Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.62 KB, 110 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Như chúng ta được biết hướng cải tiến chung của chương trình
Sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay theo Bộ giáo dục và Đào tạo là giảm tải,
tăng thực hành, gắn với đời sống. Vì vậy, dạy và học trong nhà trường đang
đứng trước yêu cầu bức thiết đó là cần đổi mới toàn diện từ phương hướng,
mục tiêu đến nội dung, phương pháp dạy học. Đặc biệt, việc đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học cần được tiến hành ở tất cả các cấp học, bậc học.
Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở đã nêu lên mục tiêu khái quát:
“Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
chung của nhà trường Trung học cơ sở, góp phần hình thành những con
người có học vấn phổ thông cơ sở…Đó là những con người có ý thức tự tu
dưỡng, biết thương yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là
những người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có
năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện mỹ trong nghệ thuật, trước hết trong
văn học, có năng lực thực hành và năng lực tư duy sáng tạo như một công cụ
để tư duy giao tiếp. Đó cũng là những người có ham muốn đem tài trí của
mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc”. Không nằm ngoài
những mục tiêu trên và nhằm phát triển cao hơn những yêu cầu được nhắc
đến ở chương trình Trung học cơ sở, bộ Sách giáo khoa Ngữ văn Trung học
phổ thông cũng đã đưa ra nội dung giảng dạy và học tập rất “thấu tình đạt lí”
để giúp học sinh phát huy khả năng tư duy và vận dụng vào trong thực tế cuộc
sống sau này của chính các em. Trong đó, phân môn Tập làm văn chiếm một
vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao
thuộc liên môn Văn và Tiếng Việt. Cái đích cuối cùng của phân môn này là
1
trang bị cho học sinh khả năng độc lập để viết một bài văn có chất lượng cao.
Muốn như vậy không có cách nào khả thi hơn ngoài việc đổi mới việc dạy
học trong nhà trường hiện nay.


1.2. Văn nghị luận có vai trò hết sức quan trọng trong sống xã hội cũng
như trong nhà trường. Thông qua các bài làm văn nghị luận, học sinh có điều
kiện phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, các em có dịp thể hiện năng lực
tư duy, cảm thụ và năng lực lập luận của mình. Đây cũng là những yêu cầu rất
cần thiết để các em làm hành trang bước vào cuộc sống.
Văn nghị luận nói chung có vai trò hết sức quan trọng như vậy, song
trong thực tế nhà trường phổ thông hiện nay phần lớn kĩ năng làm văn nghị
luận của học sinh còn rất kém, các em ít hứng thú trong việc rèn kĩ năng viết
văn nghị luận, trong các bài viết mắc khá nhiều lỗi. Một trong những lỗi bắt
gặp ngay khi mở đầu bài viết đó là các em còn lúng túng không biết làm thế
nào để vào bài cho nhanh mà vẫn đảm bảo đúng, hay và hấp dẫn. Quan tâm
đến cách viết bài của học sinh từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp hữu
hiệu nhất giúp các em hoàn thành bài viết của mình với kết quả cao nhất có
thể là một việc làm có ý nghĩa thiết thực.Mục đích chính yếu là nhằm rèn
luyện nâng cao kĩ năng viết bài văn nghị luận cho học sinh và góp phần vào
nhiệm vụ chung của quá trình đổi mới phương pháp dạy học văn. Cụ thể trong
luận văn này chúng tôi chọn đề tài: “Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài
văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông”
1.3. Không phải ngẫu nhiên Macxim Gorki đúc rút nên điều này: “
Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu, cũng như trong âm nhạc, nó
chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm nó rất lâu”. Làm
việc gì cũng vậy, sự khởi đầu luôn khiến chúng ta phải cân nhắc kĩ lưỡng
trước khi bắt tay thực hiện công việc ấy đến kết quả cuối cùng. Muốn có một
bài văn nghị luận hay hoàn toàn không nằm ngoài quỹ đạo của quá trình làm
việc thông thường như đã nêu ở trên.
2
Sự khởi đầu của việc làm văn nghị luận là viết đoạn mở bài, còn được
gọi dưới cái tên như đặt vấn đề hay nêu vấn đề. Nhưng quả thực, việc khởi
động này cũng là việc khó khăn và gian nan nhất. Vì đoạn mở bài là căn cứ để
đánh giá bài làm có thu hút, sáng tạo và độc đáo hay không. Nằm ở vị trí đầu

tiên trong bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn nói
chung cũng như nghị luận nói riêng, đoạn mở bài thường tạo ấn tượng ban
đầu về bài viết và giúp người đọc cảm nhận trọn vẹn âm hưởng của toàn bài.
Một đoạn mở bài gọn gàng, mạch lạc sẽ thu hút được sự quan tâm của đông
đảo người đọc. Bên cạnh đó, nó còn tạo thêm hứng thú cho chính người viết.
Ngược lại, người đọc mất cảm tình khi tiếp xúc với một bài văn có đoạn mở
bài mang biểu hiện của nhận thức hạn chế và lối tư duy thiếu mạch lạc của
người viết, thể hiện ở cách viết dài dòng, khô khan, lạc đề, xa đề hoặc thiếu
hấp dẫn. Từ tâm lí tiếp nhận không tốt, người đọc có thể mặc nhiên quy kết
rằng nội dung bài văn này kém chất lượng. Như vậy, đoạn mở bài là một
trong những bộ phận quan trọng cấu thành bài văn nghị luận.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học môn Làm văn nhằm tăng cường tính
thực hành, phát triển tư duy logic và sự sáng tạo độc đáo của mỗi học sinh
Trung học phổ thông, từ đó giúp các em hình thành kĩ năng, kĩ xảo khi làm
bài văn nghị luận. Và mặc dù đã có trình độ tư duy phát triển cao cũng như kĩ
năng viết văn từ Trung học cơ sở nhưng các em vẫn mất nhiều thời gian thậm
chí khó khăn khi muốn viết được một mở bài trôi chảy tạo nên sự khơi thông
mạch văn toàn bài.
Vì vậy, nhằm củng cố lại kiến thức lí thuyết Làm văn các em đã được
học từ Trung học cơ sở từ đó vận dụng một cách thành thạo vào việc thực
hành, sách Ngữ văn 12 nâng cao đã đưa thành một tiết riêng đó là “Mở bài”.
Yêu cầu bức thiết của việc viết đoạn mở bài một cách nhanh chóng mà vẫn
đạt yêu cầu nhằm giúp các em có tâm thế vững vàng trước mỗi bài kiểm tra,
bài thi học kì hoặc thi tốt nghiệp và thi đại học…chúng tôi chọn đề tài: “ Rèn
3
kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh Trung học
phổ thông ”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Làm văn là môn học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất,
đặc biệt với văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là

loại văn bản thông thường mà nó còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết
phục người đọc của văn nghị luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn
khéo léo trong dẫn dắt của người viết. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở lí
luận cho việc dạy văn nghị luận vô cùng bức thiết. Từ trước đến nay đã có
nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về kĩ năng viết đoạn mở bài.
Điểm qua một vài cuốn sách hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và
hướng dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn nghị luận (Thẩm Thệ Hà);
Tài liệu hướng dẫn học môn Làm văn (Nguyễn Quang Ninh); Giáo trình Làm
văn (Đình Cao, Lê A); Dàn bài Tập làm văn 12 (Trần Đình Sử, Phan Huy
Dũng); Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu); 150 bài
tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi dưỡng
học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh) Trong nhiều năm
qua, những tài liệu nghiên cứu, tài liệu chỉ đạo về phần này còn quá ít. Nếu
có, những cuốn này chỉ mang tính chất tham khảo cho giáo viên và học sinh.
Thực tế cho thấy, đại đa số các cuốn sách đều đã đề cập đến phần mở bài tuy
chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về phần thân bài.
Cuốn sách tiêu biểu thứ nhất viết về đoạn mở bài là Tài liệu hướng dẫn
học bộ môn làm văn (Nguyễn Quang Ninh). Tác giả xác định vị trí, yêu cầu
của phần đặt vấn đề: “ Trong phần đặt vấn đề phải làm sao nêu được vấn đề
một cách ngắn gọn nhất, hấp dẫn và gây hứng thú cho người đọc, người
nghe. Hơn nữa, qua phần đặt vấn đề ngắn gọn phải nêu lên hướng giải quyết,
phạm vi giải quyết vấn đề, tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề để chuẩn bị tư
tưởng cho người đọc theo dõi phần nội dung.
4
Đó chưa kể một bài có phần đặt vấn đề tốt sẽ gây ấn tượng đẹp ban
đầu cho người đọc, người chấm”. [33, 20]
Bên cạnh đó, tác giả còn nêu các bước tiến hành đặt vấn đề, gồm ba bước:
- Xác định vấn đề.
- Xác định phần dẫn dắt, chuyển tiếp vấn đề.
- Nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề, phương hướng giải quyết

vấn đề.
Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới phần mở bài là Kĩ năng làm
văn nghị luận phổ thông của Nguyễn Quốc Siêu giới thiệu kĩ năng viết phần
mở bài với các cách sau: Từ một sự kiện tương đồng của vấn đề, từ việc trình
bày bối cảnh mà xác định luận đề, qua cách vấn thiết mà nêu vấn đề, dẫn danh
ngôn đã nêu luận đề, qua đối chiếu phải trái đã nêu vấn đề.
Một cuốn sách khác đã đóng góp không nhỏ trong việc hình thành kĩ năng
viết đoạn mở bài là 150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang
Ninh) qua việc đưa ra hệ thống bài tập luyện dựng đoạn theo chức năng:
- Mở bài trực tiếp có hai cách: Mở thẳng vấn đề và mở trực tiếp có thêm
phần dẫn dắt (thời gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
- Mở bài gián tiếp: Mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi,
mở bằng cách nêu sự kiện, con số.
Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn
Đăng Mạnh) bàn luận khá kĩ về việc viết đoạn mở bài hay :“Trước hết muốn mở
bài hay cần hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của mở bài. Mục đích của mở bài là
giới thiệu với bạn đọc về vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ bàn bạc, trao đổi hay miêu
tả, kể lại. Viết mở bài thực chất là trả lời câu hỏi: Ở bài viết này, mình định viết
về điều gì?”… “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần nêu
vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi, vì mở bài theo kiểu gì thì
ai cũng phải nêu được phần này. Như thế cũng có nghĩa là, muốn viết được các
mở bài khác nhau thì người viết chỉ cần xác định rõ ba phần của đoạn mở bài,
5
giữ lại hai phần sau và thay đổi phần đầu là có thể có một mở bài khác. Nói gọn
lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài mới”. [27, 87]
Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về đoạn
mở bài. Tuy nhiên, cần thấy rằng cách tìm hiểu về phần mở bài như vậy vẫn
chưa thật toàn diện, chưa thật sâu sắc. Nội dung của những cuốn sách này chủ
yếu vẫn thiên về lí thuyết trừu tượng chứ chưa thực sự chú trọng hình thành
các thao tác cụ thể cho học sinh. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở

kế thừa và sáng tạo tất cả những quan điểm đi trước, nhằm đóng góp một
phần nhỏ trong việc xây dựng lí thuyết Làm văn và hướng dẫn học sinh làm
một số bài tập vận dụng những lí thuyết đã đưa ra.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm giúp học sinh phát triển khả năng sản sinh văn bản, nâng cao
năng lực tư duy, năng lực khái quát tri thức cũng như năng lực sử dụng ngôn
ngữ ở mức chủ động sáng tạo. Chính vì vậy, trên phương diện tìm hiểu lí
thuyết của việc rèn kĩ năng viết đoạn mở bài cho bài văn nghị luận, luận văn
này cụ thể hóa tinh thần đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường
Trung học phổ thông để từ đó phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong hoạt động lĩnh hội tri thức về rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài chúng tôi xây dựng nhằm hướng hiệu quả đến việc làm của học
sinh Trung học phổ thông với sự phát triển toàn diện về nhận thức, phương
pháp tư duy và vốn hiểu biết. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn
đề lí luận về phương pháp dạy học Làm văn theo tinh thần đổi mới trong nhà
trường hiện nay. Những kiến thức lĩnh hội được thông qua sách vở và tài liệu
tham khảo, qua việc lên lớp của thầy cô cũng như sự tích luỹ của bản thân các
em trong quá trình tiếp xúc, giao lưu ngoài cuộc sống xã hội đủ điều kiện giúp
các em viết đoạn mở bài đúng, hay và nhanh chóng cũng như có thể làm
những bài đòi hỏi sự sáng tạo và độc đáo.
6
Do yêu cầu thực tế của đề tài là hướng dẫn học sinh nghiên cứu xây
dựng kĩ năng viết phần mở bài cho một bài văn nghị luận nên trong quá trình
tiến hành, ngoài việc cung cấp những lí thuyết khoa học còn hướng vào thực
tiễn dạy học phần mở bài nhằm hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh khi
làm bài. Gớt đã bất hủ với câu nói nổi tiếng “Lí thuyết toàn là màu xám và
cây đời mãi mãi xanh tươi”. Những ví dụ và đề bài đều được rút ra từ các vấn
đề gắn với chương trình Trung học phổ thông để phục vụ cho việc làm bài
kiểm tra, thi học kì, thi tốt nghiệp và thi đại học.

Như chúng ta đã biết, bố cục một bài văn nghị luận thường có ba phần:
Mở bài (đặt vấn đề), thân bài (giải quyết vấn đề), kết bài (kết thúc vấn đề). Trong
khuôn khổ hạn hẹp của luận văn về điều kiện và khả năng, chúng tôi chỉ dừng lại
ở việc nghiên cứu đoạn mở bài. Hi vọng rằng luận văn với những nội dung bao
hàm trong đó sẽ là tài liệu bổ ích cho những người làm công tác giảng dạy,
nghiên cứu và hơn hết là giúp các em học sinh Trung học phổ thông có thể viết
phần mở bài bài văn nghị luận thành thục, đạt yêu cầu, hay và hấp dẫn.
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu việc luyện cho học sinh cách viết đoạn mở bài trong văn nghị luận
được tiến hành thường xuyên và có cơ sở khoa học thì chắc chắn việc rèn kĩ
năng đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng học phần Làm văn, đặc biệt là viết
đoạn văn nói chung và đoạn mở bài nói riêng trong chương trình Ngữ văn
Trung học phổ thông, phát huy cao độ tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh trong việc viết bài văn nghị luận hoàn chỉnh đảm bảo đúng yêu cầu
mà vẫn hay, thu hút và lôi cuốn người đọc, người nghe.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình xây dựng đề tài, chúng tôi đã vận dụng nhiều phương
pháp dạy học tiếng Việt, dạy học Làm văn. Giữa các phương pháp có sự phối
hợp với mức độ đậm nhạt và phân bố khác nhau ở từng phần. Dưới đây là một
số phương pháp nghiên cứu cơ bản nhất đã được chúng tôi vận dụng.
7
6.1. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Phương pháp phân tích ngôn ngữ dùng để nghiên cứu tài liệu trong
quá trình thực hiện đề tài. Với đề tài này, chúng tôi thu thập thông tin trên cơ
sở nghiên cứu văn bản, tài liệu đã có để rút ra những kết luận khoa học cần
thiết.
Các văn bản, tài liệu xây dựng cơ sở lí thuyết cho đề tài là các tài liệu
ngôn ngữ học, đặc biệt là các tài liệu về Làm văn và tâm lí dạy học.
6.2. Phương pháp khảo sát thực tế
Từ trước đến nay, chúng ta luôn đề cao mối quan hệ thiết thân giữa lí

luận và thực tiễn, trong đó, thực tiễn nắm vai trò cốt yếu trong quá trình nhận
thức và hành động.
Trên cơ sở những lí thuyết đã nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát
thực tế. Cụ thể, chúng tôi đã khảo sát một số lượng lớn những bài làm văn của
học sinh Trung học phổ thông, tập trung tìm hiểu sự đầu tư cho đoạn mở bài
của các em ở mức độ như thế nào. Qua việc làm này giúp chúng tôi nắm được
những khó khăn, vướng mắc cũng như những mặt còn hạn chế trong khi viết
đoạn mở bài của các em.
Như vậy, phương pháp khảo sát thực tế là tổ chức tiếp cận tri giác tìm
hiểu đối tượng trong thực tế, điều tra và tổng hợp các vấn đề thực tiễn có liên
quan mật thiết đến đề tài.
6.3. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ
học cũng như trong phương pháp dạy.
Bằng thống kê có thể thấy được những sai sót thường gặp trong khi làm
bài của học sinh, từ đó tìm ra phương pháp khắc phục.
6.4. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp tổ chức, triển khai giả thuyết
khoa học của đề tài vào giảng dạy thực tế nhằm kiểm tra, đánh giá một cách
8
khách quan tính khả thi của các vấn đề đưa ra và từ đó hiệu chỉnh lại nhằm
đạt được sự tin cậy và mang tính khoa học nhất nơi luận văn.
Phương pháp thực nghiệm có vị trí đặc biệt quan trọng của khoa học
giáo dục nói chung và phương pháp dạy Làm văn nói riêng. Có nhiều loại
thực nghiệm khác nhau: Thực nghiệm điều tra, thực nghiệm định hướng, thực
nghiệm giảng dạy, thực nghiệm kiểm tra…Chúng tôi áp dụng phương pháp
thực nghiệm ngay khi đưa ra các dạng bài tập. Trước hết, chúng tôi tìm hiểu
trình độ học sinh về kiến thức, kĩ năng viết đoạn mở bài trong văn nghị luận,
sau đó đề ra phương pháp thực nghiệm cho từng đối tượng theo trình tự: Dạy
lí thuyết, ra đề, đánh giá và thống kê kết quả. Cuối cùng, chúng tôi có thể rút

ra kết luận mang tính khách quan nhất về quá trình nghiên cứu của mình.
6.5. Nhóm phương pháp giảng dạy bộ môn Tập làm văn
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi cần thiết phải quan tâm đến các phương
pháp giảng dạy Tập làm văn bởi tính chất đặc thù của bộ môn chuyên ngành.
Cấu trúc toàn bộ luận văn có thể xem như một giáo án hoàn chỉnh để dạy học,
chúng tôi tuân thủ theo nguyên tắc giảng dạy gắn với tư duy, gắn bài giảng với
giao tiếp (các phần trình bày lí thuyết có thể xem là phần thuyết giảng với các
phương pháp thông báo – giải thích, các phần ví dụ áp dụng phương pháp dạy
theo mẫu, các đề xuất, ý tưởng là những tình huống gợi mở ).
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn gồm ba
chương:
Chương I: Các vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến việc tìm hiểu đoạn
mở bài trong văn nghị luận
Chương II: Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học
sinh Trung học phổ thông
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU ĐOẠN MỞ BÀI TRONG BÀI
VĂN NGHỊ LUẬN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ học văn bản là một bộ môn chuyên nghiên cứu đặc điểm của
văn bản, kết cấu văn bản, các dạng thông tin của văn bản. Như chúng ta đều
biết, quá trình giao tiếp giữa người viết và người đọc là quá trình mã hóa (xây
dựng) văn bản, nói cụ thể ở đây chính là việc làm văn nghị luận trong nhà
trường. Bởi vậy, ngôn ngữ học văn bản được xem là một tiền đề lí thuyết

quan trọng của môn Làm văn. Viết đoạn mở bài là một phần của quá trình đó,
chính vì vậy chúng ta một lần nữa nhấn mạnh ngôn ngữ học văn bản là vấn đề
lí luận đặc biệt quan trọng.
Văn bản nghị luận cũng giống như các loại văn bản khác, đó là cấu trúc
gồm ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng mục tiêu thực dụng của văn
bản nghị luận lại nhằm nêu ý kiến đánh giá bàn luận sự việc nào đó trong đời
sống cũng như văn học nghệ thuật. Mục đích giao tiếp của văn bản nghị luận
là nhằm thuyết phục người đọc, người nghe hiểu, tin và đồng tình với ý kiến
của mình mà hành động theo những gì mà mình đề xuất. Do đó, văn bản nghị
luận có đặc trưng cơ bản về mặt cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa là có tính chất
cân đối, chặt chẽ giữa các phần trong văn bản, từng phần trong văn bản lại có
chức năng riêng phù hợp với mục đích thuyết phục người khác của văn bản
nghị luận (tính hoàn chỉnh, trọn vẹn của một văn bản). Thêm nữa, văn bản
nghị luận nhằm thuyết phục người đọc nên rất chú ý đến lí lẽ và cách lập luận,
người viết phải có thái độ và lập trường rõ ràng.
10
Căn cứ vào nội dung nghị luận, chia văn bản nghị luận thành hai loại:
Nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi
quan tâm đến cả hai loại trên song do điều kiện khách quan nên phần nhiều
dẫn chứng vẫn chủ yếu là văn bản nghị luận văn học dành cho học sinh Trung
học phổ thông, đặc biệt chú trọng trong mô hình của văn bản tối ưu.
1.2. Lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ
Một trong những quan điểm dạy học hiện đại là dạy tiếng theo quan
điểm giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện bằng văn bản. Như vậy có thể nói
rằng văn bản là đơn vị giao tiếp cơ bản nhất của ngôn ngữ. Mặt khác, làm văn
là sáng tạo, sản sinh các loại văn bản. Từ đây, chúng ta nói thêm rằng: Làm
văn chính là sáng tạo, sản sinh các loại văn bản để giao tiếp. Việc dạy Làm
văn chính là dạy cách tổ chức giao tiếp bằng văn bản. Chúng ta nhận thấy một
điều là việc Làm văn có quan hệ với một lí thuyết khác bên cạnh lí thuyết về
văn bản: Lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ.

Giao tiếp bằng ngôn ngữ không đơn thuần chỉ nhằm mục đích thông tin
mà chủ yếu là quá trình tác động tới người nhận về nhận thức, quan điểm,
thẩm mĩ và hành động. Không có một văn bản nào chỉ nhằm mục đích thông
tin thuần tuý (hay nói chính xác hơn là rất ít những văn bản chỉ nhằm mục
đích thông tin) mà qua thông tin để nhằm mục đích nhất định. Khi dạy Làm
văn cũng vậy, giáo viên cần dạy cho học sinh thấy rằng viết bài bên cạnh việc
đưa thông tin còn phải chú ý lựa chọn thông tin đó để làm gì, nhằm đạt mục
đích gì…Và nhằm đưa người đọc vào vấn đề cần bàn là việc người viết phải
chú ý lựa chọn nội dung khi làm phần mở bài.
Theo quan điểm giao tiếp, các yếu tố ngôn ngữ trong hoạt động hành
chức của mình luôn luôn là những yếu tố có sự biến động. Chúng có thể phát
sinh đặc tính mới, tăng cường thêm giá trị hoặc ngược lại cũng có thể thuyên
giảm, rút bớt giá trị mà chúng vốn có trong hệ thống. Sở dĩ có tình hình này là
do trong giao tiếp, một mặt là sự tác động qua lại giữa các yếu tố bên trong hệ
11
thống, mặt khác do các yếu tố này được lí giải hoàn toàn khác nhau ở những
người sử dụng khác nhau tạo nên. Chính vì vậy, trong hoạt động hành chức,
nội dung một văn bản thường được xác định từ hai góc độ: Thứ nhất, là sự
xác định ý nghĩa chung của sự kết hợp giữa các yếu tố ngôn ngữ đem lại; thứ
hai, là việc xác định từ sự hiểu biết văn bản ở người nhận đưa tới. Như vậy,
một văn bản mã hoá đúng quy tắc về ngữ pháp, ngữ nghĩa…là điều kiện cần
thiết để đạt mục đích chứ không phải là bản thân mục đích.
Từ cách hiểu trên, chúng ta khẳng định: Mỗi bài văn khi được xây dựng
nên phải nhằm mục đích nhất định, có nội dung xác định và phục vụ những
đối tượng giao tiếp cụ thể. Như vậy, bài văn của học sinh khép về mặt hệ
thống cấu trúc nhưng lại mở về mặt giao tiếp.
Một khâu quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc dạy tiếng theo
quan điểm giao tiếp là phải dạy học sinh lí thuyết cơ sở về đoạn văn (vì văn
bản là một hệ thống hoàn chỉnh gồm nhiều đơn vị liên kết với nhau tạo nên
văn bản hoàn chỉnh là đoạn văn). Từ đó, hướng dẫn các em phương pháp để

thực hành rèn luyện kĩ năng viết bài. Nói cách khác, dạy tiếng Việt và Làm
văn là cung cấp cho các em công cụ giao tiếp và rèn luyện kĩ năng giao tiếp.
Trong luận văn này, chúng tôi rất chú trọng nguyên tắc hướng vào hoạt
động giao tiếp. Do vậy, đề xuất đề tài: “Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong
bài văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông” tức là chúng tôi
muốn hướng tới việc rèn luyện kĩ năng đặt vấn đề trong giao tiếp bằng văn
bản (cả văn bản nói và văn bản viết) cho học sinh Trung học phổ thông.
1.3. Logic học
Mục đích của bất kì ngành khoa học nào cũng là phục vụ con người,
bởi vậy trong từng ngành đều cố gắng khám phá ra một cách đầy đủ hơn, sâu
sắc hơn các lĩnh vực của hiện thực xã hội và tự nhiên. Trên bước đường phát
triển của mình, mặc dù mỗi ngành khoa học đều có đối tượng riêng, phương
pháp nghiên cứu riêng, cách thức thể hiện riêng…Nhưng chúng đều có một
12
cơ sở chung. Một trong những bộ môn khoa học nghiên cứu cơ sở chung này
chính là logic học.
Trước đây, nhiều người cho rằng các vấn đề về logic gắn liền với tất cả
các ngành khoa học nên sẽ quá rộng nếu coi logic học một trong những tiền
đề lí thuyết của việc Làm văn.
Gần đây, chúng ta lại nhận ra rằng, trên con đường xây dựng lí thuyết
của Làm văn, ngày càng nhiều vấn đề của Làm văn gắn liền với logic. Từ
khâu ra đề bài, chấm bài, rèn luyện kĩ năng, giảng dạy lí thuyết của giáo viên
đến lập dàn ý, dựng đoạn, viết bài…của học sinh. Ở đâu cũng cần sử dụng
những hiểu biết về logic học. Các thao tác tư duy được nghiên cứu trong logic
học như: Suy diễn, chứng minh, kiểm nghiệm, bác bỏ…đã và đang sử dụng
triệt để trong Làm văn. Không nắm được các thao tác tư duy, không nắm
được những quy luật cơ bản của logic học…không thể tạo dựng được bài văn
chặt chẽ, mạch lạc về nội dung và rõ ràng, trong sáng về diễn đạt. Vì vậy, việc
coi logic học là một trong những tiền đề của việc làm văn là hoàn toàn có cơ sở.
Các vấn đề của bài văn nghị luận mà chúng ta đang xét như tìm ý, lập

dàn ý, làm bố cục, viết bài…đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với lí luận
về logic. Khái quát nên cấp độ kiểu loại có thể rút ra nhận xét: “Lí luận và tư
duy logic là đặc trưng nổi bật của văn nghị luận” (Tài liệu tham khảo hướng
dẫn giảng dạy Tập làm văn cấp 3 – phổ thông – tập 1). Bởi vậy, gắn với tư
duy là nguyên tắc nổi bật và hết sức quan trọng của bộ môn Làm văn. Tư duy
sắc sảo sẽ giúp người viết phân tích thấu đáo, cặn kẽ và khái quát đầy đủ
chính xác thể hiện khả năng làm chủ, kiến giải và xử lí vấn đề.
Sách Làm văn 12 nêu nhận định: “Nghị luận là vận dụng tư duy và
ngôn ngữ. Khoa học về tư duy là logic học, khoa học về ngôn ngữ là ngôn
ngữ học. Song không nhất thiết phải giỏi logic mới suy nghĩ đúng và phải
thạo ngôn ngữ mới nói viết tốt…Tuy vậy, cũng cần biết qua một vài thao tác
chính của văn nghị luận”. Thực tiễn giảng dạy cho thấy khi các em tư duy tốt
13
trước khi nói hoặc viết (suy nghĩ kĩ vấn đề, nắm chắc nội dung vấn đề cần
trình bày) thì sẽ nói và viết được lưu loát hơn.
Chúng ta đã khẳng định chắc chắn ở trên rằng logic học là khoa học cơ
sở của Làm văn nói chung, văn nghị luận nói riêng. Chính vì vậy, phần mở
bài – trọng tâm của đề tài này – logic học cũng mang ý nghĩa to lớn.
Như đã biết: Logic đòi hỏi sự chặt chẽ để tạo nên sức thuyết phục.
Muốn lập luận chặt chẽ cần những thao tác cơ bản: Nêu luận điểm, phân tích
dẫn chứng phù hợp, chứng minh sự thuyết phục của luận điểm bằng luận cứ
và đưa ra kết luận cuối cùng. Như vậy, phần mở bài là khâu đầu tiên của lập
luận và có nhiệm vụ nêu vấn đề. Xác định luận đề là việc xác định nội dung
của bài viết, mục đích cũng như hướng khai triển bài viết.
Bởi vậy, chú trọng đến phần mở bài là thao tác đầu tiên trong quá trình
tạo lập văn bản như một tất yếu không thể thiếu được để đảm bảo bài viết
triển khai đúng hướng; các lập luận trong bài đảm bảo tính chính xác, làm
sáng rõ vấn đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu.
1.4. Lí luận văn học
Một trong những nội dung quan trọng của việc làm văn là xây dựng các

văn bản có nội dung văn học. Ngay từ những lớp học ở Tiểu học, chúng ta đã
gặp những lí thuyết về việc xây dựng các loại văn miêu tả, tường thuật, kể
chuyện…Tới cấp Cơ sở và lên cấp Trung học, học sinh lại tiếp tục được học lí
thuyết về xây dựng các văn bản nghị luận văn học. Điều này chứng tỏ rằng
một trong những nội dung quan trọng của việc Làm văn là xây dựng các văn
bản có nội dung văn học. Bởi thế một hệ quả tất yếu là muốn xây dựng được
các văn bản văn học, đặc biệt là các văn bản của lí luận văn học, học sinh
không thể không nắm những vấn đề cơ bản của lí luận văn học. Nhưng những
vấn đề đó không thể đưa thẳng vào Làm văn mà cần phải được chắt lọc, lựa
chọn và thông qua lí thuyết Làm văn đến với học sinh. Vì thế có thể nói rằng,
lí luận văn học, mặc dù không gắn với tất cả các vấn đề của Làm văn mà chỉ
14
có quan hệ trực tiếp với các văn bản văn học – một trong những nội dung
quan trọng của việc Làm văn – vẫn là một tiền đề lí luận không thể thiếu
trong lí thuyết Làm văn.
Nhìn lại nội dung Làm văn ở nhà trường Trung học về mảng nghị luận
văn học, chúng ta thấy từ nhiều năm nay đều xoay quanh một số vấn đề như:
Phân tích nhân vật, phân tích cốt truyện, phân tích kết cấu, phân tích nghệ
thuật… (Được gọi chung là phân tích tác phẩm); phân tích các vấn đề văn học
sử: Giai đoạn văn học, quan điểm văn học, phương pháp sáng tác…Tất cả
những vấn đề trên của lí thuyết Làm văn gắn liền với các vấn đề lí luận văn
học như: Nhân vật, cốt truyện, phương pháp sáng tác…Để giải quyết tốt
những vấn đề được đặt ra trong bài văn nghị luận văn học, rõ ràng là cần phải
nắm chắc những vấn đề lí luận văn học. Đây là tri thức nền không thể thiếu
đối với người viết văn bản nghị luận văn học. Thiếu những tri thức này khi
làm văn nghị luận thì chẳng khác nào việc chơi cờ mà “chưa sạch nước cản”.
Đã nói đến làm văn nghị luận văn học là đụng chạm tới những thuật
ngữ, những khái niệm, những quan điểm, những lí thuyết…của lí luận văn
học. Chỉ có thể hiểu một cách đầy đủ, chính xác, rõ ràng những vấn đề cơ bản
nhất của lí luận văn học mới có cơ sở để làm bài tốt.

Như vậy, để có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra trong một bài nghị
luận văn học, học sinh phải có những kiến thức tối thiểu về lí luận văn học.
Những kiến thức này sẽ giúp cho học sinh định hướng được nội dung viết,
xác định được chính xác vấn đề cần trình bày trong bài làm của mình. Nhưng
cũng cần nhớ rằng bài làm văn không phải là bài kiểm tra lí thuyết về lí luận
văn học mà đó là sự vận dụng, thể nghiệm những lí luận đã nắm được ở bộ
môn lí luận văn học vào giải quyết những vấn đề cụ thể được đặt ra. Chính vì
đặc điểm này nên chúng ta có thể nói rằng lí luận văn học là một tiền đề lí
thuyết cho Làm văn – làm các văn bản văn học.
15
1.5. Tâm lí – giáo dục học
Trước hết, khoa tâm lí học sư phạm nghiên cứu đặc điểm tâm lí lứa
tuổi, khả năng tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng ở các độ tuổi khác
nhau. Học sinh Trung học phổ thông là học sinh có trình độ, năng lực tư duy
đã phát triển tương đối toàn diện và khá cao. Chương trình giáo dục ở nhà
trường phổ thông trải qua nhiều cấp học đã cung cấp cho các em một lượng
kiến thức khá phong phú. Nhưng nhiệm vụ của dạy học là phải không ngừng
phát triển cho các em về: Nhận thức, năng lực tư duy…Cho nên ở Trung học
phổ thông việc thông qua dạy tiếng Việt, Làm văn để tiếp tục phát triển tư
duy cho học sinh vẫn là cần thiết.
Quá trình viết một bài văn nghị luận cho học sinh là một quá trình thực
hiện một chuỗi các thao tác: Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn mở bài,
viết thân bài, viết kết bài. Như vậy, viết đoạn văn mở bài là một thao tác bắt
buộc và có ý nghĩa quan trọng trong viết bài văn nghị luận. Để thao tác này
đạt tới sự thuần thục, nhuần nhuyễn, thiết nghĩ cần kết hợp giữa dạy lí thuyết
và hướng dẫn học sinh thực hành qua hệ thống bài tập.
Để đạt được kĩ năng viết đoạn mở bài, trong giai đoạn đầu chúng tôi
hướng dẫn các em nắm được các phương pháp viết đoạn mở bài theo những
mô hình thường gặp những yêu cầu bắt buộc về nội dung và hình thức của nó.
Trong khi xây dựng hệ thống các nguyên tắc và phương pháp dạy – học

bộ môn, phương pháp dạy – học tiếng cũng tìm thấy những tiền đề chung do
giáo dục học quy định. Một trong những nguyên tắc dạy học mà chúng tôi chú
ý là nguyên tắc vừa sức. Với đối tượng học sinh Trung học phổ thông bên
cạnh việc cung cấp những phương pháp gắn với những bài tập cơ bản để
luyện tập, rèn luyện kĩ năng viết đoạn mở bài; mặt khác, chúng tôi còn cung
cấp cả loại bài tập tạo ra sức sáng tạo ở các em.
16
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Về chương trình
Chương trình dùng làm cơ sở đề xuất phương pháp rèn kĩ năng viết
đoạn mở bài trong bài văn nghị luận của chúng tôi là chương trình Sách giáo
khoa Ngữ văn mới Trung học phổ thông. Chúng tôi dựa vào mục tiêu cần đạt
và nội dung kiến thức được quy định trong chương trình để định ra hướng đề
xuất các kĩ năng viết đoạn mở bài cho bài văn nghị luận.
Dựa vào mục tiêu chương trình, dựa vào kiểu bài nghị luận, chúng tôi
cố gắng tạo ra những hình thức để rèn kĩ năng viết đoạn mở bài. Nghị luận là
một loại văn chính được học nhiều trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông.
Nó được ứng nhiều trong đời sống. Việc rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị
luận nói chung, kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận nói riêng sẽ
có tác dụng góp phần đắc lực thực hiện mục đích của quá trình dạy văn.
Trong chương trình giảng dạy phân môn Làm văn ở Trung học cơ sở
các em đã có dịp làm quen với việc viết văn nghị luận. Tuy với mức độ đơn
giản song các em đã sơ bộ nắm bắt được bản chất các kiểu bài, đồng thời
cũng rèn luyện các thao tác cơ bản để làm văn nghị luận. Những vấn đề lí
thuyết và thực hành đã được rèn ở lớp dưới về bài văn nghị luận sẽ tiếp tục
được củng cố, bổ sung, nâng cao để hoàn chỉnh các tri thức về Làm văn. Cũng
thông qua việc rèn luyện này học sinh với khả năng lĩnh hội và tự sản sinh ra
văn bản của riêng mình sao cho phù hợp với mục đích, hoàn cảnh và điều
kiện giao tiếp. Hơn nữa, học sinh còn tự biết đánh giá, tự điều chỉnh cách
hành văn để phù hợp với các đề bài khác nhau của kiểu bài nghị luận nói

riêng và xây dựng văn bản nói chung.
2.2. Về sách giáo khoa
Những vấn đề lí thuyết và thực hành kiểu bài văn nghị luận trong Sách
giáo khoa Ngữ văn và một số sách tham khảo vừa là những gợi ý vừa là
17
những định hướng cho việc đề xuất các kĩ năng cũng như cách xây dựng hệ
thống bài tập rèn luyện cho học sinh.
Kết quả khảo sát phần Làm văn về văn nghị luận trong chương trình
Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao Trung học phổ thông chúng ta tổng kết
được như sau: Lớp 10 có 5 tuần, lớp 11 có 19 tuần và lớp 12 có 26 tuần vừa
học lí thuyết vừa thực hành. Trên cơ sở những tiết dạy lí thuyết đã chú trọng
nhiều hơn đến các tiết luyện tập và thực hành nhằm giúp học sinh nắm vững
kiến thức và viết bài thuần thục, đạt hiệu quả cao.
Chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao được soạn theo
nguyên tắc đồng tâm. Đồng tâm không có nghĩa là sự lặp lại giản đơn tạo nên
chồng chéo, trùng lặp. Đồng tâm là nguyên tắc sư phạm vừa phản ánh tính nối
tiếp và phát triển của hệ thống tri thức, vừa phản ánh một số quy luật nhận thức
theo trình độ tâm, sinh lí của lứa tuổi. Trong tổng số 51 tuần về văn nghị luận ta
nhận thấy phần văn nghị luận xã hội đã được ưu ái nhiều hơn trong chương trình
Sách giáo khoa hiện nay. Giữa ba khối lớp có sự kết hợp hài hoà của hai loại văn
nghị luận, nhờ đó, học sinh được ôn luyện một cách nhuần nhuyễn hơn.
Nhìn vào chương trình biên soạn bộ Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao
dành cho lớp 10, 11, 12 như trên có thể nhận định một cách khái quát rằng
văn nghị luận ngày càng được “thay da đổi thịt”. Trong đó, chú trọng hơn
vào quá trình luyện tập, thực hành bên cạnh việc giảng dạy lí thuyết cho học
sinh một cách logic và ngắn gọn, dễ hiểu nhất.
2.3. Tình hình dạy học môn Làm văn ở các trường Trung học phổ
thông
Môn văn trong nhà trường tựu chung lại nhằm vào hai nhiệm vụ cụ thể
sau đây: Thứ nhất, trang bị cho học sinh những tri thức để hiểu được, hiểu

đúng các vấn đề văn học (bao gồm: Tác phẩm, tác giả, các giai đoạn văn
học…). Có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp của
tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận, cũng như năng lực biết đánh giá một
18
cách đúng đắn, khoa học các hiện tượng văn học đồng thời bước đầu nhận
thức được quy luật vận động của văn học trong lịch sử. Thứ hai, song song
với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng
sản sinh ra văn bản (nói và viết).
Làm văn (Tập làm văn) là môn học hướng tới nhiệm thứ hai này. Nó
giúp học sinh hình thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn.
Cuốn sách Phương pháp dạy học văn, tập 2, GS.TS Phan Trọng Luận
viết rằng: Trong phong trào cải tiến giảng dạy văn học ở nhà trường phổ
thông nhiều thập kỉ qua, hầu như phân môn được quan tâm nhiều nhất là
Giảng văn. Và phân môn ít được chú ý nhất là môn Làm văn. Về mặt nào đó
cũng có lí của nó. Tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm văn chương là một vấn đề
khoa học và nghệ thuật phức tạp và tinh tế. Tỉ lệ thời gian dành cho Giảng
văn trong chương trình lại lớn. Đây cũng là một mảnh đất có nhiều vấn đề,
nhiều người có thể có ý kiến… Dù sao đó cũng chỉ là một cách nghĩ. Môn
Làm văn, bản thân nó cũng có đầy đủ lí do và dữ kiện để được nhìn nhận một
cách thoả đáng hơn nếu không muốn nói là được quan tâm đặc biệt hơn, cả về
phương diện lí thuyết lẫn thực tiễn, về phương diện dạy cũng như học, về yêu
cầu cần đạt tới cũng như hiệu quả thực tế thu lượm được nhiều năm qua…
Phải thừa nhận rằng đây là một phân môn còn nhiều mắc mớ nhất. Nhiều
năm nay, giáo viên lâu năm cũng như giáo viên mới vào nghề đã phản ánh, kiến
nghị. Đồng chí Đỗ Kim Hồi, một giáo viên lâu năm vừa là một người làm công
tác giảng dạy văn có nhiều kinh nghiệm ở thủ đô đã có một nhận xét xác đáng:
Ai đã quan tâm đến tình hình học văn trong các trường Trung học phổ thông đều
thừa nhận rằng Tập làm văn đang là một trong những vấn đề nhức nhối nhất. Rõ
ràng là phân môn này đang đứng trước một loạt sự nghịch thường. Cái phân môn
chắc phải coi là có lịch sử lâu đời trong các môn học, cái phân môn đáng lẽ phải

tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nhất và thành quả vào lúc này hoá ra lại ít ỏi và
mong manh cũng vào bậc nhất. Và trong bộ môn Văn, những nguyên tắc dạy
19
học văn đúng đắn như gắn với đời sống, phát huy tính tích cực chủ động sáng
tạo của học sinh…tưởng đâu phải tìm mảnh đất gieo trồng thích hợp nhất nơi
Tập làm văn thì lại mới chỉ được bàn luận và thực hiện nhiều trong các khu vực
Giảng văn. Lại nữa, Tập làm văn, cái phân môn kết tinh đầy đủ hơn cả nguyên lí
học đi đôi với hành và phân môn bộc lộ rõ nét hơn cả nhân cách học sinh thì
cũng lại là phân môn đang chịu bạc bẽo…
Phải thừa nhận rằng lí thuyết Làm văn trong nhà trường của ta chưa có
được những bước tiến lí luận đáng tin cậy so với công trình trước đây của một
số nhà sư phạm như Nghiêm Toản, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm…
Một quan niệm thật sự nhất trí về vị trí môn Văn ở nhà trường phổ
thông đến nay vẫn chưa có được. Tình trạng ấy biểu hiện khá rõ trong cách
xác định vị trí của môn Làm văn trong chương trình phổ thông cũng như
trong chương trình bộ môn phương pháp dạy văn và phương pháp dạy tiếng ở
đại học.
Từ khi có cải cách trong dạy và học môn Làm văn ở nhà trường Trung
học phổ thông, thì việc dạy lí thuyết nhằm rèn luyện kĩ năng cho học sinh
được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt với phương châm lấy người học làm trung
tâm giờ dạy đã phát huy được vai trò của học sinh. Đây là đóng góp đáng kể
cho bộ môn Làm văn nói chung, giúp hình thành những kĩ năng cho học sinh
khi làm những văn bản phục vụ giao tiếp.
Chương trình Tập làm văn được xây dựng khá quy mô, hệ thống như
một môn học hoàn chỉnh có mục tiêu, phương pháp dạy học riêng biệt. Trên
cơ sở đó đã biên soạn được bộ Sách giáo khoa và hệ thống tài liệu tham khảo
tương ứng phù hợp, bước đầu đáp ứng được việc dạy học của phân môn. Dạy
học Tập làm văn đã kết hợp được việc hoàn chỉnh các tri thức về Tập làm văn
với nâng cao năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ so với các cấp học
trước cho học sinh. Về phương pháp dạy học, chương trình cũng đã nhấn

mạnh thực hành, hướng tới thực hành giao tiếp và bước đầu có sự quan tâm.
20
Về phía giáo viên, vấn đề cấp thiết đặt ra là cần phải cải tiến phương
pháp giảng dạy hiện nay. Phương pháp này mắc những khuyết điểm phổ biến
là coi nhẹ thực hành, còn giáo điều, học vẹt, giờ lên lớp đơn điệu, giáo viên
nặng về giảng giải và học sinh thì thụ động nghe, ghi chép. Việc cải tiến
phương pháp cần chú ý ba khâu chính để khắc phục những khuyết điểm trên :
Chúng ta phải coi trọng việc rèn luyện, thực hành và hoạt động ngoại khoá,
chú ý phát triển năng lực, trí tuệ của các em, cải tiến phương pháp để giờ văn
được sinh động, hấp dẫn. Rõ ràng học sinh có thể hoạt động được nhiều hơn
và tốt hơn nếu phương pháp dạy của giáo viên có khả năng làm cho học trò
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo vận dụng tổng hợp các tri
thức vào thực tiễn. Muốn đạt được kết quả như vậy bắt buộc người giáo viên
phải tìm tòi, sáng tạo trong quá trình dạy học để tìm ra phương pháp dạy học
tối ưu.
2.4. Nguyên nhân và thực trạng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị
luận của học sinh Trung học phổ thông
Trên thực tế, qua khảo sát chất lượng dạy học môn Làm văn nói chung
chúng tôi thấy kết quả thu được chưa cao, giáo viên thường có tâm lí “ngại
ngùng nhất là dạy Làm văn”. Thậm chí có người còn gọi đây là môn học “Ba
K” : “Khó, khô, khổ”. Còn học sinh thường tỏ ra không có hứng thú khi học
Làm văn, nhất là phần văn nghị luận xã hội, các em thường có chung tâm lí
“biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.Nếu như tình hình dạy học môn Làm văn nói
chung còn nhiều vấn đề cần trăn trở thì phần mở bài trong bài văn nghị luận
nói riêng còn rơi vào tình trạng thảm bại hơn rất nhiều. Phần này thường bị
xem nhẹ và không dành thời gian ôn tập hay rèn luyện. Chính vì vậy đã dẫn
tới tình trạng có rất nhiều bài văn mở đầu khô khan, lạc đề hoặc không tạo
hứng thú cho người đọc…
Nguyên nhân khách quan chủ yếu: Thứ nhất, những tài liệu nghiên cứu
về phần mở bài còn hiếm hoi, chưa có sự lưu tâm thoả đáng. Điều đó khiến

21
cho quá trình soạn giảng của giáo viên đối với phần này còn chưa sâu, sát; thứ
hai, thời gian phân bố giảng dạy của bộ môn Văn nói chung, Tập làm văn nói
riêng còn nhiều hạn chế. Với các kiểu bài chỉ có một hoặc hai tiết giới thiệu
khái quát và sơ lược nghĩa là bao gồm cả phương pháp, kĩ năng được trình
bày lồng vào lí thuyết kiểu loại. Còn lại đa phần thời gian môn Tập làm văn là
dành cho các em học sinh viết bài; giờ lập dàn ý, tìm hiểu đề thường không
có, giờ trả bài thường không đủ thời gian. Rõ ràng, giáo viên thấy học sinh
chưa đáp ứng đủ từng yêu cầu với mỗi phần trong bài hay toàn bài có cố gắng
lắm cũng chỉ đi được những phần trọng tâm (thân bài). Giáo viên khi hướng
dẫn học sinh viết phần mở bài thường chỉ giới thiệu rất sơ lược các nội dung
phải trình bày. Đôi khi hướng dẫn học sinh viết phần này, không ít giáo viên
tỏ ra lúng túng khi phải chỉ ra những bước cụ thể để viết được mở bài một
cách thành thục. Cũng có những giáo viên tâm huyết với nghề thì hướng dẫn
học sinh một vài kĩ năng để viết phần mở bài nhưng chủ yếu dựa vào chủ
quan của bản thân mình, cốt sao giới thiệu được vấn đề còn chủ yếu tập trung
vào phần nội dung. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến
một thực trạng đáng buồn là rất nhiều học sinh tỏ ra rất lúng túng khi viết văn,
mắc nhiều lỗi sai trong văn bản thông dụng và số đông học sinh tỏ ra sợ học
Tập làm văn.
Nguyên nhân chủ quan từ phía người dạy là thực tế một số giáo viên
còn coi nhẹ các giờ lập dàn ý, trả bài khiến cho học sinh không có thói quen
sửa chữa những lỗi còn hay mắc phải trong khi viết. Viết văn là quá trình luôn
cần uốn nắn, chỉ dẫn để nâng cao kĩ năng, bởi “văn ôn, võ luyện”. Mặt khác,
do thiếu thời gian giảng dạy mà phần đông giáo viên tự bằng lòng với tư
tưởng rằng các em đã học ở lớp dưới các phương pháp này. Thêm nữa, một số
giáo viên do thói quen từ xưa đến nay coi phần mở bài đơn giản chỉ là sự gợi
mở vấn đề.
22
Đối tượng thứ hai mà chúng tôi đề cập ở đây là học sinh – những chủ

thể viết các bài văn nói chung, văn nghị luận nói riêng – trong nhà trường.
Các em không chú ý đến chức năng, nhiệm vụ của phần mở bài trong bài văn,
các phương pháp viết phần này thì lơ mơ. Từ sự thiếu hụt về kiến thức cũng
như thời gian giảng dạy phía giáo viên khiến các em học sinh cũng rơi vào
tình trạng không nắm vững được cách viết một mở bài thế nào là đạt yêu cầu
chưa nói đến hay và hấp dẫn. Đa số các em căn cứ vào nội dung có sẵn của đề
bài để viết mở bài cho bài văn của mình mà không hề sáng tạo hay tìm tòi
cách viết nào khác. Tình trạng học sinh kém về khả năng diễn đạt còn khiến
cho việc viết mở bài trở nên sơ sài, tẻ nhạt, rời rạc. Các em thường lúng túng
khi làm bài, hoặc khi làm bài thiếu đi tính cụ thể, cá thể. Các em chưa được
hướng dẫn cách viết cụ thể các dạng mở bài khác nhau, để có thể so sánh thấy
được cái hay của sự sáng tạo, cái hấp dẫn ở một mở bài hay.
Từ thực tiễn trên đây chúng tôi thấy cần thiết phải có phương pháp dạy
cũng như học bộ môn Làm văn cho xứng đáng với vị trí vốn có của nó. Khi
đó cũng cần có phương pháp phù hợp để dạy học sinh viết đoạn mở bài đạt
yêu cầu và hay.
23
CHƯƠNG II
RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN MỞ BÀI TRONG BÀI VĂN
NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. VĂN NGHỊ LUẬN
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày
những ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng
để làm rõ một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (người nghe)
hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của mình và hành động theo những điều
mà mình đề xuất.
1.1. Đặc trưng của văn nghị luận
Văn nghị luận phân biệt với văn sáng tác trên nhiều phương diện.
Văn nghị luận xây dựng trên cơ sở của tư duy logic, chứ không phải
trên cơ sở của tư duy hình tượng mang tính cụ thể – cảm tính như trong loại

văn sáng tác. Nếu trong văn sáng tác, những cảm xúc của tác giả và sự mô tả
những bức tranh của đời sống chiếm vai trò quan trọng nhất, thì chúng ta bắt
gặp trong văn nghị luận những vấn đề, những luận cứ, những lí lẽ, những khái
niệm…là điều quan trọng trước nhất. Văn nghị luận không làm nhiệm vụ mô
tả đời sống (xã hội hay nội tâm con người) mà nhằm nhận biết và phân tích
đời sống bằng tư duy logic, nên nó phải tuân thủ những quy tắc chặt chẽ của
tư duy logic. Tuy thế, không nên hiểu rằng văn nghị luận chỉ toàn là khô
khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình ảnh ở đây là nằm trong hệ
thống của tư duy logic, tuân thủ trật tự của tư duy logic, chứ không phải là sự
xây dựng hoàn chỉnh bức tranh về đời sống xã hội.[18, 4]
Kết cấu của bài văn nghị luận là tuân theo trình tự của sự nhận thức và
khai triển một vấn đề trong tư duy logic, chứ không phải dựa theo mạch cảm
xúc (như trong loại trữ tình) hay cốt truyện là nhân vật (như trong loại tự sự)
hoặc theo diễn biến của xung đột (như trong loại kịch).
24
Ngôn ngữ của văn nghị luận là ngôn ngữ mang phong cách chính luận,
nó chú trọng đặc biệt đến sự chính xác và chặt chẽ vì mục đích của sự diễn
đạt trong văn nghị luận là phản ánh rõ ràng, chính xác quá trình tư duy để đạt
đến sự nhận thức chân lí cụ thể. Song ngôn ngữ chính luận cũng cần hấp dẫn,
lôi cuốn bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm, bằng sự biến đổi
linh hoạt của cách diễn đạt, của trật tự cú pháp chứ không chấp nhận sự khô
khan và đơn điệu, nhất là khi đối tượng nghị luận là các tác phẩm văn học
nghệ thuật. [18, 5]
Tập làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu của
việc học tập môn văn học trong nhà trường. Văn nghị luận giúp cho người
học sinh vận dụng tổng hợp các tri thức văn học và hiểu biết xã hội, rèn luyện
khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt, giúp cho sự phát triển tư duy
khoa học của người học sinh. Văn nghị luận nêu ra những vấn đề tư tưởng và
học thuật đòi hỏi học sinh phải vận dụng những hiểu biết lí luận và thực tiễn
để giải đáp, xây dựng cho người học sinh có phương pháp tư tưởng đúng đắn

để hiểu đúng và có thái độ đúng trước các vấn đề đó, cũng tức là giúp cho
việc chuẩn bị tiến tới những hành động đúng đắn tích cực trong cuộc sống
hiện tại và tương lai. Nói tóm lại, tập làm văn nghị luận là góp phần tích cực
vào việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách của học sinh.
1.2. Loại, kiểu bài văn nghị luận
Căn cứ vào nội dung nghị luận thì văn nghị luận được chia thành
hai loại:
Nghị luận xã hội: Là nghị luận về một vấn đề xã hội. Khái niệm xã hội
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi
hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị,
kinh tế, giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số…
Ví dụ:
25

×