Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 187 trang )

bộ giáo dục và đào tạo bộ tài chính
học viện tài chính



đào phan cẩm tú



HOàN THIệN CƠ CHế PHÂN Bổ, Sử DụNG
TàI CHíNH Để ĐầU TƯ XÂY DựNG CƠ Sở VậT CHấT
GIáO DụC PHổ THÔNG CÔNG LậP ở VIệT NAM

Chuyên ngành: tài chính - ngân hàng
Mã số: 62.34.02.01



Ngời hớng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. Đặng Văn Du
2. TS. Trần Duy Tạo



Hà nội -2014


i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN


Đào Phan Cẩm Tú









ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ vii
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu 1
2. Mục đích nghiên cứu 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 4

6. Kết cấu của luận án 5
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI
CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG CÔNG LẬP 13
1.1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP 13
1.1.1. Giáo dục phổ thông công lập 13
1.1.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập 15
1.2. CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP 19
1.2.1. Tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập 19
1.2.2. Cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giáo
dục phổ thông công lập 23
1.2.3. Các yếu tố tác động đến cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập 40


iii

1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH ĐỂ
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
CÔNG LẬP 44
1.3.1. Cơ chế phân bổ, sử dụng các nguồn tài chính để đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất giáo dục phổ thông công lập ở một số nước 44
Kết luận chương 1 57
Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH ĐỂ
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG
LẬP Ở VIỆT NAM 58
2.1. KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 58
2.2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH ĐỂ ĐẦU

TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG
LẬP Ở VIỆT NAM 64
2.2.1. Thực trạng cơ chế phân bổ 65
2.2.2. Thực trạng cơ chế sử dụng 98
2.3. TỔNG HỢP NHỮNG ĐÁNH GIÁ VỀ CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG
TÀI CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 107
2.3.1. Những thành quả điển hình 107
2.3.2. Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân 109
Kết luận chương 2 113
Chương 3: HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI CHÍNH ĐỂ
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG
LẬP Ở VIỆT NAM 114
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI
CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 114
3.1.1. Định hướng phát triển và dự báo nhu cầu tài chính để đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất giáo dục phổ thông công lập ở Việt Nam 114


iv

3.1.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập ở Việt Nam 117
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG TÀI
CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 121
3.2.1. Hoàn thiện thể chế về phân bổ, sử dụng các nguồn tài chính để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập 121
3.2.2. Cơ cấu lại các khoản tài chính phân bổ để đầu tư cơ sở vật chất giáo dục phổ

thông công lập trên cơ sở xây dựng các tiêu chí xác định các ưu tiên đầu tư 135
3.2.3. Nâng cao năng lực bộ máy làm công tác quản lý tài chính để đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập 138
3.2.4. Tăng cường công khai, minh bạch tài chính gắn với trách nhiệm giải trình 143
3.3. LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 148
3.4. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 150
KẾT LUẬN 152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC viii
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ viii
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ix
PHỤ LỤC xiv




v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH-HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSVC : Cơ sở vật chất
CTMTQG : Chương trình mục tiêu quốc gia
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GDPT : Giáo dục phổ thông
HĐND : Hội đồng nhân dân
KBNN : Kho bạc nhà nước
KH&ĐT : Kế hoạch và Đầu tư
KT-XH : Kinh tế - xã hội
NCS : Nghiên cứu sinh
NSNN : Ngân sách nhà nước

PTCS : Phổ thông cơ sở
PTDT : Phổ thông dân tộc
QLDA : Quản lý dự án
TC-KH : Tài chính - Kế hoạch
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TPCP : Trái phiếu chính phủ
UBND : Ủy ban nhân dân
XDCB : Xây dựng cơ bản





vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1- Cơ cấu các trường phổ thông công lập năm học 2008-2009 đến 2012 - 2013 .61
Bảng 2.2- Trường chuẩn các cấp năm học 2008-2009 đến 2012-2013 63
Bảng 2.3a- Kinh phí thực hiện đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập từ nguồn
vốn CTMTQG GD-ĐT giai đoạn 2008-2010 81
Bảng 2.3b- Kinh phí thực hiện đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập từ nguồn
vốn CTMTQG GD-ĐT giai đoạn 2011-2013 84


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ


1. Hình vẽ:
Hình 1.1- Các yếu tố của CSVC GDPT 15
Hình 1.2- Các thành tố cấu thành quá trình giáo dục 16

2. Sơ đồ:
Sơ đồ 2.1- Các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân 59
Sơ đồ 2.2- Số lượng các trường phổ thông công lập 60
năm học 2008-2009 đến 2012 - 2013 60
Sơ đồ 2.3- Số trường PTDT nội trú năm học 2008-2009 đến 2012-2013 62
Sơ đồ 2.4- Phòng học bán kiên cố và phòng học tạm GDPT công lập 64
năm học 2008-2009 đến 2012-2013 64
Sơ đồ 2.5. Cơ cấu chi NSNN cho GDPT giai đoạn 2008-2012 71
Sơ đồ 2.6- Mô hình phối hợp trong quản lý ODA 95
Sơ đồ 2.7- Tổng hợp các nguồn tài chính chủ yếu để đầu tư xây dựng CSVC GDPT
công lập giai đoạn 2008-2012 107






1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Việt Nam đã xây dựng được một hệ
thống GD&ĐT tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học, trong đó CSVC,
thiết bị GD&ĐT được cải thiện rõ rệt và từng bước được hiện đại hóa. Là cấp học
thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân nên GDPT, với nòng cốt là GDPT công

lập, có nhiệm vụ tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng
lực công dân, do đó có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi cá
nhân và cộng đồng. CSVC là một trong 6 thành tố cơ bản (cùng với mục tiêu, nội
dung, phương pháp, tổ chức, đánh giá) tạo thành chỉnh thể, vận hành trong môi
trường giáo dục của GDPT và môi trường KT-XH của cộng đồng, có ảnh hưởng
không nhỏ trong việc tổ chức các hoạt động giảng dạy và học tập của nhà trường, góp
phần đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục. Chính vì vậy, khoa học
giáo dục của các quốc gia trên thế giới rất quan tâm đến việc phát triển CSVC GDPT.
Để nâng cao chất lượng GDPT công lập, xây dựng và chuẩn hóa nội dung
GDPT công lập theo hướng hiện đại thì cần đầu tư rất lớn về CSVC. Trong điều
kiện đất nước còn nghèo, ngân sách quốc gia hạn hẹp thì yêu cầu tìm kiếm các giải
pháp để phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở
Việt Nam một cách hiệu quả là hết sức cần thiết.
Đề tài: “Hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất giáo dục phổ thông công lập ở Việt Nam” được NCS lựa chọn nghiên
cứu làm luận án tiến sĩ xuất phát từ tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nêu trên,
với mong muốn những kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp vào việc nâng
cao chất lượng GDPT công lập để nó thực sự là nền tảng vững chắc cho một nền
giáo dục quốc dân tiên tiến, hiện đại.
2. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu chính của
đề tài luận án là cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT


2

công lập ở Việt Nam thời gian qua như thế nào, có những ưu điểm, hạn chế gì? Cần
phải có những quan điểm, giải pháp nào để hoàn thiện? Để trả lời câu hỏi đó, đề tài đã
đặt ra các mục đích nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa, phân tích những vấn đề lý luận về GDPT, CSVC GDPT và

cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập.
- Tổng kết kinh nghiệm của một số nước về cơ chế phân bổ, sử dụng tài
chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập; rút ra được một số bài học kinh
nghiệm có giá trị có thể nghiên cứu áp dụng cho Việt Nam.
- Hệ thống hóa, phân tích thực trạng CSVC GDPT công lập; cơ chế phân bổ,
sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam giai đoạn
5 năm gần đây (2008-2012). Trên cơ sở đó, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng nêu trên.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài
chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam phù hợp với những
thay đổi về hoàn cảnh kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ
chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
- Về nội dung: Tài chính đầu tư CSVC GDPT được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Với mỗi nguồn tài chính đầu tư CSVC GDPT lại có cơ chế quản lý riêng
khó có thể gộp để nghiên cứu và phản ánh trong phạm vi một luận án. Do đó, phạm
vi nghiên cứu về tài chính của luận án này chỉ giới hạn về lý luận và thực tiễn của cơ
chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) để đầu tư xây dựng CSVC cho
GDPT công lập ở Việt Nam nhìn từ góc độ của cơ quan tài chính tổng hợp.
Mặt khác, hợp thành CSVC GDPT theo quan niệm của các nhà quản lý giáo
dục hiện nay, bao gồm nhiều yếu tố, như: đất đai, khuôn viên, các công trình xây
dựng, các công trình ngầm, các hệ thống công nghệ - kỹ thuật, .v.v… Song trong


3

phạm vi của luận án này, tác giả cũng chỉ đi sâu nghiên cứu về CSVC là các vật

kiến trúc được hình thành từ kết quả của quá trình đầu tư xây dựng cơ bản. Trong
đó, cũng chủ yếu tập trung vào việc đánh giá kết quả đầu tư xây dựng các phòng
học, phòng bộ môn, nhà công vụ, và nhà ở cho giáo viên.
- Về không gian và thời gian: Trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm
quốc tế để khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế phân bổ, sử dụng NSNN
để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam giai đoạn 5 năm gần đây
(2008-2012); từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng
NSNN để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam phù hợp với những
thay đổi về hoàn cảnh kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu; trong đó lấy phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm
phương pháp luận cơ bản, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể như tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh, qui nạp, diễn dịch để làm sáng
tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Trong số các phương pháp nêu trên, thì phương pháp tổng
hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh và phương pháp quy nạp, diễn dịch là các phương
pháp chủ đạo để giúp tác giả hoàn thành luận án.
Phương pháp tổng hợp, thống kê, được sử dụng để xử lý các số liệu thu thập
được từ nhiều nguồn khác nhau: Các tỉnh, thành phố; Vụ NSNN- Bộ Tài chính, Vụ Kế
hoạch – Tài chính, Bộ GD&ĐT. Ngoài ra, thông tin còn được thu thập trên các phương
tiện thông tin đại chúng như các tạp chí khoa học, sách chuyên khảo, internet
Phương pháp đối chiếu, so sánh: sau khi thu thập số liệu từ các nguồn khác
nhau, tác giả tiến hành đối chiếu, so sánh để chọn được các thông tin có độ tin cậy
phục vụ cho nghiên cứu, đánh giá phù hợp với đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Những phân tích định lượng đã giúp cho việc đánh giá và đưa ra kết luận có
căn cứ khoa học và tin cậy hơn.




4

Phương pháp qui nạp, diễn dịch: dựa trên những số liệu, thông tin thực tế thu
thập được, tác giả tiến hành phân tích thực trạng CSVC GDPT công lập và thực
trạng cơ chế phân bổ, sử dụng NSNN để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập ở
Việt Nam; từ đó rút ra nhận xét về kết quả thực hiện, những hạn chế, nguyên nhân
còn tồn tại. Trên cơ sở những kết luận rút ra từ phương pháp quy nạp, tác giả đưa ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế cơ chế phân bổ, sử dụng NSNN để đầu tư xây
dựng CSVC GDPT công lập ở Việt Nam phù hợp với những thay đổi về hoàn cảnh
KT-XH trong nước và quốc tế đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Các giải pháp chính đưa ra lại được sử dụng phương pháp diễn dịch để phân
tích, diễn giải.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Luận án đã hệ thống hóa và phát triển thêm những vấn
đề lý luận về GDPT công lập, CSVC GDPT công lập và cơ chế phân bổ, sử dụng tài
chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập. Luận án cũng tập trung phân tích
nhằm làm sáng tỏ vị trí của CSVC trong hoạt động GDPT công lập hướng tới mục
tiêu chất lượng cao và toàn diện, đặt trong bối cảnh sự hội nhập giáo dục quốc tế
ngày càng sâu rộng; những kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về cơ chế
phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT công lập và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đã đi sâu phân tích đánh giá thực trạng và kết
quả thực hiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng CSVC GDPT
công lập ở nước ta những năm qua.
Điểm nổi bật về ý nghĩa thực tiễn của luận án về đề tài này chính là ở những
kết quả đích thực về việc chỉ ra được những mặt được, mặt chưa được và nguyên
nhân của những hạn chế trong cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng
CSVC GDPT công lập từ góc độ các văn bản pháp lý và quá trình tổ chức thực hiện
các văn bản này. Đây là những luận cứ quan trọng để tác giả đưa ra các quan điểm

và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng
CSVC GDPT công lập ở nước ta.


5

6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được chia thành 3 chương (141 trang):
Chương 1: Lý luận chung về cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây
dựng CSVC GDPT công lập (45 trang).
Chương 2: Thực trạng cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng
CSVC GDPT công lập ở Việt Nam (56 trang).
Chương 3: Hoàn thiện cơ chế phân bổ, sử dụng tài chính để đầu tư xây dựng
CSVC GDPT công lập ở Việt Nam (40 trang).




6

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta
đã khẳng định vai trò của giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”, và “phải coi đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển”; phát triển CSVC nhà trường – với vai trò là yếu
tố đầu vào quan trọng tác động đến chất lượng dạy học cũng được đặc biệt quan
tâm. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX chủ trương: “… Tăng
cường CSVC và từng bước hiện đại hoá nhà trường như: lớp học, sân chơi, phòng
bộ môn, máy tính nối mạng, Internet, thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại, thư

viện, ký túc xá…”, và khẳng định “… Đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo
khoa, phương pháp dạy học, phải được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi
mới trang thiết bị dạy học…”.
Chính từ những chủ trương này đã gợi mở cho hàng loạt các nghiên cứu về
phát triển giáo dục theo các quy mô và cấp độ khác nhau. Trên giác độ nghiên cứu
và sử dụng tài chính như là một trong các phương tiện góp phần thúc đẩy sự phát
triển của giáo dục đã có các công trình với các quy mô và các phương pháp tiếp cận
và giải quyết vấn đề cũng rất khác nhau; cụ thể là:
Thứ nhất, ở cấp độ luận án Tiến sĩ kinh tế:
NCS Trần Thị Thu Hà đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án
về đề tài: "Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý hệ thống ngân sách, hệ thống giáo
dục quốc dân" (1993) [18].
Luận án đã phân tích và khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa hệ thống ngân
sách nhà nước (NSNN) và hệ thống giáo dục quốc dân. Đặt trong bối cảnh Việt
Nam đã và đang từng bước thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ
chế tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ
mô của Nhà nước, thì hệ thống NSNN cần phải có sự đổi mới cả về cơ cấu tổ chức;
mà đặc biệt là về cơ chế quản lý của hệ thống đó. Mặt khác, cơ chế kinh tế thị
trường mặc dù mới từng bước hiện diện trong nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng đã
làm bộc lộ những bất cập của hệ thống giáo dục quốc dân. Những bất cập của hệ


7

thống giáo dục quốc dân càng lộ diện rõ hơn trong bối cảnh Việt Nam bắt tay vào
việc thực hiện những thí điểm cải cách đầu tiên trong quản lý tài chính công sau khi
thoát ra được giai đoạn lạm phát phi mã. Những lập luận về mối quan hệ giữa đổi
mới cơ chế quản lý hệ thống NSNN với đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân là khá
chặt chẽ và có sức thuyết phục. Thành công đáng kể nữa của luận án là ở hệ thống
các giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý hệ thống NSNN, hệ thống giáo dục quốc

dân phù hợp với lộ trình đổi mới quản lý nền kinh tế nước ta những năm 1993 –
2000 và định hướng cho những năm đầu của thế kỷ XXI.
Tuy nhiên, theo thời gian những biến đổi về hoàn cảnh kinh tế, xã hội đã làm
cho các giải pháp của luận án dần bộc lộ những yếu tố bất ổn; đặc biệt là những đề
xuất về cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân.
Năm 2008 NCS Nguyễn Mạnh Cường đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ
thành công luận án về đề tài: "Phát triển trường trung học phổ thông theo quan
điểm nhà trường hiệu quả” (2008) [14] tại trường Đại học Quản lý giáo dục thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sự thành công của luận án trên là: (i) Phân tích các cơ sở lý luận để tiến tới
kết luận rằng: phát triển các trường trung học phổ thông là nhu cầu cần thiết khách
quan trong bối cảnh kinh tế - xã hội những năm 2001- 2010; (ii) phân tích đánh giá
được thực trạng hoạt động của các trường trung học phổ thông ở nước ta những
năm 2001- 2005 và chỉ ra được những bất cập trong quản lý và tổ chức hoạt động
của các trường này so với mục tiêu nghiên cứu mà tác giả của bản luận án đang theo
đuổi; (iii) đề xuất được các giải pháp khá phù hợp nhằm gắn kết các nguồn lực hiện
có trong các trường trung học phổ thông để thúc đẩy hoạt động của chính các
trường này hướng tới các mục tiêu mà luận án đã đề ra.
Điểm hạn chế của bản luận án này bộc lộ là: hầu như không biết khai thác
thế mạnh của nguồn lực tài chính trong việc thu hút và thúc đẩy sử dụng có hiệu quả
hai nguồn lực (nhân lực, vật lực) trong mỗi loại trường đó. Chính vì vậy, tính khiên
cưỡng của các giải pháp đã dần bị bộc lộ. Người đọc vẫn thấy bóng dáng của cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp chi phối khá nhiều trong mỗi nội dung của các


8

giải pháp. Những đòn bẩy lợi ích có liên quan đến các chủ thể tham gia vào hoạt
động của mỗi loại trường này hầu như chưa thấy xuất hiện nên động lực để làm nên
sự cải biến mạnh mẽ cho mỗi nhà trường thuộc bậc học này so với mục tiêu mà luận

án theo đuổi chưa được khơi dậy. Vì vậy, sự ì ạch trong cải biến nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của các trường trung học phổ thông ở nước ta cho đến tận
những năm 2013 này vẫn đang còn là thách thức đối với mỗi trường và đối với toàn
ngành giáo dục Việt Nam.
NCS Bùi Tiến Hanh đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án về đề
tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam” (2007) [19].
Luận án đã luận giải và khẳng định sự cần thiết khách quan phải thực hiện xã
hội hóa giáo dục ở nước ta trong tiến trình tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Và để thực hiện xã hội hóa giáo dục thành công, thì một trong những đầu vào rất
quan trọng cần phải quan tâm hoàn thiện là cơ chế quản lý tài chính. Những vấn đề
lý luận về cơ chế quản lý tài chính đối với xã hội hóa giáo dục ở nước ta cũng đã
được tác giả của bản luận án này luận giải một cách khá đầy đủ và chặt chẽ. Từ các
vấn đề lý luận đã nêu, luận án đã đi sâu phân tích đánh giá thực trạng cơ chế quản lý
tài chính đối với xã hội hóa giáo dục ở nước ta những năm trước 2006 và chỉ rõ
những điểm mạnh, điểm yếu của chính cơ chế này. Trên cơ sở thực trạng và gắn kết
với những yêu cầu, những quan điểm đổi mới cơ chế quản lý tài chính xã hội hóa
giáo dục những năm tiếp theo kể từ năm 2007, luận án đã đề xuất một hệ thống các
giải pháp có tính khả thi cho việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính xã hội
hóa giáo dục Việt Nam giai đoạn 2007- 2010 và định hướng đến 2015.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng, gắn với các biến số kinh tế vĩ mô đã
có nhiều biến động đột ngột không chỉ ở nước ta, mà còn diễn ra trên phạm vi toàn
thế giới nên ở những khía cạnh nhất định của từng giải pháp cũng rất cần phải có
những nghiên cứu điều chỉnh lại.
Tham gia nghiên cứu về tài chính đối với sự phát triển của giáo dục, nhưng
chỉ giới hạn ở cấp giáo dục đại học lại thấy xuất hiện số lượng luận án tiến sĩ nhiều
hơn; cụ thể:


9


NCS Trần Xuân Hải đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án
về đề tài: "Giải pháp tạo vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong giai đoạn
hiện nay ở Việt Nam" (2001) [20], tại Hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ cấp Nhà nước
tổ chức tại Đại học Tài chính kế toán Hà Nội (nay là Học viện Tài chính) năm 2001.
NCS Nguyễn Thị Kim Dung đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công
luận án về đề tài: “Thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư cho GD đại học nhằm phát
triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010”(2002) [16], tại Hội đồng bảo vệ
luận án tiến sĩ cấp Nhà nước tổ chức tại Đại học Kinh tế quốc dân năm 2002.
NCS Đặng Văn Du đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án về
đề tài: "Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho đào tạo đại học"
(2004) [15], tại Hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ cấp Nhà nước tổ chức tại Học viện
Tài chính năm 2004.
NCS Trần Đức Cân đã thực hiện nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án về
đề tài: "Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học công lập ở Việt
Nam"(2012) [13], tại Hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ cấp Trường tổ chức tại Đại
học Kinh tế quốc dân năm 2012.
Khảo lược qua các luận án trên cho thấy: Mặc dù mỗi luận án có phạm vi và
đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau; nhưng điểm chung nhất của cả 05 luận án
đó chính là bàn về các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của giáo dục
đại học – cấp học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta, từ năm 2001
đến nay. Một điểm chung nổi trội nữa là hầu như các tác giả của 05 bản luận án bàn
về quản lý tài chính ở cấp giáo dục đại học đều là các giảng viên của các trường đại
học công lập. Nên vấn đề mà họ chọn nghiên cứu nhằm giải quyết những bức xúc
trong sử dụng tài chính như là một trong những công cụ để thúc đẩy sự phát triển
của hệ thống giáo dục đại học công lập hướng tới những giá trị đích thực được xã
hội thừa nhận không chỉ trong nước mà còn phải hướng tới các chuẩn được thừa
nhận rộng rãi trong giáo dục đại học mang tầm quốc tế. Điều đó cũng thật dễ hiểu
bởi thị trường giáo dục đại học ở nước ta thời gian qua đã phát triển "quá nóng"-
đặc biệt là về số lượng các trường, và "phong trào đại chúng hóa giáo dục đại học"



10

đã dẫn đến sự lệch chuẩn chất lượng của bậc học này quá nhanh và quá xa. Cũng
trong bối cảnh đó, chúng ta đã dần dần nhận ra không thể đồng nhất dịch vụ giáo
dục ở tất cả các cấp học đều gọi chung là hàng hóa công cộng như nhau. Thay vào
đó, dịch vụ giáo dục cần phải phân ra ít nhất làm 2 loại (hàng hóa công cộng và
hàng hóa khuyến dụng); trong đó: Dịch vụ giáo dục ở những cấp, bậc học mà Nhà
nước là người có trách nhiệm cung ứng và không thu phí do yêu cầu phổ cập, thì
xếp vào hàng hóa công cộng; còn lại thì nên xếp vào hàng hóa khuyến dụng và
người tiêu dùng phải có nghĩa vụ chi trả khi sử dụng dịch vụ. Và cũng theo đó chủ
trương xã hội hóa trong giáo dục- xét trên giác độ huy động và sử dụng các nguồn
tài chính, mới có điều kiện triển khai và thực hiện. Với những lập luận như trên, hầu
hết các luận án đều ủng hộ cho việc triển khai "áp giá dịch vụ" đối với cấp giáo dục
đại học; bởi nó vừa là con đường tạo nguồn tài chính quan trọng cho các cơ sở giáo
dục đại học, vừa buộc người tiêu dùng phải quan tâm đến góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo- phải học vì đã phải đóng tiền nhiều. Nhìn trên giác độ kinh tế việc áp
giá dịch vụ cho giáo dục đại học mang lại hiệu quả rất tốt. Nhưng trên thực thế
chúng ta đang vấp phải trở lực đòi công bằng theo kiểu thời bao cấp. Nên các đề
xuất giải pháp hoặc các khuyến nghị của các luận án trên cũng không dễ dàng phát
huy tác dụng.
Thứ hai, từ các nguồn tư liệu khác
Những nghiên cứu tuy không dài nhưng có chiều sâu về vấn đề quản lý tài
chính đối với giáo dục lại được thể hiện dưới hình thức là các bài viết, chuyên đề
tham gia các cuộc hội thảo cấp quốc gia, cấp ngành. Trong số đó phải kể đến các
bài của các Giáo sư, các nhà khoa học, hay các nhà quản lý có uy tín, như:
GS.,TS Nguyễn Đình Hương – nguyên ủy viên Ủy ban Kinh tế và Ngân sách
của Quốc hội, với bài: “Một số vấn đề liên quan đến ngân sách trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo qua hoạt động giám sát của Quốc hội”, trong Kỷ yếu hội thảo đổi
mới Giáo dục, Hà Nội 2006. Dưới giác độ của người được quyền giám sát và đưa ra

các nhận xét về quản lý ngân sách trong giáo dục và đào tạo, tác giả đã chỉ ra những
bất cập điển hình, như: Kết quả đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục vẫn còn bất ổn
“…Nhưng nhìn chung, tốc độ xây dựng trường học vẫn còn nhiều vướng mắc trong


11

tất cả các khâu, từ giải phóng mặt bằng, thiết kế, thi công, phương thức đấu thầu,
đến mua sắm thiết bị…”. Hay những khiếm khuyết trong quản lý các chương trình
mục tiêu cho giáo dục cũng vẫn có nhiều bất ổn “…Việc tổ chức thực hiện quản lý
vốn đầu tư có nơi, có lúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao…”. Cuối cùng, tác giả
đưa ra 07 đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý ngân sách cho giáo dục xuyên
suốt từ khâu lập dự toán đến thực chấp hành dự toán, và phê chuẩn quyết toán chi
ngân sách cho giáo dục, ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cần phải được thực
hiện thường xuyên hơn, toàn diện hơn ở tất cả các vị đại biểu của chính cơ quan này.
Nguyễn Tiến Hùng- Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục, với bài: “Phân cấp
quản lý giáo dục Việt Nam: Hiện trạng và khuyến nghị” đăng trên Tạp chí Phát triển
giáo dục, số 8(56) 2003 đã phân tích khá thấu đáo và chỉ ra những bất cập của phân
cấp quản lý giáo dục ở địa phương nước ta những năm đầu thế kỷ XXI. Trên cơ sở
đó, tác giả đã đề xuất 05 khuyến nghị về phân cấp quản lý giáo dục ở địa phương rất
cụ thể, như: những việc do UBND tỉnh quyết định; những việc do UBND tỉnh quyết
định sau khi có ý kiến của Bộ GD&ĐT; những việc do UBND tỉnh ủy quyền cho
Giám đốc Sở GD&ĐT quyết định; .v.v…
Trên các báo điện tử thời gian gần đây – khi chuẩn bị cho ngày khai trường
năm học mới, thường xuất hiện những bài viết ngắn về kết quả đầu tư cơ sở vật chất
trong các trường học.
Quang Cường – Thông tấn xã Việt Nam với bài: “Tuyên Quang đầu tư cơ sở
vật chất cho năm học mới”, Vietnam Plus - 23/08/2013 10:14.
Hay bài: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” phản ánh kết quả
đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục trên địa bàn quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh

tính đến trước ngày khai giảng năm học mới với nhiều thành quả đáng kể. Ví như:
“Đến nay trong toàn quận đã có 17 trường Tiểu học công lập, 1 trường Tiểu học
cho trẻ khuyết tật, 9 trường Trung học cơ sở, 3 trường Trung học phổ thông rất
khang trang, trong đó có 5 trường đạt chuẩn Quốc gia.”
Những loạt bài kiểu này chỉ là các phóng sự ngắn có tác dụng chuyển thông
tin nhanh phục vụ cho tuyên truyền vận động xã hội hướng tới đầu tư cho giáo dục
nhiều hơn cả về cơ sở vật chất và các nguồn lực khác.


12

Tóm lại: Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu dưới các hình thức khác
nhau, hay những bản tin sốt dẻo phục vụ cho công tác tuyên truyền cho sự phát triển
giáo dục, cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội tới phát
triển giáo dục ngày càng sâu rộng. Mặc dù vậy, cũng chưa thấy xuất hiện những
công trình, hay sản phẩm nào có mục tiêu và hướng đi trùng hợp với mục tiêu và
hướng đi của đề tài luận án mà tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu.


13

Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ PHÂN BỔ, SỬ DỤNG
TÀI CHÍNH ĐỂ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP

1.1. GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP
1.1.1. Giáo dục phổ thông công lập
Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nước trên thế giới có những quan điểm

và mô hình giáo dục khác nhau. Tuy nhiên, giữa chúng lại có những điểm tương tự
nhau về hệ thống giáo dục. Thông thường, hệ thống giáo dục ở các quốc gia bao
gồm: giáo dục mầm non (hay còn gọi là giáo dục tiền học đường); GDPT; giáo dục
dạy nghề và giáo dục đại học…
Giáo dục mầm non là giáo dục giành cho trẻ từ lọt lòng đến 5 tuổi. Đây là
cấp học mở đầu cho quá trình phát triển của mỗi con người với nhiệm vụ chủ yếu
mang tính dẫn dắt giúp trẻ có được những kiến thức ban đầu để có thể làm quen,
thích nghi dần với cuộc sống và phát triển tiếp theo.
GDPT giành cho lứa tuổi từ 6 đến 18 tuổi. Cấp học này là nền tảng cơ bản
của hệ thống giáo dục quốc dân, cung cấp những kiến thức phổ thông, cơ bản ban
đầu giúp tuổi trẻ có thể tiếp tục học nghề hoặc học lên và cũng có thể đi vào cuộc
sống tự nuôi sống mình và cống hiến cho xã hội.
Giáo dục dạy nghề và giáo dục đại học là giáo dục chuyên sâu và nâng cao.
Cấp học này tiếp tục trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng chuyên
biệt giúp người học trưởng thành một cách toàn diện, có thể chủ động đi vào cuộc
sống theo nhiều hướng phát triển phong phú, đa dạng để cống hiến cho xã hội…
Các cấp học trong hệ thống giáo dục là một chỉnh thể thống nhất, có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một dòng chảy liên tục có chủ đích cho quá trình
phát triển của mỗi con người.


14

GDPT thường được được cấu thành bởi ba bậc học: tiểu học, THCS, và
THPT, trong đó: bậc tiểu học có thời gian thực hiện giáo dục là 05 năm cho trẻ em
đủ 06 tuổi; bậc THCS nối tiếp theo bậc tiểu học có thời gian thực hiện giáo dục là
04 năm cho học sinh có độ tuổi là 11 tuổi; bậc THPT là bậc học cuối của GDPT và
kéo dài 03 năm từ lớp 10 đến lớp 12 cho học sinh ở độ tuổi 15 sau khi đã hoàn
thành chương trình giáo dục THCS.
Tùy theo cách phân loại khác nhau mà cơ sở GDPT được phân chia thành

các bậc học và loại hình khác nhau. Nếu phân loại theo bậc học gồm có: trường tiểu
học, trường THCS và trường THPT hoặc trường phổ thông có nhiều cấp học. Nếu
phân loại theo hình thức sở hữu gồm có: trường công lập (do Nhà nước thành lập,
đầu tư xây dựng CSVC, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên) và
trường ngoài công lập (do cộng đồng dân cư hoặc do các tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng CSVC
và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài NSNN).
Tuy nhiên, do là cấp học mang tính nền tảng, cung cấp cho người học khả
năng suy luận và kỹ năng cơ bản về đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội, về nhiệm vụ
và quyền công dân, về mức văn hoá tối thiểu nhằm bảo đảm một xã hội ổn định, nhân
bản và dân chủ nên nhiều nhà nước đòi hỏi mọi công dân phải được giáo dục ở cấp
tối thiểu là tiểu học hoặc trung học và nhà nước có nhiệm vụ chi trả cho giáo dục cơ
bản này. Vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm, thành lập và đầu tư
phát triển hệ thống GDPT công lập.
Mặt khác, xét dưới góc độ kinh tế học thì GDPT là một hàng hóa công cộng
đặc biệt theo nghĩa nó là phương tiện để nhằm tăng sản xuất ra của cải trong tương
lai, mà như vậy, nó là hàng tích lũy lâu dài; nó có thể “tồn kho” vào tri thức cá nhân,
trở thành vốn tri thức. Sản phẩm giáo dục như vậy không chỉ mang lại lợi cho cá nhân
mà còn cho cả xã hội; tức là lợi ích xã hội do giáo dục tạo ra luôn luôn lớn hơn lợi ích
cá nhân (ảnh hưởng ngoại biên thuận), cho nên nó mang đến lợi ích không chỉ cho
người/gia đình trả chi phí mà cho cả xã hội nói chung. Vì vậy, nếu để cho thuận mua
vừa bán trên thị trường, tức là người mua phải trả chi phí bằng với chi phí xã hội, mà


15

lợi ích cá nhân lại ít hơn thì có nhiều người sẽ không mua chúng, sẵn sàng để con em
họ thất học, hoặc họ mua ít hơn mức cần thiết đối với xã hội. Do là hàng hoá mà xã
hội cần nên hầu hết các quốc gia đòi hỏi bắt buộc mọi công dân phải đạt trình độ tối
thiểu và Nhà nước có trách nhiệm đầu tư là chủ yếu. Đây cũng là lý do mà hệ thống

GDPT công lập là phổ biến ở các nước trên thế giới.
1.1.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất giáo dục phổ thông công lập
1.1.2.1. Cơ sở vật chất của giáo dục phổ thông
CSVC là khái niệm thuộc phạm trù kinh tế - chính trị học. Theo quan niệm
này, người ta cho rằng: “CSVC tổng thể là những tư liệu sản xuất, mà trước hết là
công cụ lao động, những phương tiện kỹ thuật và công nghệ sản xuất, dựa vào đó
mà xã hội sản xuất ra của cải vật chất”.
Đối với GDPT thì CSVC là những hệ thống các phương tiện vật chất và kỹ
thuật khác nhau được sử dụng để phục vụ việc giáo dục và đào tạo toàn diện học
sinh trong nhà trường, nó bao gồm các yếu tố như: khuôn viên đất đai, nhà cửa, hệ
thống công nghệ, kỹ thuật, những đồ vật và cảnh quan xung quanh nhà trường [40].
Mối quan hệ giữa các yếu tố được trình bày theo hình 1.1 dưới đây.










Hình 1.1- Các yếu tố của CSVC GDPT
Nguồn: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Hệ thống đất đai, khuôn viên, các công trình xây dựng và công trình ngầm
bao gồm toàn bộ các công trình xây dựng như các phòng học, phòng thí nghiệm,

CSVC GDPT
Hệ thống đất đai, khuôn
viên; các công trình xây

dựng và công trình ngầm
Các hệ thống công nghệ, kỹ
thuật; Các thiết bị phục vụ
cơ bản khác


16

phòng bộ môn, xưởng trường, các phòng làm việc khác, sân vận động, nhà thể thao,
nhà bếp, nhà ăn, bể nước… và công trình ngầm trên khuôn viên đó như đường đi,
cống rãnh, hệ thống thải khác…
Các hệ thống công nghệ và kết cấu kỹ thuật: Gắn liền với công trình xây dựng
và các hoạt động nền tảng của trường như: hệ thống mạng truyền thông và thông tin, hệ
thống điện, hệ thống cấp và thoát nước, các máy móc và thiết bị khác như điện thoại,
máy tính, máy điều hoà nhiệt độ, lò sưởi, các trang thiết bị thể thao, y tế, phòng cháy,
phòng độc, an toàn lao động, hệ thống ga, hệ thống chiếu sáng, bàn ghế, và các thiết bị
sinh hoạt, …
Để tìm hiểu về vai trò của CSVC đối với GDPT, chúng ta có thể xem xét mối
quan hệ giữa các thành tố không thể tách rời nhau của quá trình giáo dục, như: mục
tiêu, nội dung, phương pháp, giáo viên, học sinh và phương tiện (hay còn gọi là
CSVC). Mối quan hệ giữa các thành tố này của hoạt động giáo dục được phản ánh qua
hình 1.2.











Hình 1.2- Các thành tố cấu thành quá trình giáo dục
Nguồn: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
Theo hình 1.2, các cặp thành tố tương ứng đều có mối quan hệ tương hỗ hai
chiều, trong đó CSVC có vai trò và vị trí như các thành tố khác và là một bộ phận, một
thành tố không thể thiếu được trong quá trình giáo dục và dạy học.

Mục tiêu
Giáo viên
Học sinh
Nội dung
Phương pháp

CSVC


17

Các nhà kinh tế giáo dục học đã chứng minh hiệu quả của việc giáo dục và
đào tạo phụ thuộc một phần vào trình độ CSVC. Hai nhân tố hết sức quan trọng tác
động mạnh mẽ đến hiệu quả của giáo dục và đào tạo là trình độ, năng lực của giáo
viên và mức độ CSVC của nhà trường. Họ đã lập ra một hàm Cobb- Douglass [48]
như sau:
Y = f (L.K)
Trong đó: Y là hiệu quả của giáo dục và đào tạo;
L là trình độ và năng lực của giáo viên;
K là mức độ CSVC của nhà trường.

Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định CSVC là một trong những

thành phần quan trọng và có tính quyết định trong việc tổ chức các hoạt động
giảng dạy và học tập của nhà trường có chất lượng và hiệu quả nhằm thực hiện
mục tiêu GDPT.
1.1.2.2. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất công lập
Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để
mong nhận được kết quả lớn hơn trong tương lai [21]. Kết quả mang lại đó có thể là
hiệu quả KT-XH. Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn
với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân của một nước, hoặc một
vùng, một tỉnh, thành phố, Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài
sản giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì những tiềm
lực sẵn có, hoặc tạo thêm tiềm lực mới để mở rộng qui mô hoạt động của các ngành
sản xuất, dịch vụ, kinh tế, xã hội nhằm tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần cho mọi thành viên trong xã hội.
Như trên đã trình bày, CSVC GDPT gồm nhiều yếu tố cấu thành. Tuy nhiên,
trong phạm vi luận án này chỉ giới hạn nghiên cứu về các công trình xây dựng trong
trường phổ thông.
Ngày nay, nhà trường không chỉ cần có mặt bằng diện tích không gian để tổ
chức các hoạt động giảng dạy và học tập mà còn cần có các công trình phù hợp với

×