Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Hệ thống phân tích các văn bản lớp 9 (cả năm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.06 KB, 31 trang )

VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
I. Hoàng Lê nhất thống chí
- Nội dung và ý nghĩa lời phủ dụ
• Nội dung:
- Khẳng định chủ quyền của dân tộc ta: “trong khoảng vũ trụ chia nhau mà cai trị.”
- Lên án hành động xâm lăng phi nghĩa và nêu bật dã tâm xâm lược của giặc: “Người phương Bắc ai
cũng muốn đuổi chúng đi.”
- Nhắc lại truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta: “Đời Hán có Trưng nữ vương,
… đuổi chúng về phương Bắc”.
- Lời kêu gọi quân lính đồng tâm hiệp lực đánh đuổi kẻ thù: “Nay người Thanh … để lập nên công
lớn”.
- Ra kỉ luât nghiêm minh với những kẻ ăn ở hai lòng.
• Ý nghĩa:
- Khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm.
- Ra kỉ luật nghiêm minh đối với những kẻ ăn ở hai lòng.
• Sức thuyết phục của lời phủ dụ:
- Xuất phát từ tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của người đứng đầu.
- Lời lẽ ngắn gọn, ý tứ sâu xa.
- Nó là quân lệnh nghiêm khắc.
- Hình tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ:
• Con người luôn hành động mạnh mẽ và quyết đoán:
- Là người hành động xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích, rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm
đến tận Thăng Long, ông không hề nao núng, thân chinh cầm quân đi ngay.
- Trong hơn một tháng, ông đã làm được nhiều việc lớn: lên ngôi hoàng đế, đốc thúc đại quân ra Bắc,
duyệt binh ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, lên kế hoạch hành quân và đánh giặc.
• Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa địch và ta.
(Thể hiện qua lời phủ dụ).
- Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán bề tôi: thể hiện qua cách xử trí với các tướng. Ông rất hiểu
sở trường, sở đoản của các tướng sỹ, khen chê đều đúng ngưới đúng việc.
• Ý chí quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng:


- Quang Trung luôn tin ở mình, tin vào chính nghĩa của dân tộc, tin vào chiến thắng. Mới khởi binh
đánh giặc mà ông đã hẹn mồng 7 tháng giêng sẽ ăn Tết ở Thăng Long.
• Bậc kì tài về quân sự;
- Tài dụng binh như thần, thân chinh cầm quân ra trận, tổ chức cuộc hành quân thần tốc: Ngày 25
tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân, một tuần sau đã đến Tam Điệp, đêm 30 tháng Chạp lập tức lên
đường tiến ra Thăng Long. Hành quân xa và gấp gáp nhưng quân đội lúc nào cũng chỉnh tề, đánh
đâu thắng đó.
• Hình ảnh lẫm liệt trên chiến trận:
- Ông là tổng chỉ huy, vạch ra đường lối, tự mình thống lĩnh một đạo quân tiên phong, cưỡi voi đốc
thúc xông ra chiến trận.
- Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy các trận đánh dũng mãnh, tài ba, là người tổ chức
và là linh hồn của chiến công vĩ đại.
II. Chị em Thúy Kiều
• Thúy Vân
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Ngay ở câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã giới thiệu khái quát về vẻ đẹp của Thúy Vân: “Vân xem
trang trọng khác vời”, hai chữ trang trọng gợi ấn tượng về phong thái cao sang quý phái khác vời
của nàng.
- Những câu thơ tiếp theo lần lượt miêu tả từng nét đẹp cụ thể. Trong thiên nhiên có bao nhiêu cái
đẹp, Nguyễn Du chọn cái thật đẹp, thật cao sang để so sánh với vẻ đẹp của Thúy Vân như trăng,
hoa, ngọc, mây, tuyết. Sắc đẹp của nàng được sánh với những nét đẹp kiều diễm, sáng trong với
những báu vật tinh khôi của đất trời.
- Từ những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ với phép ẩn dụ, nhân hóa, với những định ngữ, bổ
ngữ, vẻ đẹp của Thúy Vân được cụ thể đến từng chi tiết; người đọc có thể hình dung ra một Thúy
Vân có khuôn mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng rằm, dáng mày cong, duyên dáng lại hài hòa
với khuôn mặt trơn trịa, phúc hậu. Miệng cười tươi thắm như hoa đang hé nở, giọng nói trong như

tiếng ngọc rơi, mái tóc óng ả, mềm mại hơn mây trời, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Tất cả đều
toát lên vẻ đẹp đoan trang, quý phái.
- Thúy Vân đẹp hơn những vẻ đẹp mĩ lệ trong thiên nhiên, vẻ đẹp mây thua tuyết nhường; hai chữ
“thua, nhường” gợi sự hài hòa với xung quanh; một vẻ đẹp hài hòa trong khuôn khổ của tạo hóa
như ngầm thông báo về một tính cách hiền dịu, một số phận bình yên, êm đềm.
- Có thể nói qua bức chân dung Thúy Vân, Nguyễn Du không chỉ gợi tả được vẻ đẹp của nàng mà còn
gửi tới thông điệp về và cuộc đời nàng. Chính bởi vậy mà chân dung Thúy Vân chính là chân dung
mang tính cách số phận.
• Thúy Kiều
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn:
- Hai câu thơ đầu đã gợi tả vẻ đẹp khái quát của Thúy Kiều bằng biện pháp đòn bẩy qua các phụ từ:
càng, so, hơn. Nguyễn Du muốn nhấn mạnh vẻ đẹp của Thúy Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó là vẻ đẹp
của nhan sắc đằm thắm mặn mà của tài năng sắc sảo, thông tuệ. Nếu vẻ đẹp của Thúy Vân chỉ
được gợi tả ở một phương diện là nhan sắc thì với 12 câu thơ, Nguyễn Du đã cho người đọc cảm
nhận được vẻ đẹp của Thúy Kiều ở cả ba phương diện: nhan sắc tuyệt đỉnh, tài năng vượt trội và
tâm hồn đa sầu đa cảm.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
- Gợi tả nhan sắc của Thúy Kiều, Nguyễn Du không miêu tả cụ thể, chi tiết như Thúy Vân mà chỉ tập
chung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt, đó là thủ pháp điểm nhãn (vẽ hồn cho nhân vật) bởi đôi mắt là
cửa sổ của tâm hồn. Là nơi tập trung nhất vẻ đẹp tinh anh, trí tuệ tâm hồn. Đó là một đôi mắt biết
nói, có sức rung cảm lòng người. Hình ảnh ẩn dụ gợi vẻ đẹp sống động của đôi mắt trong sáng, long
lanh như làn nước mùa thu và thanh tú như dáng núi mùa xuân.
- Hình ảnh nhân hóa: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” gợi tả vẻ đẹp hoàn mĩ của Kiều,vẻ
đẹp của sự quyến rũ, vẻ đẹp ấy làm mờ nhạt nét thắm tươi của hoa lá, làm dáng liễu vốn mềm mại
trở nên thô cứng, vẻ đẹp ấy đã vượt khỏi khuôn khổ của tạo hóa, khiến thiên nhiên sinh lòng ghen
ghét, đố kị. Câu thơ không chỉ gợi tả vẻ đẹp tuyệt trần của nhan sắc mà còn như ngầm dự báo về
tương lai của Kiều.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

- Tác giả đã khéo léo sử dụng thành ngữ: “Nghiêng nước nghiêng thành” để nhấn mạnh, cực tả vẻ
đẹp của Kiều. Đó là nhan sắc khiến người ta đắm say, mê muội.
- Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa, dùng điển tích điển cố, Nguyễn Du đã thành
công trong nghệ thuật miêu tả nhân vật. Cùng với đó, người đọc còn cảm nhận được tấm lòng nhân
đạo của Nguyễn Du khi dự cảm về số phận nhân vật.
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
- Vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của Kiều. Tả Thúy
Vân chỉ tả nhan sắc, còn tả Thúy Kiều, tác giả tả sắc một phần thì dành hai phần để tả tài Kiều rất
mực thông minh và đa tài: “Thông minh vốn sẵn tính trời”.
2
Nguyễn Hải Đăng – 9D
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
- Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội tụ đủ: cầm, kì, thi, họa
“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”.
- Tác giả đặc tả tài đàn – là sở trường là năng khiếu, nghề riêng của nàng “Cung thương làu bậc ngũ
âm, nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung đàn
Bạc Mệnh của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc Mệnh lại càng não nhân.
- Tả tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều.
- Chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp khiến cho tạo hóa phải ghen
ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm lại “bậc” đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu
đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ, bởi “Chữ tài
chữ mênh khéo là ghét nhau”; “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Cuộc đời Kiều là một
hồng nhan bạc mệnh.
- Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả Thúy Kiều: Tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để
làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: chỉ dành

4 câu thơ để tả Vân, trong đó dành tới 12 câu thơ để tả Kiều; Vân chỉ tả nhan sắc còn Kiều thì cả
nhan sắc, tài năng và tâm hồn đều được đặc tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.
III. Cảnh ngày xuân
• Đoạn 1:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
- Hai câu thơ đầu vừa nói được không gian vừa gợi được thời gian giữa bầu trời bao la, mênh mông
là những cánh chim én bay liệng như đưa thoi. Hai chữ “đưa thoi” thật gợi hình, gợi tả. Cánh én
như con thoi vút qua vút lại vừa miêu tả vẻ rộn ràng của trời xuân, vừa ngụ ý thời gian đang trôi
nhanh. Ý thơ này, Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo câu tục ngữ của nhân dân ta “Thời gian thấm
thoắt thoi đưa”.
- Ngày xuân thấm thoắt qua mau, tiết trời đã sang tháng ba, tháng cuối của mùa xuân. Hai chữ
“thiều quang” vừa gợi sắc hồng của nắng xuân, vừa gợi sự ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao
la của trời xuân. Cách tính thời gian và miêu tả của mùa xuân thật thi vị.
- Dường như trong hai câu thơ còn ẩn chứa tâm trạng nuối tiếc cảnh xuân tươi đẹp sắp trôi qua.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
- Với bút pháp chấm phá cổ điển, Nguyễn Du chỉ chọn lọc hai hình ảnh tiêu biểu: cỏ xanh non và hoa
lê trắng để phác họa cái hồn của thiên nhiên mùa xuân.
- Thảm cỏ xanh là gam màu nền cho bức tranh xuân, sắc cỏ non xanh mơn mởn ấy trải rộng tít tắp
tận chân trời. Bức tranh mùa xuân của Nguyễn Du mang vẻ đẹp khoáng đạt, đầy sức sống. Thứ sức
sống từ lòng đất trào dâng tràn trề trên từng ngọn cỏ và trải ra bất tận. Trên nền cỏ xanh non ấy
điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng – cái sắc trắng chưa từng xuất hiện trong thơ cổ Trung Hoa.
Nó nổi bật trên nền xanh tạo nên vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, trong sáng đến lạ lùng, tuy chỉ là vài
chấm trắng nhỏ trong bức tranh xuân nhưng sắc trắng nhỏ bé ấy không bị khuất lấp trong sắc cỏ
ngụt ngàn mà lại trở thành điểm nhấn tỏa sáng và nổi bật toàn cảnh.
- Bức tranh mùa xuân còn mang vẻ đẹp lung linh, sống động, lạ lùng bởi cách dùng từ tinh tế của tác
giả. Ông viết trắng điểm chứ không phải điểm trắng. Cách đảo từ này khiến cho câu thơ 8 tiếng vốn
mang nhịp chẵn đều nhưng đã đột ngột chuyển sang nhịp lẻ khiến câu thơ bỗng xôn xao, khác lạ.
Cảnh từ thể tĩnh chuyển sang thể động.

3
Nguyễn Hải Đăng – 9D
• Chỉ với 4 câu thơ lục bát, bằng nghệ thuật tả cảnh giàu chất tạo hình, Nguyễn Du đã mở ra một
không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình. Người đọc dường như còn cảm nhận được
tâm hồn con người vui tươi, phấn chấn qua cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo, thiết tha với vẻ đẹp của
thiên nhiên.
• Đoạn giữa:
- Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy,
nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những
người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của
Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
- Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa
sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách
du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn
làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội
dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
- Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình
ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
- Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ
ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân,
nô nức, sắm sửa, dập dìu, đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm
trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả
không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn
người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi

xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được
những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhất là những nam
thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày
hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét
sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài
tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và
tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập
dìu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước
cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hôi tưng
bừng, sang trọng và phong lưu.
- Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã
làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt
Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của
tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống
tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
- Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một
niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: Có thể hôm nay, sau hơn hai
trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy
bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực
sự xúc động.
4
Nguyễn Hải Đăng – 9D
• Đoạn cuối:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần theo phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
• Ý chủ đề: Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về trong tâm trạng lặng buồn, nuối tiếc, bâng khuâng.
• Các ý cần triển khai:
- Cảnh vật và thời gian được khắc họa bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Cảnh vẫn mang cái nét thanh tao, êm dịu, trong trẻo của mùa xuân. Ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ,
dịp cầu nhỏ bắc ngang, mọi cử động đều rất nhẹ nhàng: mặt trời tà tà gác núi, bước chân người
thơ thẩn, dòng nước nao nao uốn quanh, tất cả gợi một bức tranh xuân cuối ngày đẹp đẽ, êm đềm.
- Cảnh có sự thay đổi về không gian, thời gian. Không còn không khí đông vui, náo nhiệt của lễ hội.
Tất cả đang nhạt dần, lặng dần, nhịp thơ như chậm rãi và nhịp sống như ngừng trôi.
- Cảnh được cảm nhận trong tâm trạng:
+ Những từ láy: tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ miêu tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm
trạng con người. Đặc biêt hai chữ “nao nao” vốn chỉ tâm trạng bồn chồn, xao xuyến. Hai chữ “thơ
thẩn” có sức gợi rất lớn. Chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. Dan tay – nắm tay
nhau tưởng vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không thể nói hết. Cảm giác bâng khuâng xao xuyến
ấy có thật của một tâm lí phải chia tay cuộc vui khi đã tàn nhưng nó còn như còn dự cảm về một điều
gì đó không hay sắp xuất hiện bởi ngay sau lúc này, Kiều đã gặp nấm mồ của Đạm Tiên.
IV. Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Sáu câu thơ đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
- Đoạn thơ hay bởi nhà thơ đã sử dụng bút pháp cổ điển tả cảnh gắn với tả tình. Tình và cảnh tương
hợp.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng.
• Câu chủ đề: Sáu câu thơ trên trích từ văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trích “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du đã gợi tả hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
• Các ý cần có:
- Hai từ “khóa xuân” cho thấy lầu Ngưng Bích là nơi khóa kín tuổi xuân, giam lỏng cuộc đời Kiều.

- Ngồi trên lầu cao, nhìn ra xa, Kiều thấy vẻ non xa và tấm trăng gần như ở cùng một vòm trời, cảnh
đẹp nhưng thật buồn vì ở nơi ấy nàng trơ trọi giữa không gian hoang vắng.
- Cũng từ lầu cao ấy, Kiều nhìn ra xa bốn bề bát ngát chỉ thấy những cồn cát, những rặng đường xa
dưới bụi hồng. Phép đối cồn nọ, dặm kia mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm thân phận
cô đơn của Kiều khi bị giam lỏng ở nơi lầu cao trơ trọi.
- Cụm từ “mây sớm, đèn khuya” gợi sự tuần hoàn đơn điệu, ngày lại qua ngày, Kiều chỉ biết làm bạn
với áng mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya. Đối diện với mây và đèn, Kiều thấy “bẽ bàng” trước
thân phận mình, tủi thẹn cho số phận mình. Cảnh ấy, tình ấy khiến tấm lòng Kiều tan nát, đớn đau.
 Kiều bị rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đối.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ bơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
5
Nguyễn Hải Đăng – 9D
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vùa người ôm.
• Ý chủ đề: nỗi nhớ người thân của Kiều.
• Các ý cần có:
- Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, có lẽ, Kiều là người đáng thương nhất nhưng Kiều đã quên đi
cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về người yêu, nghĩ về cha mẹ. Trước hết, nàng đau đớn khi nghĩ đến
chàng Kim, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí đồng thời thể hiện sự tinh tế của ngòi
bút Nguyễn Du khi khắc hoa nội tâm nhân vật.
- Nhớ Kim Trọng là nhớ đến tình yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người …
đồng”. Vừa mới hôm nào nàng và chàng cùng uống chén rượu thề nguyện son sắt, hẹn ước trăm
năm dưới vầng trăng vằng vặc mà nay mỗi người một ngả, mối duyên tình đẹp ấy vừa mới chớm
nở đã bị cắt lìa đột ngột.
- Nàng đau đớn xót xa khi hình dung ra cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ

tin mà uổng công vô ích. Lời thơ như như có nhịp thổn thức của một trái tim yêu thương. Kiều lo
cho chàng Kim mà quên đi cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi.
- Câu thơ “Tấm son … cho phai”, hình ảnh ản dụ tấm son có thể hiểu là tấm lòng son sắt, thủy chung,
nhớ thương Kim Trọng không bao giờ phai nhạt, nguôi quên; cũng có thể hiểu ấm lòng son ấy là
tấm lòng trong trắng của Kiều đã bị vùi dập, hoen ố, biết bao giờ mới gột rửa được.
 Đối với Kim Trọng, Kiều luôn là người tình thủy chung, luôn thiết tha day dứt với tình yêu đôi lứa.
- Nghĩ tới song thân, nàng thương và xót. Nàng thương cha mẹ và hình dung mỗi sáng, mỗi chiều
đều tựa cửa trông ngóng tin con và trông mong sự giúp đỡ. Nàng xót xa khi cha mẹ già yếu mà
không được tự tay chăm sóc và hiện giờ ai là người chăm lo.
- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cũng như điển cố Sân Lai gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương
và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ.
- Cuối cùng, nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm và cha mẹ ngày
càng đau yếu. Cụm từ “Cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách, vừa gợi sự tàn phá
của thiên nhiên với cảnh vật, với con người. Lần nào nhớ về cha mẹ Kiều luôn đau đáu rằng mình
bất hiếu vì không thể chăm sóc mẹ cha.
 Tấm lòng hiếu thảo của Kiều thật đáng trân trọng biết bao.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
• Ý chủ đề: tâm trạng buồn lo, sợ hãi của Kiều trước khung cảnh thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích.
• Các ý cần có:
- Tác giả đã thành công với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh thiên nhiên là một ẩn dụ về một
tâm trạng con người.
- Trước là không gian mênh mông nơi cửa bể chiều hôm. Chiều hôm là khoảng thời gian gợi buồn.
Đó là lúc gia đình sum họp nhưng Kiều lại đang bơ vơ, đơn độc giữa bầy lũ buôn thịt bán người.

Ánh mắt của Kiều đã hướng tới cánh buồm xa xa, thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm. Hình ảnh
cánh buồm khơi gợi nỗi cô đơn, gợi nỗi nhớ quê hương, gia đình, cha mẹ, gợi khát khao sum họp.
“Buồn trông … xa xa”.
- Trong hoàn cảnh ấy, Kiều buồn thương cho cảnh phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người.
Hình ảnh ẩn dụ hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa thật gợi cảm. Hoa trong văn chương vốn
biểu hiện vẻ đẹp mong manh, vẻ đẹp chóng tàn trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ ấy chính là biểu
6
Nguyễn Hải Đăng – 9D
tượng cho số phận trôi nổi của Kiều: Không biết sẽ trôi dạt về đâu, bị vùi dập ra sao. Câu hỏi tu từ:
vang lên đầy xót xa “biết là về đâu?”.
- Tiếp đến là nội cỏ nhạt nhoà trong mênh mông hoang vắng “buồn trông … xanh xanh”. Sắc xanh
vốn là sắc màu của sự sống nhưng ở đây, sắc xanh ấy “rầu rầu” khiến cho cảnh vật trở nên u ám,
mịt mù, ảm đạm. Với hình ảnh chân mây, mặt đất, gợi một không gian lớn, bao trùm màu xanh bất
tận, đơn điệu, mờ nhạt của nội cỏ.
- Nhìn ra phía này buồn, ngoảnh mặt sang phía khác lại càng buồn hơn. Dường như nỗi buồn mỗi lúc
càng tăng, càng dồn dập. Âm thanh dữ dội đã kết thúc đoạn thơ “Ầm ầm ghế ngồi”. Phép đảo
ngữ nhấn mạnh âm thanh dữ dội của tiếng sóng. Đây là âm thanh duy nhất của đoạn trích nhưng
lại là âm thanh bão tố, âm thanh như tai họa, bủa vây lấy Kiều. Thiên nhiên dữ dội với gió cuốn, với
ầm ầm tiếng sóng cho thấy tâm trạng lo sợ, hãi hùng trước những tai họa đang rình rập nàng.
- Cảnh vật được cảm nhận từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, tâm
trạng từ buồn lo đến hoảng sợ, hãi hùng.
- Dáng dấp của ca dao dân ca, cụm từ “buồn trông” mở đầu cho các câu sáu tiếng làm thành điệp
ngữ đã tạo nên được âm hưởng trầm buồn. Điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm
trạng cùng các từ láy liên tiếp xuất hiện như thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm
ầm không chỉ gợi sắc thái của cảnh mà góp phần thể hiện nỗi buồn dồn dập, triền miên, tăng dần
đến bão táp nội tâm.
- Đây là đoạn thơ được đánh giá là tuyệt bút của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Ở đây không chỉ có cảnh
đẹp, tình sầu mà lòng nhà thơ dường như cũng hòa vào cùng nhân vật để buồn thương, đau xót,
cảm thông cho nỗi niềm nhân vật.
7

Nguyễn Hải Đăng – 9D
VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
THƠ HIỆN ĐẠI
I. Đồng chí
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí.
- Trước hết ở đoạn đầu, với bảy câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lí giải về cơ sở của
tình đồng chí.
- Mở đầu bài thơ bằng hai câu đối rất chỉnh:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương “anh” và “tôi” – những người lính xuất thân là nông dân.
“Nước mặn đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, “đất cày lên sỏi đá” là nơi đồi
núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai – mối quan tâm hàng đầu
của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở, sự đồng
cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Từ “tôi’ chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hơp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ
được nhấn mạnh hơn.
- Tự phương trời tuy chẳng hẹn quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia
chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí – tình cảm ấy không phải chỉ
là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn ý tưởng và mục đích cao cả: Chiến
đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
Súng bên súng đầu sát bên đầu”
- Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng
như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình
ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. “Chung chăn” có
nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua
cái lạnh, mà sự gắn bó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng
đội.

- Cả bảy câu có duy nhất! Từ “chung” nhưng bao nhiều hàm ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung
chí hướng, chung một khát vọng…
8
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Nhìn lại cả bảy câu thơ đầu, những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là ‘anh” và “tôi” trên từng
dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai hai thế giới riêng biệt. Rồi
“anh” và “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng lại là đôi “người xa lạ”, và rồi đã biến
thành đôi tri kỉ - một tình bạn keo sơn gắn bó. Và cao hơn nữa là tình đồng chí. Như vậy, từ rời rạc
riêng lẻ, hai người đã dần nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
- Câu thứ bảy là một câu thơ đặc biệt. Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng
chỉ với hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo một nốt nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như
đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng
định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ,
thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn
cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra ý tiếp theo:
đồng chí còn là nhữngbiểu hiện cụ thể và cảm động ở mười câu thơ sau.
 Cả đoạn thơ như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm Cách mạng
mới mẻ chỉ có ở thời đại mới.
2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
• Mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí,
đồng đội.
- Đồng chí đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bán thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Đó là tình tri kỉ, hiểu bạn như hiểu mình mà còn vì mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ.
Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn
bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu thơ
“Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp mình hoang
trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hi sinh lớn lao

và đó cũng là quyết ra đi mà khong dửng dưng vô tình. Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi
niềm người thân của nhau ở hậu phương: “Giếng nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ gợi về quê
hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ người
lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã
chia sẻ với nhau mọi tâm sự, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín riêng tư nhất. Họ cùng
sống với nhau trong kỉ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên nỗi nhớ.
- Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà
họ còn chia sẻ những gian ao thiếu thốn của cuộc đời người lính – “sốt run người vầng trán ướt mồ
hôi”. Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chiịu bệnh tật và
những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải qua. Họ cùng thiếu,
cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
- Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao. Đoạn thơ như
diễn tả sâu sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua moi thiếu thốn gian truân,
cực nhọc của cuộc đời người lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”.
- Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng
chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng
xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người
9
Nguyễn Hải Đăng – 9D
như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những
người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.
- Họ quên đi mình để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tinh cảm chân thành. Nó không phải cái bắt tay thông
thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau, truyền cho nhau hơi ấm để vượt lên buốt giá, những
bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng
cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu nặng để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lí tưởng.

Trong suốt cuộc kháng chiến trường kì đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu
của sự sống tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỉ niệm không bao giờ quên.
- Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức
mạnh của tình cảm ấy.
 Bài thơ “Đồng chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống
là làm nên bao chiến công hiển hách.
3. Đoạn kết bài thơ
- Ba câu cuối của bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí đồng đội cao
đẹp.
- Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc: “Đêm nay rừng hoang sương muối … trăng treo”.
- Công việc thực sự của người lính và tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách, gian lao, trong
công việc đanh giặc thực sự là thử thách lớn. Cũng chính ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ kề nhua
trong tích tắc thì tình đồng chí mới thực sự thiêng liêng, cao đẹp.
- Trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên: đêm; rừng hoang; sương muối; người chiến sĩ
đứng cạnh bên nhau trờ giặc tới – hình ảnh họ sát cánh bên nhau vững chai, tràn đầy khí thế lạc
quan làm mờ đi cái gian khổ của cuộc chiến đấu, tao nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân
thù.
- Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và moi gian
khổ, thiếu thốn.
- Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là điểm nhấn của ba phần, điểm sang
của toàn bài thơ. Hình ảnh thơ rất thực và cũng rất lãng mạn.
- Súng và trăng – hai hình ảnh vừa xa nhau về không gian, vừa khác biệt về ý nghĩa; súng và trăng là
hai hình ảnh vừa xa nhau về không gian, vừa khác biệt về ý nghĩa. Súng là hình ảnh của sức mạnh,
hình ảnh của chiến tranh, khói lửa, trăng – một hình ảnh gợi cảm dịu êm, hình ảnh của thiên nhiên
trong mát của cuộc sống thanh bình.
- Đây là hình ảnh thực được nhận ra từ những đêm hanh quân, phục kích của chính tác giả, người
lính cầm súng để bảo vệ cuộc sống hoà bình, độc lập tự do cho Tổ quốc.
- Súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ,
đó là các mặt bổ sung cho nhau, hài hoà với nhau của cuộc đời người lính cách mạng.
- Ba câu thơ thật cô đọng, hàm súc, giâu chất tạo hình, giâu nhạc điệu, hình ảnh thơ chân thực, gợi

tả mà giàu ý nghĩa khái quát, gợi nhiều liên tưởng, vừa thực vừa lãng mạn giúp ta cảm nhận rõ hơn
về hình ảnh người lính trong KCCP.
 Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, cụ thể ở
đây là anh bộ đội hồi đầu KCCP – đó là anh bộ đọi xuất thân từ nông dân; họ sẵn sang bỏ lại những
gì quý giá, thân thiết của làng quê để ra đi vì nghĩa lớn nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê
thân yêu.
- Họ trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng: những cơn sốt run người, trang phục phong phanh
giữa mùa đông giá lạnh (áo rách, quần vá, chân không giày). Nhưng gian lao thiếu thốn càng làm
nổi bật vẻ đẹp của anh bộ đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá).
- Những chi tiết về cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của người lính được tác giả miêu tả rất thật, vừa
chân thực, vừa có sức gợi cảm cao.
- Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí đồng đội sâu sắc trong đoạn cuối của bài thơ.
10
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Đồng chí là cùng chung chí hướng, lí tưởng. Đây cũng là cách xưng hô của những người cùng trong
một đoàn thể cách mạng. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện
sâu sắc tình đồng đội.
II. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Giảm tải)
- Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt
vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường
được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như
cách tả của Phạm Tiến Duật.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
- Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư
hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe
không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là
một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính
lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng
tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người

suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.
- Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những
con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính
chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những
cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh
và điệp ngữ :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
- Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp
bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn
thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh,
vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”, “con đường” đến cả “sao
trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác
đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm.
Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường
chiến đấu, con đường cách mạng.
- Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những
câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có
tính cách ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.
11
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng
bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ
làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” biểu lộ sâu sắc sự lạc quan
ấy.
- Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến
tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm
vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
- “Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến.
“Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái
xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước
sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại
giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
- Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và
suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ
vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu

đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không
kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên
những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính/ rồi xe không có đèn /
Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom
đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt
lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc
chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình
ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi
người cầm lái tích tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn
sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh
quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc
quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề,
toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ.
III. Đoàn thuyền đánh cá.
• Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việ c
- Với sự liên tưởng và so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày
và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn
với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhua chạy
ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được mọi bức tranh phong cảnh kì diệu
như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.
12
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang
trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.
Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người
trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và
cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi ngày của
công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con
người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả.

+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có
sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao
động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc.
• Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong muốn công việc
đánh cá thu được kết quả tốt đẹp.
- Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp và con người
rất yêu lao động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển
bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng
mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con người hiện
lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
• Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng . Trên mặt biển đó, có một con
thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
- Với tài quan sát tinh tế cùng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã phát hiện cảnh đánh cá trên biển
trong dêm trăng với niềm vui phơi phới của người lao động khi đã được làm chủ cuộc đời, làm chủ
biển trời quê hương.
- Toàn bộ khổ thơ là cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi tìm luồng cá của lưới vây giăng, vừa hùng
tráng vừa thơ mộng “Thuyền ta lái gió với buồm trăng, lướt giữa mây cao với biển bằng”. Con
thuyền đánh cá nhỏ bé trước biển trời bao la nay đã trở thành con thuyền kì vĩ sánh ngang cùng vũ
trụ, gió trời là người lái, trăng trời là cánh buồm. Trăng trời là cánh buồm - cánh buồm thấm đậm
ánh trăng, trở thành buồm trăng. Chủ nhân của con thuyền – người đánh cá cũng trở nên lồng
lộng, cao lớn giữa biển trời trong tư thế làm chủ. Thuyền và người hoà nhập với kích thước của

thiên nhiên và vũ trụ.
- Con người không chỉ hoà nhập với thiên nhiên, với vũ trụ mà còn nổi bật ở vị trí trung tâm bởi
công việc đánh bắt cá vốn phần nhiều phụ thuộc vào thiên nhiên thì ở đây họ lại trở thành những
người làm chủ. Công cuộc lao động, đánh bắt cá chính là cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.
Họ ra tận khơi xa, dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, đoàn thuyền đánh cá như những
chiến thuyền băng băng lướt sóng bủa vây, điệp trùng. Ngư dân làm việc với lòng dũng cảm, hăng
say và trí tuệ nghề nghiệp cùng với cả tâm hồn phơi phới của người làm chủ.
 Cảm hứng lãng mạn của Huy Cận trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của người lao động, của tinh thần
làm chủ đã được thể hiện thành công trong những câu thơ tái hiện hình ảnh đoàn thuyền a khơi
đánh cá trên biển thật hào hùng, lạc quan và thơ mộng.
• Biển giàu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
13
Nguyễn Hải Đăng – 9D
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên các loài cá và tập trung miêu tả màu
sắc của chúng trong đêm trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi
trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Tuy nhiên “cái đuôi em
quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy
đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật tinh tế mới có được những phát hiện tuyệt vời
ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một sinh vật
đại dương: nó thở. Tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhưng tưởng tượng của nhà
thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở của
đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao trời nơi đáy nước chứ không
phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ - một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến
cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.
• Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ. Biển cho con

người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
- Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng sáng,
vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền thành hình ảnh
“nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm đẹp thêm công việc lao
động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với con người hòa đồng trong lao động.
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc
trong bài ca lao động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
• Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
- Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp
tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt đầu bừng
sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh sáng của rạng đông và lóe lên màu
hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng
hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ. Con
người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.
• Và đây là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Khổ đầu và khổ cuối đều có hai hình ảnh chính là mặt trời và đoàn thuyền. Ở khổ đầu là mặt trời
xuống biển và đoàn thuyền ra khơi, khổ cuối là hình ảnh mặt trời nhô lên và đoàn thuyền trở về. Có
một câu thơ gần như lặp lại nguyên vẹn ở cả hai khổ (chỉ khác chữ “với” thay cho chữ “cùng”).
- Việc lặp lại những hình ảnh và chi tiết này tạo nên sự tương ứng của khổ đầu và khổ cuối bài thơ,
thể hiện trọn vẹn hành trình ra khơi đánh cá rồi trở về của đoàn thuyền, nhịp cùng với sự vận hành

của vũ trụ từ hoàng hôn đến bình minh. Đoàn thuyền ra đi trong tiếng hát làm việc trong tiếng hát,
trở về vẫn hát vang. Tiếng hát sau một đêm lao động vẫn hào hứng, mạnh mẽ - tiếng hát thắng lợi
hân hoan.
14
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Đoàn thuyền trở về trong tư thế hào hùng khẩn trương, chạy đua cùng mặt trời. Trong cuộc chạy
đua này, con người đã chiến thắng. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”; biện pháp thậm xưng kết
hợp hoán dụ để nói lên sức mạnh của con người.
- Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp của một ngày mới khi đoàn thuyền đang trở về, các khoang
đầy ắp cá. Thuyền và người luôn được đặt ở kích thước vũ trụ, mạnh mẽ, hào hùng. Lời thơ tràn
đầy niềm vui và tự hào của những người lao động đã chiến thắng.
 Bài thơ là một khúc ca – khúc tráng ca ca ngợi con người trong lao động với tinh thần làm chủ, với
niềm vui. Bài thơ có nhiều từ “hát” được lặp lại khiến nó thực sự là một khúc ca.
- Thể thơ 7 chữ, nhịp 4/3 là chủ yếu, rất khoẻ khoắn. Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say
mê, hào hứng của tác giả. Cách gieo vần biến hoá linh hoạt, vần trắc xen vầng bằng, vần liền xen
vần cách. Bài thơ là sự kết hợp giữa hai cảm hứng của tác giả - cảm hứng lãng mạn và cảm hứng
thiên nhiên vũ trụ.
IV. Ánh trăng
- Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến
tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
- Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi
thơ. Hai câu thơ với vẻn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận
động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết.
Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể
quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”,
“sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh

phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai
cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới”.Trăng
luôn sát cánh bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc
liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh
trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô
đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu
lửa.
- Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó
với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đó, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không
bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
- Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu
thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh
so sánh ẩn dụ đã tô đậm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm
tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của
đồng, của sông, của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn -
vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
15
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn
mỗi con người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay
đổi đó.Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa
gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người

bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại
xem như không quen không biết. Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm
rung động lòng người đọc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá
đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của
mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất
thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con
người đã lấn át đi lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi
được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền
tảng cơ bản của cuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy
ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
- Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính
bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật
tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ
năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình
nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không
bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình.
Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con
người biết sám hối, biết vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán
biết trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử
thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc . Và
chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái gì là
quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Dường như
người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể

như là sông là rừng”
- Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho không bị quở trách
một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò
chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt
đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng
trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình
ngày nào, nới có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào
dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những
giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong
sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ
những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ
bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn
thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những
hình ảnh đi vào lòng người.
16
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Vầng trăng trong khổ thơ cuối cùng đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
- Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn
vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy chuyển dù cho trải qua
biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái
nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi
mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể
lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh
thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.
V. Bếp lửa
1. Khơi nguồn cảm xúc (3 dòng thơ đầu)

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ
ấu. Bếp lửa là một hình ảnh gần gũi, quen thuộc, bình dị trong mỗi bếp nhà người Việt. Điệp ngữ “một
bếp lửa” nhấn mạnh ấn tượng sâu đậm không thể tàn phai. Từ láy “chờn vờn”; “ấp iu” có sức gợi đặc
biệt. “Chờn vờn” vừa gợi được ngọn lửa hồng bốc cao, toả sang, ẩn hiện trong làn sương sớm, vừa thể
hiện được cái sắc màu lung linh, hoài niệm. “Ấp iu” là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó là sự kết
hợp của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. “Ấp iu” gợi một bếp lửa ấp ủ than hồng, nồng đượm nhờ bàn tay
khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa và nó cũng được ấp iu, trân trọng, giữ gìn trong tâm
trí người cháu.Nhớ về bếp lửa là người cháu lại bồi hồi nhớ về bà: “Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa” bởi vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa, bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, năm tháng, lụi
cụi, tảo tần, giàu đức hi sinh. Chỉ với ba dòng thơ, tác giả đã đưa chúng ta trở về với hoài niệm tràn đầy
thương nhớ, trở về với hình ảnh bếp lửa thân quen. Bếp lửa hiện lên huyền ảo, sống động cùng người
bà tần tảo, lam lũ, cả cuộc đời nhọc nhằn, vất vả.
2. Hồi tưởng về bà (3 khổ thơ tiếp)
• Tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn: “đói mòn đói mỏi”.
“Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
- Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh
của người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945
trước ngày cả nước ta vung lên gianh chinh quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết
đói đầy trên đường làng. Nhà thơ Bằng Việt với hình ảnh hết sức tiêu biểu đã gợi cho ta thấy một
quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất
nước trong đó có cả tác giả. Đọc đến câu thơ này chúng ta hoan toan không thấy có một vòm trời
cổ tích màu hồng với những ước mơ, những hình ảnh lãng mạn bay bổng một thời ấu thơ. Tấta ả
chỉ còn lại những hình ảnh thương tâm, khốn khổ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc.
Những năm tháng ấy gây một ấn tượng sâu đậm lay động tâm hồn nhà thơ - ấn tượng về khói bếp
hun nhem mắt để nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của nhiều gia đinh Việt Nam thời kì KCCP:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về…”

“Năm giặc đốt lang cháy tàn cháy rụi”
“Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”.
- Bố mẹ đi công tác xa, cháu ở với bà. Tình cảnh hai bà cháu thật vắng vẻ…
17
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Khi nhớ về kỉ niệm, dông hồi tưởng còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú. Âm thanh quen
thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoay trong lòng người con xa xứ. Có 11
câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến năm lần, khi thảng thốt, khắc khoải, có lúc lại mơ hồ, văng
vẳng từ những cánh đồng xa “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”, khi thì lại rộn về rất gần gũi, tha
thiết “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Rồi có lúc giông giả kêu hoài. Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã
tạo nên cung bậc khác nhau của âm thanh: “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên
những cánh đồng xa”. Tất cả gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng.
Trong những cung bậc khác nhau của âm thanh tiếng chim tu hú, tâm trạng của người cháu mỗi lúc
một trở nên da diết, mạnh mẽ hơn. Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu
hú, hai bà cháu đã gắn bó, chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt tám năm ròng.
• Tuổi thơ cháu luôn được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:
- Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” chuyện đời nay, đời xưa…
- Rồi “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe – Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Các từ ngữ như: bà
bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả một cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương
bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu. Bốn lần gọi là tình bà cháu quấn quýt, yêu thương. Bà
hiện lên ấm áp, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Bà luôn là chỗ dựa vững chắc cho cháu, thay thế và
lấp đầy tất cả (cả khát khao học hanh và cả hình thành nhân cách). Bà là sự kết hợp cao quý giữa
tình cha, nghĩa mẹ, công thầy.
- Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý. Trong nhũng năm
tháng chiến tranh và ác liệt ấy, cơ hàn rồi đến giặc giã, thế nhưng bà vẫn bình tĩnh, vững lòng, đinh
ninh là chỗ dựa vững chắc cho cháu: “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh”. Vẫn chỉ có hai bà cháu
sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn
nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
- Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tình
cảm và suy nghi của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người mẹ Việt Nam. Ở đây hình ảnh
bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại của bà hoàn toàn tương phản với ngọn lửa ngọn lửa thù địch
đối với sự sống: “Năm giặc đốt làng, cháy tàn cháy rụi”. Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của kẻ
thù vẫn còn một ngọn lửa nhen lên một sự sống khác.
 Như vậy mạch cảm xúc xen kẽ lời kể, giọng điêu ngôn ngữ, hình ảnh thơ cứ lan toả dần, rõ dần lên;
giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự. Đó là giọng kể thủ thỉ, tâm tình, rất nhỏ, rất nhẹ. Làm cho
dòng cảm xúc miên man và để lại những dấu ấn sâu đậm về người bà. Lời bà văng vẳng bên tai, vẫn
đinh ninh trong lòng cháu. Người cháu trong bài thơ tuy phải sống xa cha mẹ, tuy tuổi thơ cơ cực
thiếu thốn nhưng em thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bà.
3. Suy ngẫm.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhem
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
- Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa cụ thể hơn mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng
trưng cho hơi ấm, ánh sáng và sự sống. Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải
chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thương dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất
diệt, ngọn lửa của tình yêu thương ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa
thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực. Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu
thương ấm áp của bà danh cho cháu. Phải chăng chinh ngọn lửa lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn
cháu, ý chí, nghị lực, mà một tình yêu cuộc sống, một niềm tin tươi sáng về ngày mai. Đó là biểu
hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà truyền
cho cháu. Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kì lịch sử
vô cùng khó khăn đó, niềm tin về một ngày mai hoà bình, một ngày mai tươi sáng và một tương lai
18
Nguyễn Hải Đăng – 9D
tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa,
giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Lửa ấy là lửa niềm tin, lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai
sau.

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
- Trong suốt cuộc đời bà đã và vẫn làm công việc nhóm lửa. Bà đã làm cái công việc khởi đầu một
ngày – nhóm bếp lửa mỗi sớm mai và cũng làm cái công việc khởi đầu cho một đời, một tâm hồn.
Điệp từ “nhóm” được nhắc lại tới bốn lần làm toả sáng hơn nét “kì lạ” và “thiêng liêng” của bếp
lửa. Hình ảnh bếp lửa vửa mạng ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Ngọn lửa bà nhóm
lên mỗi sớm, mỗi chiều không phải chỉ bằng những nhiên liệu thông thường mà được nhen nhóm
lên từ ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương. Vì thế khi bà “nhóm bếp lửa”
cũng là lúc nhóm niềm yêu thương, truyền cho con cháu tình ruột thịt nồng ấm. Rồi bà mở rông
tấm lòng đoan kết, gắn bó với làng xóm, quê hương “nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” và cuối
cùng, người bà kì diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống.
Hình ảnh bếp lửa và bà đã quấn quýt, lồng trong nhau và trở thành hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ.
Như vật, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho những thế hệ nối
tiếp. Vì thế, khi khép lại dòng hoài niệm và nỗi nhớ, nhà thơ – người cháu bằng Việt đã trào dâng
niềm xúc động thành kính và thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
VI. Mùa xuân nho nhỏ
1. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân thiên nhiên xứ Huế. (Giảm tải)
- Cảm hứng xuân được khơi nguồn từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
- Chỉ với sáu câu thơ cùng vài nét khắc họa đơn sơ những hình ảnh đặc sắc, bằng những hình ảnh
nho nhỏ, thân quen bình dị, nhà thơ đã gợi nên một bức tranh thơ mùa xuân đậm phong vị quê
hương xứ Huế - quê hương của tác giả.
- Không gian được mở ra cao vời vợi, thoáng đãng với dòngsông, mặt đất, bầu rời bao la, sắc màu
tươi tắn, hài hòa đầy xuân sắc với hoa tím biếc, nổi bật giữa “dòng sông xanh” lung linh, ngời sáng,
âm thanh rộn rã, tươi vui của “tiếng chim chiền chiện” hót vang trời.
- Cách nói đảo ngữ, vị ngữ đứng trước “mọc … biếc” gợi ấn tượng đẹp về vẻ đẹp và sức sống của

bông hoa xuân, bông hoa ở giữa trái tim của dòng sông, trung tâm của bức tranh như đang dần
vươn lên xòe nở muôn màu, còn tiếng chim chiền chiện – sơn ca của xứ Huế, sứ giả của mùa xuân
thì ngân vang xúc động cả bầu trời, xao xuyến tâm hồn thi nhân. Nỗi xúc động ấy không nén nổi
khiến tác giả phải thốt nên lời trò chuyện trách yêu thiên nhiên “Ôi … trời”. Chim và hoa vốn tiêu
biểu cho vẻ đẹp và sức sống của muôn loài; vẻ đẹp của mùa xuân dưới cái nhìn của thi nhân, nó vẫn
mang nét riêng không thể lẫn.
- Đặc biệt, bức tranh xuân còn được hoàn thiện rất chi tiết, rất có hồn “Từng giọt … hứng”. Có thể
hiểu giọt long lanh dưới ánh sáng của trời xuân – cũng có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu
trước: nhà thơ đưa tay từng giọt âm thanh tiếng chim, tiếng chim ngân lên từng tiếng một thật
trong, thật tròn, thật vang và trong ánh tươi và rạng rỡ của ngày xuân, nó không tan đi mất mà
đọng lại thành từng giọt hữu hình, long lanh như ngọc rơi xuống thành chuỗi và nhà thơ đưa tay
hứng với tất cả sự đắm say, trân trọng. Có thể nói, Thanh Hải đã thanh công trong thủ pháp chuyển
đổi cảm giác. Từ cảm nhận bằng thính giác, tác giả chuyến sang cảm nhận bằng vị giác, xúc giác
khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa, vừa là thơ, vừa là thơ vừa là nhạc lại vừa là họa.
- Điều đáng trân trọng là khi Thanh Hải viết những vần thơ này, ông đang nằm trên giường bệnh và
mùa xuân chưa về cõi đất này nhưng lời thơ vẫn tràn đầy xuân sắc, phải yêu đời thiết tha và lạc
19
Nguyễn Hải Đăng – 9D
quan lắm, tác giả mới mở lòng với mùa xuân như vậy để viết nên những câu thơ dạt dào cảm xúc
xuân ấy.
2. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước.
- Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân đất nước, con
người. Tác giả đã hướng tình cảm của mình tới những con người cụ thể, những người làm nên lịch
sử, làm nên mùa xuân “Mùa xuân … nương mạ”. Các điệp từ “mùa xuân”; “lộc”; “người” như trải
rộng khung cảnh hiện thực khi gắn với cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân. Thanh Hải đã
sáng tạo ra cặp hình ảnh song đôi đẹp như hai vế của một câu đối mừng xuân để nói về hai lớp
người chủ yếu của Cách mạng, hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước: Người chiến sĩ và người lao động
- bảo vệ và xây dựng đất nước. Điệp từ “lộc” được dùng với hai lớp nghĩa: nhanh non, lá nhỏ và
nghĩa ẩn dụ là sức sống, thế vươn lên, là những giá trị và thành quả tốt đẹp, các từ “dắt đầy”, “trải
dài” gợi một màu xanh bất tận, một sức xuân đang dâng tràn trên khắp mọi nẻo đường của đất

nước và rạo rực lòng người. Lộc trên cành lá ngụy trang theo chân người cầm súng ra trận, lộc trải
dài trên những nương mạ theo những người ra đồng hay chính họ đã mang mùa xuân đến, gieo
mùa xuân trên khắp mọi nẻo đường trên đất nước. Họ đã làm nên giai điệu chính của bản hợp
xướng mùa xuân, tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng “tất cả … xôn xao”. Cấu trúc “tất cả
như” được lặp lại (điệp ngữ) và lối so sánh trực tiếp diễn tả được không khí lên đường, sự khẩn
trương, rộn ràng, náo nức trong những năm tháng gian lao mà hào hùng của đất nước.
- Từ những con người cụ thể, nhà thơ nghĩ về đất nước trong cảm nhận khái quát cùng cái nhìnsuốt
chiều dài lịch sử với tình cảm vừa thương xót vừa tự hào “Đất nước … phía trước”. Đất nước được
nhân hóa mang sự sống như con người, đất nước vất vả và gian lao nhưng với sức sống bền bỉ,
vững vàng, vẫn cứ đi lên, không gì cưỡng nổi và mỗi mùa xuân lại như được tiếp thêm sức sống
mới, lúc đó ta vừa trải qua chiến tranh kéo dài, hết chống Pháp rồi chỗng Mĩ lại thêm biên giới phía
Bắc, phía Tây Nam; nền kinh tế còn gặp vô vàn khó khăn nhưng vẫn khẩn trương, hăm hở xây dựng
lại cơ đồ bằng lòng tin vào dân tộc. Đất nước được ví như ngôi sao tỏa sáng, cứ đi lên phía trước,
hợp với quy luật của tạo hóa, của lịch sử. Hình ảnh đó cũng nho nhỏ, khiêm nhường, bình dị thôi;
nhưng ánh sáng và vẻ đẹp của nó thì vĩnh hằng và bất diệt. Ngôi sao đất nước ấy như định hướng
cho mỗi cuộc đời, vẫy gọi, giục giã mọi người cống hiến.
3. Ước nguyện của nhà thơ.
- Trước mùa xuân lớn của thiên nhiên đất trời, đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của
mỗi cuộc đời và dạt vào một khát vọng hòa nhập là dâng hiến cho mùa xuân chung.
- Lời bộc bạch thật chân thành, tha thiết, nhà thơ nguyện ước làm con chim hót trong giọng hót của
muôn chim, dâng cho đời tiếng ca vui; là bông hoa trong muôn sắc của loài hoa; làm nốt trầm trong
bản hòa tấu muôn điệu, muôn lời ca, làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất
nước, dân tộc. Đó là khát vọng sống hòa nhập vào cuộc sống của đất nước. Cống hiến phần tốt đẹp
dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung – đó là một quan niệm sống đẹp, đầy trách nhiệm và rất
nhân văn. Điều tâm niệm ấy lại được thể hiện một cách chân thanh trong những hình ảnh đẹp của
tự nhiên và đến một cách tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ. Trước mùa xuân đẹp, nhà thơ
muốn biến cuộc đời mình thành hương sắc, tiếng ca để hòa góp vào mùa xuân. Những hình ảnh
đẹp của thiên nhiên, mùa xuân: bông hoa, tiếng chim được lặp lại ở khổ 1 chuyển sang khổ 4
nhưng đã chuyển nghĩa để nói về mùa xuân của lí tưởng và khát vọng. Sự lặp lại ấy tạo ra sự liên
kết và đối ứng chặt chẽ, vừa gây ấn tượng đậm nét lại vừa mang ý nghĩa: niềm mong muốn được

sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con chim cho tiếng hót, bông hoa dâng sắc
hương; như lời Tố Hữu đã từng viết: “Nếu là con chim, chiếc lá thì con chim phải hót chiếc lá phải
xanh, lẽ nào vay mà không có trả, sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”
- Tư tưởng của nhà thơ kết đọng nhất trong hình ảnh “một mùa xuân nho nhỏ - lặng lẽ dâng cho
đời”. “Mùa xuân nho nhỏ” là một phát hiện mới mẻ và sang tạo, bất ngờ, độc đáo mà rất tự nhiên
của Thanh Hải. Nó gợi một mùa xuân cụ thể, chỉ nho nhỏ thôi trong hình ảnh bông hoa, tiếng chim
như một ẩn dụ nói về một khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường. Làm mùa
xuân nghĩa là sống đẹp, giữ mãi sức xuân để cống hiến khi ở tuổi xuân - tuổi 20. Và cả khi không
20
Nguyễn Hải Đăng – 9D
còn ở tuổi thanh xuân nữa – khi tóc bạc, bất chấp thời gian, tuổi tác. Điệp từ “dù là” khẳng định
mạnh mẽ khát vọng được cống hiến với tất cả sự thiết tha, khiêm tốn, trân trọng “Lặng lẽ dâng”.
Chủ thể thơ trữ tình từ chỗ “hứng” từng giọt âm thanh (được đón nhận) đến “nhập” vào hòa ca
(hòa nhập) rồi đến “dâng” cho đời (cống hiến). Đó là sự phát triển tự nhiên, hợp lí của cảm xúc, từ
chỗ xưng “tôi”, khi bộc lộ cảm hứng trữ tình của cá nhân trước mùa xuân. Ở khổ thơ này, tác giả lại
chuyển sang xưng “ta” cũng là phù hợp để nói lên ước nguyện cao đẹp không chỉ là của cá nhân mà
còn của nhiều người - mọi người. Chữ “ta” mang được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời
nguyện ước. Các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu tạo nhịp thơ liền mạch, sôi nổi, trẻ trung, diễn
tả những tình cảm khát vọng trao dâng mãnh liệt.
- Thật trân trọng và cảm phục biết bao khi những dòng tâm niệm bởi một người đang nằm trên
giường bệnh của một người đã và đang mong muốn được tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp của
cách mạng; cho đất nước.
VII. Viếng lăng Bác
1. Tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào miền Nam muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ
cùng Bác.
- Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ gỏn gọn như một lời thông báo nhưng lại gợi ra
tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao nhiêu năm mong mỏi bây
giờ mới được ra viếng lăng Bác.
- Cách dùng đại tù xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tinh thân thương, diễn tả tâm trạng
của người con sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra lăng viếng Bác.

- Cách nói giảm, nói tranh: từ “thăm” thay cho từ “viếng”, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát – Bác
Hồ còn sống mái trong tâm tưởng mọi người.
- Hình ảnh hàng tre vừa mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc: Hàng tre là
hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam, đã thành một biểu ượng của dân
tộc. Cây tre mang biểu tượng của tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc
“xanh xanh Việt Nam … Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
- “Ôi!” là từ cảm thán , biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre.
2. Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng người:
- Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi là hình ảnh
thực: một mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng. Câu dưới là hình ảnh ẩn
dụ - hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn,
nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn của Bác.
 Thông qua hình ảnh ẩn dụ trên, tác giả vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời), vừa thể hiện
được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác.
- Dòng người vào lăng viếng Bác kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh
những dòng người vào lăng viếng Bác.
- Dòng người vào lăng viếng Bác kết thanh những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sanh
những dông người xếp thanh hàng dài vào lăng viếng Bác trông như những tràng hoa vô tận, mà
còn là một ẩn dụ đẹp, sang tạo của nhà thơ: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sang của Bác.
Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất.
- Dâng “bảy mươi chín mùa xuân”: hình ản hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con người bảy mươi
chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm nên những mùa xuân
cho đất nước, cho con người.
3. Khổ thơ thứ tư diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
21
Nguyễn Hải Đăng – 9D
• Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt.
- Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
- Từ “trào” diễn tả cảm xúc manh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.
- Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần

Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa
một lần nào gặp Bác.
- Muốn làm con chim hót -> âm thanh của thiên nhiên đẹp đẽ, trong lành.
- Muốn là đóa hoa -> tỏa hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ.
- Muốn làm cây tre trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
- Điệp từ “muốn làm” biểu cảm trực tiếp và gián tiếp -> tâm trạng lưu luyến, ước muốn, sự tự
nguyện chân thành của tác giả.
- Hình ảnh cây tre xuất hiện khép lại bài thơ một cách khéo léo.
VIII. Sang thu
1. Khổ 1:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
• Đây là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời, khoảnh khắc giao mùa
của tạo vật được thi nhân cảm nhận bằng nhiều giác quan tinh tế.
• Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:
- Cuối hạ, đầu thu: tín hiệu báo về với Hữu Thỉnh không phải không phải hoa cúc vàng hay bầu trời
thu quen thuộc, cũng chẳng phải hương cốm mà từ hương ổi chín, thơm nồng. “Bỗng nhận ra
hương ổi, phả vào trong gió se”, cuối hạ đầu thu, ổi chín muộn, hương thơm đậm đà, truyền đi náo
nức như thông điệp của mùa thu. Cái thứ hương quê ấy không lạ trong đời nhưng lại hiếm trong thi
ca; hương thu ấy vừa gần gũi, vừa mới mẻ. Từ “phả” gợi hương đậm như sánh lại, có lẽ còn bởi
“gió se”. Gió đầu thu chớm lạnh và hơi khô .
- Cùng với hương và gió là sương, không gian dẫn hương và lãng đãng sương. Sương được nhân hóa,
tù “chùng chình” gợi màn sương giăng mắc nhẹ nhàng như có hồn, cố ý chậm lại, vừa mơ hồ, vừa
chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. Trong sương có gió, có sương, có hương và có
cả tinh. Ngõ vừa là ngõ thực, vừa là ngõ ảo, vừa gợi cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Sương
bâng khuâng, lưu luyến như chưa muốn bước hẳn vào thu.
- Cảm xúc của tác giả: Kết hợp một loạt các từ: “bỗng, phả, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngang,

cảm xúc bâng khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật minh, hơi bối rối, hình
như còn có một chút gì đó chưa thật rõ ràng trong cảm nhận.Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng,
thoáng qua hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng
với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu của cảnh vật đã thấp thoáng hồn người sang
thu.
2. Khổ 2:
- Nếu thiên nhiên giao mùa trong khổ một được tác giả cảm nhận ở một không gian gần và hẹp thì ở
khổ hai, sự biến chuyển của thiên nhiên được cảm nhận ở tầm xa hơn, cao hơn với những nét hữu
hình, cụ thể. Từ mặt đất hướng lên bầu trời.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
- Hai câu thơ đầu là một cặp đăng đối tạo nên không gian vừa rộng mở, vừa cao vời vợi với những
động thái ngược nhau mà rất đặc trưng cho mùa thu.
22
Nguyễn Hải Đăng – 9D
- Thiên nhiên được nhân hóa có hồn, có tình, dòng sông thu không cuồn cuộn, gấp gáp như mùa
mưa lũ ngày hạ mà dềnh dàng, chậm chạp, thong thả, lững lờ trôi như đang lắng lại, trầm xuống,
ngẫm ngợi, suy tư, ngập ngừng. Đối lập với cảnh ấy là chim bắt đầu vội vã, chuẩn bị chuyến di trú,
tránh rét vì chớm lạnh hay vội vã về tổ lúc chiều hôm. Nhưng chỉ là cái vội vã, mới chớm, mới bắt
đầu thôi, phải tinh tế lắm mới nhận ra sự bắt đầu ấy. Không khí thu vẫn thư thái, êm ả, lâng lâng,
dìu dịu.
- Hai câu cuối: Thu đang ở nơi cửa ngõ của mùa bởi đám mây mà hạ mới chỉ vắt nửa minh sang thu
cho bầu trời nhuộm nửa sắc thu. Cả cảnh vật và lòng người đang bước vào thu mà dường như còn
rất quyến luyến mùa hạ. Đám mây trắng mềm mại, trải dài như tấm khăn voan của người thiếu nữ
duyên dáng, thảnh thơi, nhẹ nhang “vắt nửa mình sang thu”. Hình ảnh này cỏ tinh tạo hình trong
không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian; mây là thực nhưng ranh giới
giữa hai mùa là ảo. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất đỗi nên thơ và độc đáo của thi nhân.
3. Khổ 3:

- Từ say sưa cảm nhận bằng những giác quan tinh tế, những biến chuyển nhẹ nhàng trong không
gian lúc sang thu, cái nhìn của thi nhân như lắng cùng sự trải nghiệm, nghĩ suy, bức tranh sang thu
đến đây được hoàn tất, có thêm hồn và đậm chất suy tư.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
- Thu đã hiện ra đậm đà hơn và nhà thơ đã cảm nhận bằng đoán nhận, bằng kinh nghiệm và suy tư
sâu lắng. Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp như mùa hạ nhưng mức độ đã khác. Lắng dần, bớt chơi gắt,
nóng bức hơn. Những cơn mưa rào ào ạt của mùa hạ đã vơi dần, đi kèm đó là những tiếng sấm giờ
cũng thưa dần, nhẹ đi. “Sấm cũng bớt bất ngờ, trên hàng cây đứng tuổi”, cũng có thể hiểu hàng cây
đã lớn, đã bao vụ chuyển mùa nên không còn bị bất ngờ, bị giật mình bởi tiếng sấm nữa. Hai câu
thơ còn mang hàm ý ẩn dụ; sấm - chỉ những vang động bất thường của ngoại cảnh - cuộc đời,
những khó khăn, trắc trở; hàng cây đứng tuổi là cách nói nhân hóa cây nhưng cũng là ẩn dụ chỉ con
người đã từng trải, đã sang thu. Vẻ điềm tĩnh của cây trước sấm sét, bão giông lúc sang thu hay đó
là sự chín chắn, điềm đặn của con người đã từng trải sau những vất vả gian lao của cuộc đời. Hình
ảnh hàng cây đứng tuổi đặt ở cuối bài thơ vốn là một vị trí rất quan trọng đã mở ra một cảnh cửa
dẫn ta sang thế giới của tâm hồn con người.
- Nhìn lại bài thơ ta càng thấm thía vì sao có sự chùng chình, bịn rịn lúc sang thu của tạo vật mà giật
mình nhận ra sự sang thu của đời người để rồi xác định môt lối sống chín chắn và đúng mực hơn.
IX. Nói với con
1. Lời tâm tình của người cha với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. (Giảm tải).
2. Những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” và mong ước của người cha qua lời tâm sự với
đứa con.
- Người cha dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê hương.
- “Người đồng mình” là cha mẹ, là đồng bào, là người cùng quê hương.
- Sự lặp lại nhiều lần cụm từ này nhằm khẳng định phẩm chất của người đồng mình là phẩm chất của
quê hương bởi sức sống của quê hương do người đồng minh tạo ra. Đó là lời nói mộc mạc, giản dị
gợi bao tình yêu thương, gần gũi…
Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn
- Những từ ngữ cao, xa, như sông, như suối, lên thác, xuống ghềnh: nói lên tâm hồn và chí hướng
mạnh mẽ phóng khoáng.
- Phẩm chất của người đồng mình cứ hiện dần qua lời tâm tinh của người cha.
+ Đó là tấm lòng thủy chung với nơi chôn rau cắt rốn.
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
23
Nguyễn Hải Đăng – 9D
+ Đó là một cuộc sống tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan.
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
 Bằng những điệp từ, điệp ngữ, cách so sanh cụ thể, kết hợp với kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời
tâm tinh của người cha đã góp phần khẳng định người miền núi tuy cuộc sống hôm nay còn vất vả,
khó nhọc, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt “như sông như suối”,
bền bỉ, gắn bó và tha thiết với quê hương.
 Từ đó người cha mong muốn con:
- Có tình nghĩa với quê hương.
- Biết chấp nhận và vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình.
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
- Người đồng mình mộc mạc, giản dị, giàu ý chí và niềm tin. Họ có thể “Thô sơ da thịt” nhưng không
hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước: “Cao đo nỗi buồn – xa nuôi chí lớn”.
Họ biết tự lực, tự cường xây dựng quê hương, duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp của
người đồng mình.
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
 Câu thơ có hai lớp nghĩa:
- Nghĩa tả thực: Đục đá kê cao -> hành động có thực thường thấy ở miền núi. Quê hương vốn là khái

niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của người nào đó.
- Nghĩa ẩn dụ: Nói đục đá kê cao quê hương -> Muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn
cội nguồn.
 Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha mong muốn con minh phải tự hào về truyền
thống tốt đẹp của quê hương, hãy lấy những tinh cảm đó làm hanh trang để vững bước trên đường
đời.
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
- Hình ảnh “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con khắc cốt ghi xương. “Người đồng mình” tuy
mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải sống cao thượng, tự trọng
để xứng đáng với “người đồng mình”. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, quê
hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của “người đồng mình”. Hai tiếng
“nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con. Hai tiếng ấy
khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến.
24
Nguyễn Hải Đăng – 9D
TRUYỆN HIỆN ĐẠI
I. Làng
1. Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.
- Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê
rân rân ông lão lặng đi tưởng chừng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh được phần nào, ông
còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa
ở dưới đó lên”, làm ông không thể không tin.
- Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt.
Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông “nằm vật ra
giường”, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt
gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.
- Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ

tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ: “Thôi lại chuyện ấy rồi”.
 Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng
với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
25

×