Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.63 KB, 110 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
Học viên
Nguyễn Diệp Anh
2
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Trường Đại học Lâm nghiệp,
đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo TS Nguyễn Văn Hà đã chỉ dạy và hướng dẫn cho
tôi rất nhiệt tình, chu đáo; thầy là nguồn động lực giúp tôi hoàn tất được luận văn
này. Bên cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn các bạn cùng lớp, bạn đồng nghiệp và ban
lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam – CN Bắc Sài Gòn đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu, hoàn tất bài viết./.
Học viên
Nguyễn Diệp Anh
3
MỤC LỤC
Trang
Phân theo thành phần kinh tế 87
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt
1. AGRIBANK Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam
2. CIC Trung tâm thông tin tín dụng
3. CTCP Công ty cổ phần
4. DNQD Doanh nghiệp quốc doanh
5. DNTN Doanh nghiệp tư nhân
6. DPRR Dự phòng rủi ro


7. HTX Hợp tác xã
8. NHNN Ngân hàng Nhà nước
9. NHNN&PTNT VN Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và
PTNT Việt Nam
10. NHTM Ngân hàng thương mại
11. NQH Nợ quá hạn
12. NSNN Ngân sách Nhà nước
13. TCTD Tổ chức tín dụng
14. TNHH Trách nhiệm hữu hạn
15. TSCĐ Tài sản cố định
16. TTTD Thông tin tín dụng
17. VNĐ Việt Nam Đồng
18. XNK Xuất nhập khẩu
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Phân theo thành phần kinh tế 87
6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Phân theo thành phần kinh tế 87
7
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nội dung nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng liên tục
đăng tin bài về những vụ vi phạm nghiêm trong trong lĩnh vực tín dụng ngân
hàng, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh
tế nước nhà nói chung. Những vụ việc này xảy ra rộng gắp trên các ngân hàng
như Techcombank, Vietcombank, BIDV, Incombank, Agribank vv. Những vụ
việc này đã làm rúng động toàn hệ thống tài chính ngân hàng vốn còn nhiều non
trẻ ở nước ta, gây ra hoang mang cho người dân, khiến nền kinh tế trở nên bất ổn
và nguy cơ “bong bóng ngân hàng”, “bóng ma nợ xấu” ngày càng lộ rõ. Có thể

điểm mặt một số vụ việc cộm cán như sau: Với Ngân hàng TMCP Công Thương
xảy ra vụ làm giả chữ ký, con dấu của giám đốc chi nhánh để lừa đảo chiếm đoạt
3.600 tỷ đồng của các nạn nhân là 2 ngân hàng và 33 doanh nghiệp “sân sau” của
ngân hàng; tại NHMTCP Đông Á-CN Quận 5 tp HCM xảy ra vụ làm giả 700 bộ
hồ sơ vay vốn của 430 hộ tiểu thương Hòa Bình để vay 160 tỷ đồng, trong đó số
tiền tiểu thương thực vay chỉ có 5,9 tỷ đồng. Sai phạm đặc biệt nổi cộm tại hệ
thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam với các vụ như
sau: việc sai phạm thua lỗ gần 3.000 tỷ đồng (gần 8.5 lần vốn điều lệ) tại Công
ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam (theo
kết quả kiểm toán nhà nước báo cáo tài chinh năm 2009 của Công ty cho thuê tài
chính 2 (ALC2), hay vụ lập hồ sơ khống của khách hàng để vay vốn tại
Agribank chi nhánh 8, làm giả chứng từ có giá, cổ phiếu vay 60 tỷ đồng tại
Agribank chi nhánh Tân Bình, vụ lập hồ sơ khống xây dựng dự án cụm công
nghiệp sạch tại xã Đông Thạnh thế chấp cho Agribank Chợ Lớn vay 42 tỷ đồng,
và còn nhiều vụ việc nữa mà báo chí chưa đăng tin nhưng công an đang điều tra
và theo thông tin nội bộ chưa được tiết lộ công khai.
8
Đặc biệt trong phiên trả lời chấp vấn đại biểu quốc hội ngày 13/6/2012
vừa qua, Thông đốc NHNN Việt Nam thừa nhận nợ xấu ở nước ta hiện nay đã
lên đến con số 10%, tương đương với số dư nợ khoàng 270.000tỷ đồng; chính
phủ cũng đã chỉ đạo cho NHNN nhanh chóng lập và trình lên chính phủ đề án
thành lập công ty xử lý nợ xấu nhà nước với vốn điều lệ dự kiến lên tới 100.000
tỷ đồng. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng phần lớn do các hành vi tham ô, tham
nhũng và yếu kém trong quản trị nội bộ. Ngoài ra đại diện thanh tra, giám sát
Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ ra, những sai phạm trong hoạt động tín dụng ngân
hàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân như, một số đơn vị ngân hàng vì sức ép lợi
nhuận, sức ép thành tích nên đã nới lỏng tín dụng, bỏ qua một số trình tự, thủ tục,
quy định để cho vay; không chuyển nhóm nợ theo quy chế; cho vay không có tài
sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo không đủ thủ tục….Hơn nữa, tại nhiều ngân
hàng, một số thành viên Hội đồng quản trị đồng thời là những cổ đông lớn đã chi

phối việc cho vay, đầu tư tài chính phù hợp với lợi ích của mình nhưng lại gây
rủi ro cho ngân hàng. Bên cạnh đó công tác quản trị ngân hàng thiếu chuyên
nghiệp, công tác quản lý cán bộ buông lỏng, chưa tận tâm với công việc. Trong
đó phải nhấn mạnh nguyên nhân dẫn đến những sai phạm trong hoạt động ngân
hàng là do đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ, nhân viên ngân hàng
xuống cấp, xuất phát từ công tác tuyển dụng và đào tạo. Công tác quản lý rủi ro
nói chung và quản lý rủi ro tác nghiệp, rủi ro hoạt động nói riêng của các ngân
hàng chưa đảm bảo phòng ngừa các hành vi sai phạm, hệ thống kiểm tra, kiểm
soát nội bộ chưa xứng với quy mô.
Tại ngân hàng lớn nhất Việt Nam - Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT
Việt Nam, tính đến thời điểm 30/9/2011, tỷ lệ nợ xấu đã lên tới con số 6,67% của
tổng dư nợ, đây là cao nhất trong số các ngân hàng thương mại nhà nước. Tuy
nhiên, chưa đầy 2 tháng sau đó, theo công văn số 8408/NHNo-KHTH ngày
17/11/2011 của Ngân hàng Nông nghiệp VN, tính đến 31/10/2011 nợ xấu của
ngân hàng này chiếm 7,26% tổng dư nợ, tăng 3,5% so với cuối năm 2010; cụ thể
nợ xấu lên tới 30.905 tỷ đồng (tăng 15.330 tỷ đồng so với cuối năm 2010) trong
9
tổng dư nợ 468.724 tỷ đồng (tăng 13.117 tỷ đồng (+2,9%) so với cuối năm
2010). Tính đến ngày 12/6/2012 thì tỷ lệ nợ xấu trong toàn hệ thông Ngân hàng
Nông nghiệp và PTNT Việt Nam đã lên tới con số gần 8%, mặc dù toàn hệ thống
đã làm mọi biện pháp nhằm kiềm chế và xử lý nợ xấu kể cả phải cơ cấu lại nợ
theo Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành về việc “Phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả, gia
hạn nợ”, hay nói cách khác là cơ cấu lại nợ, điều chỉnh lại kỳ hạn trả nợ mà
không làm tăng nhóm nợ.
Tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT VN – CN Bắc Sài Gòn, Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012
ngày 05/01/2012 thì tỷ lệ nợ xấu tại chi nhánh là 1.06% tương đương 5.8 tỷ đồng
trong tổng dư nợ 549.7 tỷ đồng. Nợ xấu tuy có giảm 0.8 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ
giảm là 12% so với cuối năm 2010. Tuy nhiên những con số trên đây (của cả

NHNo VN và CN Bắc Sài Gòn) chưa phải là con số thực sự bởi đa phần những
món nợ xấu và nợ có nguy cơ trở thành nợ xấu đã được NHNo VN nói chung và
CN BSG nói riêng đã được xử lý được bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ khác
nhau nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu (đây cũng chính là thực trạng chất lượng nợ tại các
tổ chức tín dụng hiện nay, khi mà tỷ lệ nợ xấu theo đánh giá và báo cáo của các
tổ chức tín dụng luôn luôn thấp hơn nhiều so với đánh giá của các tổ chức quốc
tế: Standard & Poor, Moody vv). Chính bởi vậy mà tại một hội nghị gần đây, ông
Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch hội đồng quản trị của Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam (nhận chức thay cho ông Nguyễn Thế Bình sau khi ông Nguyễn Thế Bình
và ông Phan Thanh Tân lần lượt bị cho thôi chức Chủ tịch HĐQT và TGĐ của
Agribank bởi hàng loạt sai phạm tại các chi nhánh NH này, mà đặc biệt là sai
phạm tại Cty cho thuê tài chính II đã nêu) và điều chuyển về công tác tại VP
Miền Nam NHNN) thừa nhận các tỷ lệ an toàn, chỉ số tài chính của của Agribank
là “chưa thật ổn định”.
Điều này đang dấy lên một hồi chuông cảnh tỉnh về chất lượng tín dụng
và đặt ra vấn đề nóng bỏng trong công tác tăng cường quản lý, nâng cao chất
10
lượng, tính hiệu quả, khắc phục những yếu kém trong công tác tín dụng nhằm
hạn chế những rủi ro tín dụng có thể xảy ra trong tương lai, đánh giá chính xác về
tỷ lệ nợ xấu và chất lượng dư nợ. Trong bối cảnh trên, là một cán bộ hiện
đang làm công tác tín dụng, là thành viên tổ hậu kiểm trong Ngân hàng Nông
nghiệp và PTNT Việt Nam – CN Bắc Sài Gòn (Agribank Bắc Sài Gòn), với sự
động viên, khích
lệ
của anh - chị - em đồng nghiệp và được sự hướng dẫn, chỉ
bảo tận tình của GVHD: TS. Nguyễn Văn Hà, học viên mạnh dạn chọn đề tài
“Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Sài Gòn” làm
đề tài nghiên
cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng tín dụng tại Ngân
hàng NN&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Sài Gòn
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích, đánh giá được thực trạng hoạt động tín dụng và những rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Sài
Gòn; chỉ rõ những mặt làm được và chưa làm được
- Đề xuất được một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Sài Gòn
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Sài Gòn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Do thời gian có hạn, luận văn tập trung đi sâu vào
nghiên cứu rủi ro về quản trị tín dụng, quản lý nợ xấu của Ngân hàng Nông
nghiệp và PTNT VN – CN Bắc Sài Gòn, những yếu tố khác không có điều kiện
để nghiên cứu.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tại Ngân hàng Nông nghiệp
và PTNT Việt Nam – CN Bắc Sài Gòn – Đ/c 101 Hà Huy Giáp, Phường Thạnh
Lộc, Quận 12, Tp HCM
11
- Về thời gian: Các số liệu nghiên cứu đề tài được thu thập từ năm 2009 đến năm
2011
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương
mại.
- Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT VN – CN Bắc
Sài Gòn trong những năm qua

- Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và PTNT VN – CN Bắc Sài Gòn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các học
thuyết kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp.
Thu thập số liệu: các báo cáo, tài liệu của Ngân hàng Nông nghiệp và
PTNT Việt Nam (nói chung), Chi nhánh Bắc Sài Gòn (nói riêng), thông tin trên
báo chí và internet.
6. Kết cấu luận văn tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương,
cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng trong hoạt
động của Ngân hang thương mại.
Chương 2: Đặc điểm hoạt động tín dụng trên địa bàn và Phương pháp
nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về RRTD trong hoạt động của NHTM
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng của ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là giao dịch về tài sản giữa người cho vay và người đi
vay, trong đó người cho vay chuyển giao tài sản cho người đi vay, sử dụng trong
một khoảng thời gian nhất định và bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả nợ cả gốc và
lãi một cách vô điều kiện khi đến hạn thanh toán. Tín dụng ngân hàng không
những là phương tiện để tạo vốn mà còn là phương tiện để tạo tiền góp phần tăng
tổng phương tiện thanh toán toàn xã hội.
Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn

trả giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức và cá nhân trong
xã hội, được thực hiện trên cơ sở ngân hàng huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn phát sinh trong hoạt động kinh doanh và
tiêu dùng.
Tín dụng ngân hàng là sản phẩm đặc thù của ngân hàng thương mại trong
đó hoạt động tín dụng là hoạt động thường mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho
ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường
thông qua việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng nhu cầu về vốn
ngày càng phát triển trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản
xuất, điều hoà vốn trong nền kinh tế do đó tín dụng ngân hàng được xem như là
đòn bẩy trong chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ chữ latinh là Credo, trong tiếng Anh là
Credit (tin tưởng – tín nhiệm). Nhưng trong quan hệ tài chính hoặc cuộc sống,
13
tuỳ theo góc độ nhìn nhận của mỗi người mà tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau.
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ, tín dụng là sự chuyển dịch quỹ cho vay
từ người cho vay sang người đi vay.
Xét trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài
sản trên cơ sở có hoàn trả.
Tín dụng ở nghĩa hẹp được hiểu như một số tiền cho vay mà các định chế
tài chính cung cấp cho khách hàng.
Tuy nhiên, xét ở góc độ tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng
thì tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa
bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể kinh tế khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản
cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên

cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau:
Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức
là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản).
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải dựa trên cơ sở lòng tin và phải tin rằng người đi
vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
Bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay sau khi hết thời hạn
sử dụng thỏa thuận - Thông thường giá trị được hoàn trả lớn hơn giá trị lúc cho
vay - phần lớn hơn này là lợi tức.
Ngân hàng tham gia quan hệ tín dụng với 2 tư cách: Vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.
14
1.1.1.2 Khái niệm rủi ro và rủi ro tín dụng của ngân hàng
Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài
sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra
thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất
định.
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra
khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả
được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ.
Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có
sinh lời của các ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số
lượng và thời hạn. Các ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn
luôn nhận lại được cả gốc và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu
người vay gặp khó khăn tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình
trạng rủi ro không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài
sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các ngân hàng
đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất
cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, mức vốn có thể
mất lại không có giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có phiếu lĩnh lãi cố định do

các doanh nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân hàng để minh chứng
cho mâu thuẫn giữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai trường hợp, nếu
không có rủi ro, nguồn thu nhập của ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất
các khoản cho vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường mất toàn
bộ phần lãi suất và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc
vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản
trong trường hợp người đi vay phá sản.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh
đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro
rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70%
trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch
15
trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có
xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín
dụng vẫn chiếm từ ½ đến 2/3 thu nhập ngân hàng (Peter Rose, Quản trị ngân
hàng thương mại). Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi
nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. P. Volker, cựu chủ tịch
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu ngân hàng không có những
khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro tín dụng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng kinh doanh ngân hàng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng:
Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern
Perpective”, A. Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm
tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các
luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được
thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn.
Theo Timothy W.Koch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro
xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn
gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập

thuần và thị giá vốn có xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh
toán trễ hạn (Bank management, University of South Carolina, The Dryden
Press, 1995, page 107).
Còn theo Henie Van Greuning… Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín
dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc
hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là
thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị
trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối
với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân
hàng (The World Bank).
16
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các
nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:
Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả
nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed
payment) hoặc không thanh toán (non-payment).
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến
thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu
đa dạng trong kinh doanh cá dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo
nàn, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là
duy nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp
sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng
đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì

rủi ro tiềm ẩn càng lớn).
Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể loại trừ hoàn
toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do
chúng gây ra.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả
năng, do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một
khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một
ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu
danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
17
được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù
đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
1.1.2 Phân loại rủi ro tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu
cầu nghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng
thành các loại khác nhau. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín
dụng được phân chia thành các loại sau đây:
* Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh
là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm:
- Rủi ro lựa chọn: rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân hàng
- Rủi ro bảo đảm: rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho
vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…
- Rủi ro nghiệp vụ: rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản vay có vấn đề.
* Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn
chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành:

- Rủi ro nội tại: Xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế.
- Rủi ro tập trung: Rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào
một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định
hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi
ro thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan.
+ Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên
tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác l
18
àm thất thoát vốn vay trong khi n gười vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính
sách.
+ Rủi ro chủ quan do n guyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và
người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ
quan khác.
Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng
Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ
cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử
dụng vốn vay…
1.1.3 Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, nhận biết các đặc
điểm của rủi ro tín dụng rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng
chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi
Rủi ro
giao dịch
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro

danh mục
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
bảo đảm
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
19
khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói
cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên
nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: Đặc điểm này biểu hiện
ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng
do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi
phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát
từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp
phòng ngừa phù hợp.
- Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động
tín dụng của ngân hàng thương mại: Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm
cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và
đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân
hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt
được lợi nhuận tương ứng.
1.1.4 Những căn cứ chủ yếu xác định mức độ rủi ro tín dụng
Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM người ta
thường dùng chỉ tiêu nợ quá hạn (NQH) và kết quả phân loại nợ.

1.1.4.1 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không
được phép và không đủ tiêu chuẩn để được gia hạn nợ.
Dư nợ quá hạn
Hệ số nợ quá hạn = x 100
Tổng dư nợ
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các NHTM thường chia nợ quá hạn thành
các nhóm khác nhau.
20
1.1.4.2 Phân loại nợ
* Phân loại theo Điều 6, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống
đốc NHNN thì TCTD thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm như sau:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm
+ Các khoản nợ trong hạn và TCTD đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ
cả gốc và lãi đúng hạn;
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh gái là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn
còn lại.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 1 theo quy định
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2 theo quy định
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày
+ Các khoản nợ gia hạn tời hạn trả nợ lần đầu
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng thanh toán lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định.

- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ hai
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo quy định
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
21
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
+ Các khoản nợ cơ cấu lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lần thứ hai
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm năm theo quy định.
Bên cạnh đó, quy định này cũng nêu rõ, thời gian thử thách để thăng hạng
nợ (ví dụ từ nhóm 2 lên nhóm 1…) là 6 tháng đối với khoản nợ trung dài hạn và
3 tháng đối với khoản nợ ngắn hạn kể từ ngày khách hàng trả đầy đủ gốc và lãi
của khoản vay bị quá hạn hoặc khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Và toàn
bộ dư nợ của khách hàng tại các TCTD được phân vào cùng một nhóm nợ. Ví
dụ: Khách hàng có hai khoản nợ trở lên tại các TCTD mà có bất cứ một khoản nợ
nào được phân vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ còn lại thì toàn bộ các
khoản nợ còn lại của khách hàng phải được TCTD phân vào nhóm nợ có độ rủi
ro cao nhất đó.
Nợ xấu (hay các tên gọi khác như nợ có vấn đề, nợ khó đòi…) là các
khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 và có các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã đến hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có

khả năng ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi.
+ Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ
gốc và lãi.
+ Thông thường là những khoản nợ đã được gia hạn nợ, hoặc những
khoản nợ quá hạn trên 90 ngày.
Một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu dưới 5% được coi là nằm trong giới
hạn cho phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá tỷ lệ 5% thì tổ chức đó cần phải xem xét,
rà soát lại danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chỉ tiết và thận trọng hơn.
22
1.1.5 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác hoạt động
ngân hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân
gây ra rủi ro tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm
thiệt hại. Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản sau đây:
1.1.5.1 Nguyên nhân khách quan
- Do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn…
- Tình hình an ninh, trong nước, trong khu vực bất ổn.
- Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán
cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái biến động bất thường.
- Môi trường pháp lý không thuận lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô.
1.1.5.2 Nguyên nhân chủ quan
* Về phía khách hàng (KH)
- Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý.
- Sử dụng vốn vay sai mục đích, kém hiệu quả.
- Do kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hóa không tiêu thụ được.
- Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản.
- Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lừa đảo.
- Do mất đoàn kết trong nội bộ Hội đồng quản trị, ban điều hành.
* Về phía ngân hàng (NH)
- Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi

nhuận dẫn đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá
nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó.
- Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin
không đầy đủ dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý.
- Do cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng, thị phần cao
hơn các ngân hàng khác.
23
- Cán bộ tín dụng (CBTD) không tuân thủ chính sách tín dụng, không
chấp hành đúng quy trình cho vay. CBTD yếu kém về trình độ nghiệp vụ; cán bộ
tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh.
- Định giá tài sản không chính xác; không thực hiện đầy đủ các thủ tục
pháp lý cần thiết; hoặc không đảm bảo các nguyên tắc của tài sản đảm bảo là dễ
định giá; dễ chuyển nhượng quyền sở hữu; dễ tiêu thụ.
Tóm lại, các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những
nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ tín
dụng. Những nguyên nhân chủ quan, do các chủ thể có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng tín dụng và ngân hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp
thích hợp.
1.1.6 Hậu quả của rủi ro rín dụng
Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong kinh doanh ngân hàng và đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, thậm chí có thể lan rộng trên phạm vi toàn cầu.
- Đối với ngân hàng bị rủi ro:
Do không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các loại phí) làm cho nguồn vốn
ngân hàng bị thất thoát, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả tiền lãi cho nguồn
vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút, thậm chí nếu trầm trọng hơn thì có
thể bị phá sản.
- Đối với hệ thống ngân hàng:
Hoạt động của một ngân hàng trong một quốc gia có liên quan đến hệ
thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do

vậy nếu một ngân hàng có kết quả hoạt động xấu, thậm chí dẫn đến mất khả năng
thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng xấu các
ngân hàng và các bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của
NHNN và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền
và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các NHTM làm cho các ngân hàng khác vô hình
chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
24
- Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút và
bơm tiền cho nền kinh tế, vì vậy rủi ro tín dụng gây nên sự phá sản một ngân
hàng sẽ làm cho nền kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và
ngưng trệ, mất bình ổn về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội
gia tăng, tình hình an ninh chính trị bất ổn…
- Trong quan hệ kinh tế đối ngoại:
Làm ảnh hưởng đến vị thế và hình ảnh của hệ thống ngân hàng – tài chính
quốc gia cũng như toàn bộ nền kinh tế của quốc gia đó.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các
mức độ khác nhau: Nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự
phòng, không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được
vốn gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn.
Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây
hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói
riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và
có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2. Phương pháp đo lường và hạn chế rủi ro tín dụng
1.2.1 Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng
Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những
hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành:
- Rủi ro nội tại: Xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế.

- Rủi ro tập trung: Rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào
một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định
hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
- Phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, cán bộ lãnh
đạo ngân hàng.
Trong
ngân hàng, nhân viên có suy nghĩ và hành động khác,
25
có thể trái ngược hoặc cản trở nhau. Vì
vậy,
cần phải có quản trị để mọi
người hành động một cách thống
nhất.
- Quản trị đề ra những mục tiêu cụ thể giúp ngân hàng đi đúng hướng.
Phải có
kế
hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề
ra.
1.2.2 Nhiệm vụ của công tác quản trị rủi ro tín dụng
- Hoạch định phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro. Phương
hướng nhằm vào
dự
đoán xác định rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều
kiện nào, nguyên nhân dẫn đến rủi ro, hậu quả
ra

sao,…
Phương hướng tổ chức
phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra những mục tiêu cụ thể
cần

đạt
được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp nhận
được.
- Tham gia xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát
phòng chống rủi ro,
phân
quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa
chọn những công cụ kỹ thuật phòng chống rủi
ro,
xử lý rủi ro và giải quyết
hậu quả do rủi ro gây ra một cách nghiêm
túc.
- Kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện theo đúng kế hoạch
phòng chống rủi ro
đã
hoạch định, phát
hi
ện các rủi ro tiềm ẩn, các sai sót khi
thực hiện
giao
dịch, đánh giá hiệu quả của công tác phòng chống rủi ro trên cơ
sở đó đề nghị các biện pháp điều chỉnh và bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống
quản trị rủi ro
1.2.3 Các mô hình phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để
đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa dạng bao gồm các mô hình định
lượng và mô hình định tính. Các mô hình này không loại trừ lẫn nhau nên các
ngân hàng có thể sử dụng nhiều mô hình để phân tích, đánh giá mức độ rủi ro tín
dụng của khách hàng.
1.2.3.1 Mô hình định tính về rủi ro tín dụng

- Khi có được thông tin về khách hàng vay vốn, CBTD cần phân tích
những vấn đề thiết yếu để có thể ra quyết định cho vay hợp lý như sau:

×