Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.77 KB, 67 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
PHẦN MỞ ĐẦU
A.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế. Theo thống kê, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm gần 96% trong tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp gần 40%
GDP và thu hút một lượng lớn lao động, tạo 12 triệu việc làm cho toàn xã hội.
Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cũn góp phần quan trọng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và khai thác những tiềm năng thế mạnh trong nhõn dõn.
Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không thể
phát triển nếu không tham gia hội nhập quốc tế. Đứng trước tình hình đó, nền
kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối với các doanh
nghiệp nhỏ, ngoài những cơ hội cũn rất nhiều những thách thức, do quy mô
vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị phá sản trước các
doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước ngoài. Chớnh vì vậy
em đã lựa chọn đề tài “ nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
B.Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần nõng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ
C. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu : Những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A


1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
I.Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.Khái niệm :
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên thị trường quốc tế
về những gì cấu thành nên một doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các khái
niệm và sự phân loại thay đổi từ nước này sang nước khác. Quy mô của
doanh nghiệp thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu bao gồm quy mô của
tài sản, số người lao động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại hình tài chợ, lĩnh vực
doanh nghiệp hoạt động. Đối với Việt Nam theo nghị định số 90/2001/ND-
CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN được định nghĩa như sau: DNVVN là cơ sở
sản xuất, kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người. Đối với một số
lĩnh vực có quy định cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu thức vốn và lao động
Quy mô doanh nghiệp Vốn tối đa (đồng) Số người lao động tối đa
Lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
500
100
Lĩnh vực sản xuất nông
lâm nghiệp và hải sản
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ

1 tỷ
1000
200
Lĩnh vực thương mại và
dịch vụ
Trong đó DN nhỏ:
5 tỷ
500 triệu
250
50
Nguồn: Những nội dung cơ bản về quản trị DNVVN (năm 2005)
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp phụ thuộc vào số người
lao động hoặc số vốn kinh doanh. Tuy nhiên cũn cỏch phân loại khác được sử
dụng trong các tài liệu phát triển đó là theo lĩnh vực chính quy và phi chính
quy. Theo hướng này thì “phi chính quy” ám chỉ các doanh nghiệp nhỏ, một
thành viên, thường làm việc bán thời gian hay theo thời vụ mà thông thường
chúng không có tài sản cố định và có thể hoạt động tại gia đình. Thêm vào đó
các doanh nghiệp thường hoạt động dưới dạng không đăng ký chính thức và
ngoài vòng kiểm soát của Chính phủ về mặt thuế và quản lý. Thuật ngữ doanh
nghiệp nhỏ thường được sử dụng để nói đến thu nhập nhỏ phát sinh từ các
hoạt động thuộc loại này. Khu vực doanh nghiệp “chớnh quy” thường được
sử dụng để kể đến các loại hình và quy mô doanh nghiệp sử dụng một số
lượng lao động lớn hơn, không điều hành hoạt động từ gia đình. Loại doanh
nghiệp này phải chịu chi phối bởi pháp luật và có khả năng tiếp cận dễ dàng
đến các thể chế tài chính và dự án phát triển. Khái niệm thường được sử dụng

cho doanh nghiệp chính quy là: “DNVVN là đơn vị tổ chức kinh doanh có tư
cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung
ứng, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường để tối đa hoá lợi ích của
người tiêu dùng, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận của chủ sở hữu tài sản
của doanh nghiệp”.
2. Đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Hình thức sở hữu: Có đủ các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập thể, tư
nhân và hỗn hợp.
- Về hình thức pháp lý: Các DNVVN được hình thành theo Luật doanh
nghiệp và những văn bản dưới luật. Đây là những những công cụ pháp lý xác
định tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi của các doanh
nghiệp nói chung trong đó có DNVVN, đồng thời xác định rõ vai trò của Nhà
nước đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
- Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: DNVVN chủ yếu phát triển ở ngành
dịch vụ, thương mại (buôn bán). Lĩnh vực sản xuất chế biến và giao thông cũn
ớt (tập trung ở ba ngành: Xây dựng, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thương
mại dịch vụ), địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ và đô thị.
- Công nghệ và thị trường: Các DNVVN chủ yếu có năng lực tài chính
rất thấp, có công nghệ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ công.
Sản phẩm của các DNVVN chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất lượng
sản phẩm kém; mẫu mã bao bì còn đơn giản, sức cạnh tranh yếu. Tuy nhiên
có một số DNVVN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông lâm, hải sản có
sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
- Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp và
yếu. Hầu hết các DNVVN hoạt động độc lập, việc liên doanh, liên kết còn hạn

chế và gặp nhiều khó khăn.
3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Mặc dù có những yếu kém và bất lợi nhất định nhưng do đặc điểm, tính
chất của chúng nờn cỏc DNVVN có vị trí, vai trò và tác động kinh tế xã hội
rất lớn.
Thứ nhất, các DNVVN có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số
về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và ngày
càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, số lượng DNVVN chiếm khoảng
90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNVVN lớn
hơn tốc độ ra tăng số lượng các doanh nghiệp lớn. Ở nước ta hiện nay
DNVVN chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp Nhà nước và chiếm
33,6% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân
của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP mỗi
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu và quản lý trung ương,
DNVVN đóng góp 24- 25% GDP của cả nước, 31% giá trị sản xuất công
nghiệp; chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64% khối lượng
vận chuyển hành khách và hàng hoá. Trong nhiều ngành sản xuất và dịch vụ
khỏc cỏc DNVVN cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Thứ ba, tác động kinh tế- xã hội lớn nhất của DNVVN là giải quyết một
số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động,
góp phần xoỏ đúi giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm và thu
nhập cho người lao động, thì khu vực này vươn xa hơn hẳn các khu vực khác,
góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Ở hầu hết các nước,

DNVVN lại thu hút nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao
hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, cũng theo đánh giá của viện
nghiên cứu và quản lý trung ương, số lượng lao động của các DNVVN trong
các lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm khoảng 79,2%
tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động
của cả nước.
Thứ tư, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế
thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong
kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp
với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân. Hầu
hết các DNVVN dựa vào vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít với 7%
DNVVN có vay không trả lãi và trên 2% vay từ ngân hàng. Do tính chất nhỏ
lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách, yêu cầu vốn ban đầu không nhiều
cho nên các DNVVN có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn
vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh
doanh.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Thứ sáu, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển địch cơ cấu kinh tế, đặc
biệt với khu vực nụng thụn.Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu
hút người lao động ở nông thôn thiếu hoặc chưa có việc làm vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh, rút dần lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang
làm công nghiệp và dịch vụ.
Thứ bẩy, các DNVVN là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi
đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp, giúp họ làm quen với môi trường
kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản

lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà kinh doanh sẽ trưởng thành, có
kinh nghiệm quản lý, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển.
II. Cạnh tranh trong giai đoạn hiện nay
1.Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1 Khái niệm cạnh tranh :
Khái niệm về cạnh tranh đã được đề cập đến từ rất lâu, theo các học
giả trường phái tư sản cổ điển: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các
hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường
một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mỡnh”.
Qua thời gian và không gian các quan niệm về cạnh tranh cuóng khác
nhau. Theo từ điển kinh doanh Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh được
xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường
nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại
khách hàng về phía mỡnh”.
Ở Việt Nam, đề cập đến “cạnh tranh ” một số nhà khoa học cho rằng
cạnh tranh là vấn đề dành lợi thế về giá cả hàng hoá- dịch vụ và đó là phương
thức để dành lợi nhuận cao nhất cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi là dành
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
lợi thế để hạ thấp các yếu tố “đầu vào” của chu trình sản xuất kinh doanh và
nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy, trên quy
mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách
tối ưu và do đó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Mặt khác, đồng thời với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh
tranh cũng là quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các
doanh nghiệp. Và từ đó cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho

các chủ thể kinh doanh thích nghi được với điều kiện thị trường.
1.2.Phân loại cạnh tranh
Có nhiều tiêu thức phân loại cạnh tranh, tuy nhiên, một số cách phân
loại cơ bản đó là:
- Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia thành hai loại:
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hoá, dịch vụ. Trong đó, các
doanh nghiệp yếu kém phải thu nhỏ hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá
sản, các doanh nghiệp mạnh sẽ chiếm ưu thế. Cạnh tranh trong nội bộ ngành
là cuộc cạnh tranh tất yếu xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi
nhuận của doanh nghiệp.
+ Cạnh tranh giữa các ngành: Là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm
mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng
di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn
và tất yếu sẽ dẫn tới sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Xét theo mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường
mà ở đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
cách, chủng loại, mẫu mã. Giá cả sản phẩm là do cung- cầu trên thị trường
quyết định. Các doanh nghiệp được tự do ra nhập, rút lui khỏi thị trường. Do
đó, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh
doanh muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí
đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng.

+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là
loại thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này
kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa
những loại hàng hoá, dịch vụ này ở nhãn hiệu. Có những loại hàng hoá, dịch
vụ chất lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào
uy tín, nhãn hiệu sản phẩm. Các hình thức của cạnh tranh không hoàn hảo đó
là độc quyền, độc quyền tập đoàn, cạnh tranh mang tính độc quyền.
2. Sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh
2.1 Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Sức cạnh tranh: Nhìn chung khi xác định sức cạnh tranh của doanh
nghiệp phải xem xét đến năng lực và tiềm năng sản xuất, kinh doanh. Một
doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh khi các sản phẩm thay thế hoặc
các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn sản phẩm cùng loại;
hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch
vụ ngang bằng hoặc cao hơn. Theo diễn đàm cao cấp về cạnh tranh công
nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “ Cạnh
tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc
tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ”. Khái
niệm này được coi là phù hợp nhất vỡ nó được sử dụng kết hợp cho cả doanh
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
nghiệp, ngành, quốc gia, phản ánh được mối liên hệ giữa cạnh tranh quốc gia
với cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống
nhân dân.
Năng lực cạnh tranh là khả năng dành được thị phần lớn trước các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng dành lại một phần hay toàn

bộ thị phần của đồng nghiệp (theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB
từ điển Bách khoa Hà Nội, trang 349).
2.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng
lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, của sản phẩm hàng hoỏ. Chỳng cú mối tương quan mật thiết với nhau,
phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp.
Vì vậy trước khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, em xin
được đề cập sơ lược đến năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm.
Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “ năng cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khỏc”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây
dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Ở Việt Nam
năng lực cạnh tranh cấp quốc gia còn thấp đứng thứ 65 trên 80 nước (năm
2002), tăng 5 bậc so với năm 2001 (là 60/75 nước).
2.2.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá

Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu
dỏng, tớnh độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bỡ… hơn hẳn so với
những sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. đó là hai phạm trù khác nhau
nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có
được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá
quyết định mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng
lực cạnh tranh của hàng hoá có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
3. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và của bản thân mỗi DNVVN nói riêng. Bất kỳ một nền
kinh tế nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ lợi ích xã
hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền,
tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản phẩm có chất
lượng tốt, giá cả rẻ. Chính vì vậy cạnh tranh là để bảo vệ lợi ích của người
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
tiêu dùng. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều kiện thuõn lợi
để mỗi doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mỡnh trờn thị trường, tự hoàn
thiện bản thân để vươn lên dành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác.

Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những
sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà thị trường cần để đáp ứng nhu cầu ngày càng
đa dạng và phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là cuộc chạy đua
không có đích, là quá trình mà các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế
đích thực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thương trường và tăng lợi nhuận
trên cơ sở tạo ra ưu thế về sản phẩm và giá bán thì phải tăng chất lượng sản
phẩm và giá bán phải rẻ. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp, nhất là DNVVN phải
không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuậtvào sản xuất kinh doanh nhằm
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó phải tố ưu hóa cỏc yếu
tố đầu vào của sản xuất để tối đa hoá thành quả của sản phẩm. Trong cơ chế
thị trường doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá, dịch vụ với chất lượng tốt
nhất mà giá thành rẻ nhất thì sẽ chiến thắng. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ loại
bỏ các doanh nghiệp chi phí cao trong sản xuất kinh doanh và khuyến khích,
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có chi phí thấp vươn lên.
Để tham gia vào thị trường doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật đào
thải chon lọc. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao chất lượng
của chính mình, nâng cao trình độ kiến thức về kinh doanh. Do đó, cạnh tranh
là điều kiện rất tốt để đào tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Cạnh tranh là động lực cơ bản nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất lợi
ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội.
Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh được coi là cá
lớn nuốt cỏ bộ, do đó không được khuyến khích. Song hiện nay, cạnh tranh đã
được nhìn nhận theo xu hướng tích cực, tác dụng của nó được thể hiện rất rõ
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
ở sự phá sản của một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và sự phát
triển vượt bậc của các doanh nghiệp khác biết sử dụng hiệu quả các yếu tố của

quá trình sản xuất, kinh doanh.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của hệ thống doanh nghiệp
nói chung và của từng DNVVN nói riêng, là công cụ hữu hiệu của Nhà nước
để điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường.
4. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
4.1 Chỉ tiêu định lượng
Dưới góc độ định lượng đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua thị
phần. Trong đó, thị phần được định nghĩa là tỉ lệ phần trăm thị trường mà
doanh nghiệp chiếm lĩnh được. Ví dụ : đối với một doanh nghiệp thông tin di
động, thị trường được đo bằng số lượng thuê bao( khách hàng ) mà doanh
nghiệp phát triển được.
Thị phần mà doanh nghiệp đó chiếm lĩnh được là một chỉ tiêu tổng hợp
để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn thể hiện
rõ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh.
Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ và duy trì
một phần thị trường bất kể nhiều hay ớt, chớnh điều này đã phản ánh được
qui mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó ta có thể đánh giá được khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp, ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu
tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
Ngoài chỉ tiêu thị phần, một số người còn sử dụng tiêu thức tỉ suất lợi
nhuận để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này phản ánh chưa chính xác sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thật vậy, một
doanh nghiệp có tỉ suất lợi nhuận thấp chưa hẳn năng lực cạnh tranh kộm, vỡ
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
nó cũn phụ thuộc vào chu ký kinh doanh và chiến lược đầu tư phát triển của
doanh nghiệp.

4.2 Chỉ tiêu định tính
Dưới góc độ định tính, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp gắn
liền với các nhân tố tác động như : Chi phí sản xuất, hiệu quả sử dụng thiết bị,
chất lượng của lực lượng lao động, sản phẩm sẵn có và tiện dụng, quan hệ với
khách hàng, hiệu quả trong dịch vụ phục vụ khách hàng, kỹ năng buôn bán
với giá linh hoạt, hiệu quả trong xúc tiến bán hàng, tổ chức hoạt động bán
hàng, dịch vụ khách hàng. Cỏc tiờu thức này được tựu chung trong 3 yếu tố
cơ bản sau : sản phẩm, giá thành và khả năng tiếp cận thị trường. Nếu doanh
nghiệp có những thế mạnh về các yếu tố này thì sẽ có sức cạnh tranh tốt hơn
so với đối thủ.
a, Về sản phẩm
Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh là phải trả lời được câu hỏi cơ bản : sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai ?
sản xuất như thế nào ? và như vậy doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một
chính sách sản phẩm kinh doanh cho dù là vô hình hay hữu hình. Vậy, doanh
nghiệp nào có sản phẩm thích ứng được với thị trường một cách nhanh chóng
thì mới có thể tiêu thụ trên thị trường, mở rộng thị trưũng và tăng sức cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh của một sản phẩm được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn
về chất lượng, chức năng, kiểu dáng của sản phẩm và nhãn hiệu bao bì. Trong
đó, chất lượng sản phẩm đóng vai trò then chốt. Nếu như trước kia giá cả
được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó đó phải
nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế cạnh tranh bằng
giá là “ biện pháp nghèo nhất” vỡ nó làm giảm lợi nhuận thu được, ngược lại,
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
cùng một loại sản phẩm,chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng được yêu cầu

thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với giá cao hơn, nhất là trong thời đại
hiện nay, khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời
sông nhân dân được nâng cao nhiều so với trước.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định
bằng các thông số kỹ thuật có thể đo lường được hoặc so sánh được thoả
mãn những điều kiện kỹ thuật là những yêu cầu nhất định của người tiêu
dùng và xã hội. Tuy nhiên khi xem xét các chỉ tiêu chất lượng cần lưư ý
rằng quan niệm của khách hàng về chất lượng rộng hơn nhiều so với các
tiêu chuẩn kỹ thuật. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng khách hàng có ấn tượng
xấu về chất lượng sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh của một doanh
nghiệp là vì lý do sau :
- Không xem xét cách nhìn của khách hàng về chất lượng sản phẩm
- Coi sản phẩm có chất lượng cao đồng nghĩa với độ bền
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng sản phảm ở nơi sản xuất
- Coi sản xuất có chất lượng cao là sản xuất ít phế phẩm nhất
- Coi rằng việc kiểm tra chất lượng là chức năng của người sản xuất
Ngược lại, khách hàng đánh giá doanh nghiệp có sản phẩm chất lượng
cao khi:
- Doanh nghiệp đánh giá nhu cầu thực sự của khách hàng thông qua
nghiên cứu thị trường
- Nhấn mạnh vào những mong muốn thực tế của khách hàng chứ không
phải vào sự tưởng tượng của họ
- Coi việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là công việc của tất cả mọi
người chứ không phải riêng người sản xuất.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Mối liên hệ giữa việc thực hiện đúng các tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng

với việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng vè chất lượng tương tự như chất
lượng về chuyến bay. Nếu xem xét dưới góc độ của hãng hàng không thì chất
lượng chuyến bay sẽ an toàn khi cất cánh và hạ cánh máy bay. Còn hành
khách thì lại xem chuyến bay có chất lượng cao là chuyến bay có giá tốt, đúng
giờ, hành trình bay, tiện nghi, thủ tục kiểm tra, thức ăn trong chuyến bay và
thái độ của nhân viên.
b Về giá thành
Giá thành sản phẩm ( bao gồm giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ)
được hình thành từ các chi phí trực tiếp và gián tiếp phát sinh trong quá trình
sản xuất, kinh doanh như chi phí nhõn công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí
khấu hao tài sản cố định
Trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nếu các yếu tố khác tương
đương nhau thì doanh nghiệp nào có giá thành sản phẩm thấp hơn sẽ có sức
cạnh tranh cao hơn. Thật vậy, khi cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu tăng lên
thì lợi nhuận sẽ bị hạn chế. Để giữ vững lợi nhuận, doanh nghiệp phải tỡm
mọi cách giảm chi phí nhằm cho phép đưa ra thị trường sản phẩm với giá cả
cạnh tranh. Ngày nay, trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì điều kiện tiên
quyết để thành công đối với một doanh nghiệp là giảm tối đa giá thành và rủi
ro. Đặc biệt là ở các nước nghèo, có mức thu nhập thấp, việc sẵn sàng chấp
nhận mức lợi nhuận thấp hơn bình thường để chiếm lĩnh thị trường đôi khi là
vấn đề rất quan trọng trong việc chiến thắng đối thủ cạnh tranh bằng cách đưa
ra sản phẩm với giá thấp hơn. Chúng ta hóy cùng xem xét quá trình phát triển
sản phẩm của Mỹ và Nhật Bản, là hai mô hình được các DNVVN ở Việt Nam
ứng dụng nhiều nhất :
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Sơ đồ 1.1 : Quá trình phát triển sản phẩm tại Mỹ và Nhật

Mỹ Nhật
(Nguồn : Giáo trình Marketing – Đại học Kinh tế Quốc dân)
Với việc bắt đầu từ giá, có ba lĩnh vực có ảnh hưởng lớn nhất tới giá
thành là thiết kế, kỹ thuật công nghệ và nguyên vật liệu đầu vào đã được các
nhà kinh doanh Nhật Bản chặn ngay từ giai đoạn đầu vào.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường
Các đặc tính sản phẩm Các đặc tính sản phẩm
Thiết kế Kế hoạch giá bán với
lợi nhuận thấp nhất
Kỹ thuật công nghệ
Mục tiêu giá
thành
Thiết kế
Kỹ thuật
công nghệ
Giá NVL
đầu vào
Nếu giá
thành
hợp lý
Giá thành mục tiêu so với
chi phí Marketing, thiết
kế, sản xuất, NVL
Sản xuất hàng loạt
Liên tục hạ giá thành
Sản xuất hàng loạt
Nếu giá
thành

cao
Giá NVL đầu vào
Giá thành
Định kỳ giảm giá
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận trên của Mỹ và Nhật Bản là ở chỗ
cách tiếp cận của Mỹ xõy dựng mô hình xác định những gì xảy ra với giá
thành và sau đó xem xét liệu doanh nghiệp có bán sản phẩm với giá mang lại
lợi nhuận hay không. Cũn mô hình của Nhật lại xác định xem liệu thị trường
chấp nhận mua sản phẩm với giá nào rồi quyết định xem xét xem doanh
nghiệp có khả năng đưa ra thị trường sản phẩm với giá đó và mang lại lợi
nhuận hay không. Sự khác nhau cơ bản giữa hai cách tiếp cận trên là ở chỗ :
Cách của Mỹ là cách tiếp cận quản lý giá thành dựa trên cơ sở giá thành
chuẩn và cố gắng duy trì vị trí của doanh nghiệp. Trong khi đó, cách tiếp cận
của Nhật nhằm động viên doanh nghiệp hướng tới hoàn thiện công nghệ và
quản lý để đạt được mức chặn giá thành.Hiện nay các doanh nghiệp ở Việt
Nam đang áp dụng hai mô hình này vào quá trình phát triển sản phẩm và đã
thu được những thành tựu đáng kể : tạo ra được sản phẩm có chất lượng và có
thương hiệu mạnh ở thị trường trong nước và quốc tế
Ngoài ra, giá thành là một yếu tố ảnh hưởng tới giá bán. Trong khi đó ,
giá bán cũng là một công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu. Đối với người mua, khi
mua hàng thì yếu tố giá luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các quyết
định mua hàng.
c. về khả năng tiếp cận thị trường
Đưa ra sản phẩm đến tay khách hàng là khõu cuối cùng trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi sản phẩm được tiêu thụ
giá trị mới được thực hiện – doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, bù đắp chi
phí và thu được lợi nhuận. Chớnh vì vậy, doanh nghiệp nào làm tốt công tác

thị trường sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn trong môi trường cạnh tranh gay
gắt hiện nay.

Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Đánh giá về khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp thường căn
cứ vào: Các tiêu thức về kênh phõn phối, chớnh sách kớch thích tiêu thụ sản
phẩm ( quảng cáo, khuyến mại ). Ngày nay, những hạn chế trong giai đoạn
sản xuất đã được khắc phục do sự phát triển của khoa học – công nghệ, nhưng
doanh nghiệp lại vấp phải những khó khăn trong quá trình tiêu thụ sản phẩm
bởi một môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Bởi vậy, doanh
nghiệp nào tiếp cận thị trường tốt hơn sẽ có cơ hội tồn tại nhiều hơn các đối
thủ cạnh tranh khác.
Để tiếp cận thị trường doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động
tuyên truyền nhằm cung cấp các thông tin về sản phẩm cho khách hàng cũng
như các hoạt động khác để xõy dựng thiện cảm và lòng tin của người tiêu
dùng về sản phẩm. Từ đó khuyến khích khách hàng hành động mua hàng của
đơn vị. Những hoạt động kể trên được gọi chung là các hoạt động xúc tiến
bán hàng bao gồm bốn phương tiện tác động cơ bản .
+ Quảng cáo là bất kỳ một hình thức giới thiệu gián tiếp và đề cao
những ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ nhõn danh một người bảo trợ nổi tiếng và
phải trả tiền cho họ
+ Kích thích tiêu thụ là những biện pháp kích động tức thời nhằm
khuyến khích mua hay bán hàng hoá hoặc dịch vụ
+ Tuyên truyền là việc kích thích gián tiếp và người bảo trợ không được
trả tiền, nhằm làm tăng nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ hay về một đơn vị tổ
chức kinh doanh bằng cách phổ biến những tư liệu thương mại quan trọng của

những đối tượng đó trên các ấn phẩm thông tin hay qua những màn trình diễn
gõy thiện cảm trên đài truyền hình hoặc sõn khấu.
+ Bán hàng trực tiếp là giới thiệu bằng miệng về hàng hoá trong quá trình
nói chuyện với một hay nhiều người mua tiềm ẩn với mục đích bán được hàng.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Tuỳ thuộc vào đặc điểm của sản phẩm và thị trường khác nhau doanh
nghiệp có thể sử dụng các phương tiện xúc tiến bán hàng khác nhau để
mang lại hiệu quả cao nhất. Hình dưới đây sẽ so sánh vai trò của các
phương tiện khuyến mãi trờn cỏc thị trường tiêu dùng và các thị trường
hàng tư liệu sản xuất
Sơ đồ 1.2 : so sánh vai trò của các phương tiện khuyến mãi trờn cỏc thị
trường tiêu dùng và các thị trường hàng tư liệu sản xuất
Hàng tiêu dùng :
Hàng tư liệu sản xuõt

(Nguồn : Giáo trình Marketing – Đại học Kinh tế Quốc dân)
Khi khách hàng có nhu cầu mua hàng, doanh nghiệp phải đảm bảo
chuyển hàng hoá đến tay người tiêu dùng một cách thuận tiện và nhanh chúng
nhất thông qua hệ thông kênh phõn phối của mình.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
Quảng cáo
Kích thích tiêu thụ
Bán hàng trực tiếp
Tuyên truyền
Bán hàng trực tiếp

Kích thích tiêu thụ
Quảng cáo
Tuyên truyền
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Kênh phõn phối được hiểu là một tập hợp các công ty hay cá nhõn tự
gánh vác hay giúp đỡ chuyển giao cho một ai đó quyền sở hữu đối với hàng
hoá hay dich vụ trên con đường từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm của khách hàng, của sản phẩm, của những người
trung gian và môi trường kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán mà có thể tổ
chức các kênh phõn phối khác nhau.
Với sản phẩm tiêu dùng, người sản xuất có thể bán trực tiếp qua đội ngũ
những người bán hàng tới tay người tiêu dùng, qua thư đặt hàng hoặc hệ
thống cửa hàng riêng. Ngoài ra, các sản phẩm tiêu dùng cũng được phõn phối
gián tiếp thông qua các nhà bán buôn với hệ thống các cửa hàng bán lẻ riêng.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Sơ đồ 1.3 : Kênh phân phối hàng tiêu dùng
(Nguồn : Giáo trình Marketing – Đại học Kinh tế Quốc dân)
Hàng hoá là tư liệu sản xuất, được phõn phối thông qua lực lượng bán
hàng của người sản xuất một cách trực tiếp hoặc phõn phối gián tiếp thông
qua các nhà phõn phối, các đại lý hoặc người bán buôn. Để lựa chọn các kênh
phõn phối, các nhà sản xuất cần căn cứ vào thị trường từng bước, lựa chọn
từng đại lý, người phõn phối cụ thể.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A

Người sản xuất
Người tiêu dùng
Lực lượng
bán hàng
của người
sản xuất
Người bán
lẻ
đại lý
hoặc
người
trung
gian
Người
bán lẻ
Lực lượng
bán hang
của người
sản xuất
Người
bán
buôn
Người
bán lẻ
Lực lượng
bán hàng của
người sản
xuất
Người bán
lẻ

Người bán
buôn
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
Sơ đồ 1.4 :Cỏc kênh phân phối hàng tư liệu sản xuất :
(Nguồn : Giáo trình Marketing – Đại học Kinh tế Quốc dân)

Túm lại, ta có thể rút ra một quan điểm chung nhất là : năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp được xác định bởi những điểm mạnh, những ưu thế
tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp có
nhiều điểm mạnh, có tiềm năng hơn các đối thủ thì doanh nghiệp đó sẽ có
năng lực cạnh tranh cao hơn. Ưu điểm đó có thể là chất lượng sản phẩm tốt
hơn, giá bán rẻ hơn, giá thành sản xuất thấp hơn, nguồn tài chớnh dồi dào
hơn, công nghệ tiên tiến hơn, năng suất lao động cao hơn Mặt khác xét cho
đến cùng, mục tiêu cạnh tranh là nhằm thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ
đó tăng lợi nhuận. Chớnh vì vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng
có thể hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra sức mạnh thu hút
khách hàng. Đương nhiên doanh nghiệp nào thu hút được nhiều khách hàng
hơn thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
Người sản xuất
Lực lượng bán hàng
của người sản xuất
Người bán
buôn
Người bán
buôn
Người bán

buôn
Nhà phân phối
hoặc đại lý
Người tiêu dùng
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng
gắn liền với môi trường kinh doanh, đó là các yếu tố ngoài doanh nghiệp. Vì
vậy nó chịu ảnh hưởng và tác động của các nhõn tố này :
5.1. Môi trường kinh tế
Đõy là nhõn tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tớnh ổn định hay bất ổn về kinh tế có tác động trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tớnh ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chớnh quốc
gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Nền kinh tế được ổn định sẽ là điều
kiện tốt để tăng trưởng. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo
theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dõn. Mặt
khác, nền kinh tế phát triển mạnh có ý nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung
tư bản lớn như vậy tốc độ đầu tư phát triển cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng
lên. Đõy chớnh là cơ hội tốt cho doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp nào
có khả năng nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công và
sức cạnh tranh cũng tăng lên. Tuy nhiên do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ
kéo theo sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh
nghiệp tham gia thị trường và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt.
Ai đi trước trong cuộc cạnh tranh này người đó sẽ chiến thắng. Ngược lại, khi
nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả
tăng, sức mua của người dõn bị giảm sút, các doanh nghiệp phải tỡm mọi

cách giữ khách hàng, do đó cạnh tranh trên thị trường sẽ khốc liệt hơn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường kinh tế là một yếu
tố rất nhạy cảm, dễ bị tác động. Thật vậy, khủng hoảng kinh tế không bao giờ
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
ảnh hưởng trong phạm vi một quốc gia mà tác động lan truyền trong cả khu
vực, thậm chí trên phạm vi toàn cầu. Mức độ tàn phá cũng ngày một nặng nề
hơn, tần suất xuất hiện cũng dày đặc hơn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp
vừa và nhỏ phải tạo được một năng lực cạnh tranh tốt hơn để có thể sẵn sàng
đương đầu với những ô cơn bóo khủng hoảng ằ, đang đe doạ sự sống cũn của
doanh nghiệp.
5.2. Môi trường luật pháp, chính trị
Chớnh trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ
sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Luật pháp rừ ràng, chớnh trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, ổn
định về chớnh trị đem lại sự lành mạnh húa xã hội, ổn định kinh tế, tạo hành
lang thông thoáng cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Trong điều kiện bình thường, một doanh nghiệp vẫn có thể bị ảnh
hưởng do những thay đổi của hệ thống pháp luật. Luật pháp là yếu tố dễ dàng
bị áp đặt nên dễ dàng bị thay đổi. Nhưng ảnh hưởng của những thay đổi gõy
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chớờn lược kinh doanh lõu
dài của mình.
Trong quá trình toàn cầu hoá, doanh nghiệp phải tỡm mọi cách đưa
hàng hóa xõm nhập vào thị trường các nước. Điều này đồng nghĩa với việc
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi các quy định,
luật pháp, thủ tục của nước sở tại. Mọi sự biến động về môi trường luật pháp,

chớnh trị của một nước trên thế giới đều có khả năng ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Trong điều kiện đó, sự thấu hiểu thông
lệ và luật pháp quốc tế là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp tránh được
những tổn thất không đáng có trong nỗ lực chiếm lĩnh thị trường.
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch & Phát
triển
5.3. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt
trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ
tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào
các yếu tố sau
+ Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như
tỉ suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
+Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố làm cho việc gia nhập
vào một ngành khó khăn và tốn kém hơn như kỹ thuật, vốn, các yếu tố thương
mại : Hệ thống phân phối, thương hiệu , hệ thống khách hàng
Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào ( Bị kiểm soát ), Bằng
cấp , phát minh sáng chế, Nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ
5.4 Áp lực cạnh tranh từ khách hàng
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khách hàng được phân làm 2 nhóm:
+Khách hàng lẻ
+Nhà phân phối
Cả hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản
phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong ngành
thông qua quyết định mua hàng.

Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp
lực cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành
+ Quy mô
+Tầm quan trọng
+Chi phí chuyển đổi khách hàng
+Thông tin khách hàng
Sinh viên: Phạm Trọng Cường Lớp: Kinh tế phát triển
47A
25

×