền kinh tế đang phát triển
tạo sức ép lên ổn định kinh tế xã hội; mặt trái của sự tăng trưởng nhanh ở các nước
phát triển châu Á làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo…Xét trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu gặp nhiều bất ổn như thế, tôi xin trình bày một số nét nổi bật của
nền kinh tế Việt Nam:
Những thành tựu
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP)
năm 2011 ước tính tăng 5,89% so với năm 2010 và tăng đều trong cả ba khu vực,
trong đó, quý I tăng 5,57%; quý II tăng 5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng
6,10%. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn mức tăng
6,78% của năm 2010, nhưng trong điều kiện tình hình sản xuất rất khó khăn và cả
nước tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thì mức tăng
trưởng trên là khá cao và hợp lý. Trong 5,89% tăng chung của nền kinh tế, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,53%, đóng góp 2,32 điểm phần trăm và khu
vực dịch vụ tăng 6,99%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy gặp nhiều khó khăn do tác động
của biến đổi khí hậu, dịch bệnh và giá cả đầu vào tăng cao, nhưng giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2011 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 5,2%
NHÓM 4
23

XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
so với năm 2010, bao gồm: Nông nghiệp tăng 4,8%; lâm nghiệp tăng 5,7%; thuỷ
sản tăng 6,1%.
Về trồng trọt, sản lượng lúa cả năm 2011 ước tính đạt 42,3 triệu tấn, tăng
2,3 triệu tấn so với năm 2010, là mức tăng lớn nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
Nếu tính thêm 4,6 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2011
ước tính đạt gần 47 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm 2010.
Cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả tiếp tục phát triển. Sản lượng chè
năm 2011 ước tính tăng 6,5% so với năm 2010; cà phê tăng 5%; cao su tăng 8%;
hồ tiêu tăng 3,8%; dừa tăng 2,3%; nhãn tăng 7,4%; vải, chôm chôm tăng 33,4%
Sản xuất lâm nghiệp cũng có bước phát triển khá. Diện tích rừng trồng được chăm
sóc năm 2011 đạt 547 nghìn ha, tăng 3,7% so với năm 2010.
Thuỷ sản tiếp tục có bước tăng trưởng khá, sản lượng nhiều loại thuỷ hải
sản tăng cao. Sản lượng thuỷ sản năm 2011 ước tính đạt 5432,9 nghìn tấn, tăng
5,6% so với năm 2010, trong đó ,sản lượng cá đạt 4050,5 nghìn tấn, tăng 5,6%;
tôm đạt 632,9 nghìn tấn, tăng 6,8%. Đặc biệt, sản lượng cá ngừ đại dương năm
nay tăng cao, đạt 10,5 nghìn tấn, tăng 12,5% so với năm 2010.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục có bước phát triển ấn tượng. Chỉ số sản xuất
công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Một số ngành công nghiệp chủ
yếu có chỉ số sản xuất năm 2011 tăng cao so với năm 2010 là: Sản xuất đồ gốm,
sứ không chịu lửa (trừ gốm sứ dùng trong xây dựng) tăng 139,3%; sản xuất đường
tăng 33,7%; đóng và sửa chữa tàu tăng 28,4%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 19,6%.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 11 tháng năm 2011 tăng 15%
so với cùng kỳ năm trước
Nhờ tăng trưởng kinh tế có mức tăng trưởng khá, nền kinh tế vĩ mô dần
được ổn định, lạm phát dần được kiềm chế.
NHÓM 4
24
XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Về xây dựng, đầu tư phát triển, giá trị sản xuất xây dựng năm 2011, theo

giá thực tế cả nước, ước tính đạt 676,4 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà
nước đạt 119,6 nghìn tỷ đồng; khu vực ngoài Nhà nước đạt 529,4 nghìn tỷ đồng;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 27,4 nghìn tỷ đồng. Vốn đầu tư toàn xã hội
thực hiện năm 2011 theo giá thực tế ước tính đạt 877,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7%
so với năm 2010 và bằng 34,6% GDP. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực
hiện năm 2011 ước tính đạt 178 nghìn tỷ đồng, bằng 101,8% kế hoạch năm và
tăng 6,7% so với năm 2010, trong đó, vốn Trung ương quản lý đạt 42 nghìn tỷ
đồng, bằng 100,4% kế hoạch năm và tăng 7,1%; vốn địa phương quản lý đạt 136
nghìn tỷ đồng, bằng 102,3% kế hoạch năm và tăng 6,5%.
Về tài chính, tiền tệ, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2011 ước tính đạt
674,5 nghìn tỷ đồng, bằng 113,4% dự toán năm và tăng 20,6% so với năm 2010
(vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 11 của Chính phủ là tăng 7-8%). Tổng
chi ngân sách nhà nước năm 2011 ước tính 796 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách
nhà nước bằng 4,9% GDP (thấp hơn kế hoạch đề ra, là 5,3%). Tổng phương tiện
thanh toán năm 2011 ước tính tăng 10% so với tháng 12/2010 (kế hoạch là 15-
16%); tổng dư nợ tín dụng tăng 12% (kế hoạch là dưới 20%).
Về xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm
2011 ước tính đạt 96,3 tỷ USD, tăng 33,3% so với năm 2010. Trong năm 2011, có
14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu năm 2011 đạt 105,8 tỷ USD, tăng 24,7% so với năm trước.
Nhìn chung, tốc độ tăng cao của kim ngạch hàng hóa xuất, nhập khẩu năm
nay có phần đóng góp khá lớn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng
xuất khẩu là 39,3% và mức tăng nhập khẩu là 29,2%. Kim ngạch xuất khẩu của
khu vực này (kể cả dầu thô) chiếm 56,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim
ngạch nhập khẩu chiếm 45,2% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
NHÓM 4
25

×