Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên khoa công tác xã hội và phát triển cộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535 KB, 98 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ hiện nay, đất nước ta đang ngày càng phát triển trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống: kinh tế, văn hoá – xã hội Vì vậy đòi hỏi mỗi cá
nhân phải có rất nhiều những năng lực mới để thích ứng với cuộc sống đang
từng ngày một đổi thay. Đặc biệt đối với sinh viên thì vấn đề này cũng đang đặt
ra một cách bức thiết. Bởi vì đây là nguồn nhân lực chủ yếu để đưa đất nước
phát triển. Mặt khác, tốc độ phát triển thông tin như hiện nay đòi hỏi sinh viên
phải có những kỹ năng và phương pháp học tốt để có thể tự học và tự trau dồi
kiến thức cho mình. Khác với cách học ở phổ thông, học tập ở Đại học đòi hỏi ở
sinh viên phải có kỹ năng, phương pháp học tập mới để có tiếp nhận một lượng
kiến thức lớn. Hoạt động học tập của sinh viên là đi sâu, tìm hiểu những môn
học, những chuyên ngành khoa học cụ thể, hoạt động này mang tính độc lập, tự
chủ và tính sáng tạo cao. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là bản thân họ phải luôn
luôn tích cực và chủ động để có thể hoà nhập và tự hoàn thiện chính bản thân.
Khi bước chân vào trường Đại học họ luôn luôn phải tiếp nhận và làm
việc với lượng thông tin lớn và cường độ cao vì vậy nếu không kịp thời thích
ứng sẽ dẫn đến chỗ kết quả học tập không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng
mà xã hội đặt ra. Thêm nữa, không phải sinh viên nào cũng có điều kiện thuận
lợi như nhau trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đối với những sinh viên có
nền tảng tốt từ phổ thông (được tiếp cận với các phương tiện hiện đại, với
những đội ngũ giáo viên có chất lượng cao, ) thì việc thích ứng trở nên dễ
dàng hơn rất nhiều. Còn đối với sinh viên đến từ những vùng nông thôn, vùng
cao, vùng sâu thì đây thực sự là một điều hết sức khó khăn.
Sinh viên Khoa CTXH & PTCĐ của Trường Đại học Đà Lạt cũng nằm
trong thực trạng đó. Phần lớn họ là những người đến từ rất nhiều nơi, đặc biệt
là từ nông thôn và vùng sâu, vùng xa trên cả ba miền (Bắc – Trung – Nam). Họ
là những sinh viên học trong một ngành còn rất mới mẻ, điều này cũng là một
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


thử thách hết sức lớn lao đối với bản thân họ. Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên
trong Khoa nhiều thầy/ cô còn khá trẻ nên việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy
và thực hành còn có những hạn chế nhất định. Việc mời giảng các cán bộ giảng
dạy từ bên ngoài hiện nay cũng khá nhiều nên thường dẫn đến thực trạng là
thiếu chủ động trong việc tổ chức giảng dạy. Tất cả những điều đó đã phần nào
tác động đến hoạt động học tập của sinh viên. Từ những thực trạng trên, chúng
tôi đã nghiên cứu đề tài “Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
Khoa Công tác xã hội và Phát triển Cộng đồng trường Đại học Đà Lạt”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
3.Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên, phân
tích các nguyên nhân của thực trạng và trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị
sư phạm nhằm nâng cao mức độ thích ứng với hoạt động học tập cho sinh viên.
4.Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu. Cụ thể là làm rõ các khái
niệm sau: Sự thích ứng, hoạt động học tập, sự thích ứng với hoạt động học tập
của sinh viên.
4.2.Nghiên cứu thực trạng sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên Khoa CTXH & PTCĐ thuộc Đại học Đà Lạt
4.3.Phân tích một số tác động chủ yếu và những nguyên nhân ảnh hưởng
đến sự thích ứng đó.
4.4. Đề xuất một số những kiến nghị sư phạm nhằm giúp sinh viên nhanh
chóng thích ứng và thích ứng tốt với hoạt động học tập của sinh viên.
5.Khách thể và phạm vi nghiên cứu.
5.1.Khách thể nghiên cứu: Gồm 228 sinh viên của 3 khoá (năm thứ nhất:
82 sinh viên, năm thứ 2: 75 sinh viên, năm thứ 3: 71 sinh viên),
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
50 cán bộ giảng dạy và quản lý (trong đó bao gồm: Khoa CTXH &

PTCĐ và các khoa: Đông phương học, Lịch sử, Khoa sư phạm, Khoa Ngữ văn,
và một số cán bộ mời giảng dạy của Khoa CTXH & PTCĐ).
5.2.Phạm vi nghiên cứu:
+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên (chứ không nghiên cứu sự thích ứng học đường trong môi trường đại học)
+ Chỉ nghiên cứu sinh viên của Khoa CTXH & PTCĐ tại Đại học Đà Lạt.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên khoa CTXH & PTCĐ thuộc Trường Đại học Đà Lạt thích ứng
học tập ở những mức độ khác nhau. Sự TƯHT có tương quan thuận với nội
dung học tập, phương pháp học tập, điều kiện học tập và quan hệ với thầy cô và
bạn bè.
Có sự khác biệt về TƯHT giữa sinh viên năm I, II, III, giữa các kết quả
học tập khác nhau và giữa các địa bàn sinh sống của sinh viên trước khi vào đại
học.
7.Phương pháp nghiên cứu
7.1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Tìm đọc, phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài nghiên cứu. Từ đó xác định nội dung của các khái niệm cơ bản, xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2.Phương pháp quan sát:
Dự giờ tại một số lớp được nghiên cứu để quan sát việc học tập của sinh
viên ở trên lớp và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Quan sát một số hoạt động học tập ngoài giờ của sinh viên (tại thư viện
khoa, thư viện trường), các cuộc thảo luận nhóm.
Quan sát việc sinh viên gặp gỡ trao đổi với giảng viên trong giờ nghỉ giải lao
về những vấn đề có liên quan đến môn học, bài học hay việc học tập nói chung.
7.3.Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đề tài sử dụng hai bảng hỏi: một bảng hỏi dành cho sinh viên và một

bảng hỏi dành cho giáo viên.
+ Bảng hỏi dành cho sinh viên: Sử dụng các câu hỏi đóng để sinh viên
lựa chọn các ý kiến phù hợp với mình, câu hỏi mở để thu thập những đánh giá,
góp ý và đề xuất của sinh viên. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng câu hỏi kết hợp
(đóng và mở) để thu thập những thông tin phong phú thêm nhằm phục vụ cho
việc nghiên cứu. Chúng tôi mô tả cụ thể trong chương 2.
+ Bảng hỏi dành cho giáo viên: gồm có 17 câu hỏi nhằm thu thập thông
tin để so sánh với kết quả thu được từ bảng hỏi dành cho sinh viên.
7.4.Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia đã và đang nghiên cứu về vấn
đề liên quan đến sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên. Ngoài ra còn
tham khảo ý kiến của những cán bộ làm quản lý về đào tạo đối với sinh viên,
những người có kinh nghiệm giảng dạy sinh viên.
7.5.Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)
Lựa chọn một sinh viên có mức độ thích ứng tốt và một sinh viên có mức
độ thích ứng trung bình, và một sinh viên thích ứng ở mức độ kém để làm nghiên
cứu sâu và mô tả về quá trình thích ứng của họ từ khi vào trường Đại học.
7.6.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Thu thập kết quả học tập của các năm học trước để so sánh với mức độ
thích ứng với hoạt động học tập.
7.7.Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn: + 20 sinh viên trong 3 khoá (chủ yếu là những sinh viên làm
cán bộ phụ trách học tập, cán bộ Đoàn, ) và 3 sinh viên có mức độ thích ứng
tốt nhất, trung bình và kém nhất (sau khi chúng tôi đã tính điểm tổng của các
chỉ số thích ứng học tập).
Phỏng vấn: Một số cán bộ giảng dạy và quản lý của Khoa CTXH &
PTCĐ và một số cán bộ giảng dạy kiêm nghiệm nhằm thu thập những thông tin
bổ sung cho kết quả thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

7.8.Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này được sử dụng để xử lý, phân tích, đánh giá các kết quả
thu thập được bằng các phương pháp nêu trên. Chúng tôi sử dụng chương trình
SPSS 12.0 để xử lí kết quả thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Cụ thể là để:
- Tính tần suất, phần trăm kết quả thu được
- Tính Giá trị trung bình, Độ lệch chuẩn và Hệ số tương quan Pearson (r)
(nhằm chỉ rõ mức độ có liên hệ hay không liên hệ của 2 hay nhóm đại lượng
nào đó theo kiểu tuyến tính).
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Năm 1968, một số tác giả Liên xô (cũ) N.D. Carsev, L.N.Khadecva,
K.D.Pavlov đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp trong
đó họ đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học sinh với
chế độ học tập và rèn luyện trong nhà trường. Những phản ứng sinh lý, những
biến đổi của các hệ số tương quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh được
tác giả quan tâm và đã chỉ ra những biến đổi cụ thể.
Năm 1969, E.A.Ermolaeva, nghiên cứu “Đặc điểm thích ứng xã hội và
nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm”. Tác giả đã đưa ra khái
niệm “thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động với những đặc điểm
và điều kiện lao động trong tập thể nhất định” và đã đưa ra chỉ số cho sự thích
ứng nghề nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm.
Năm 1971, X.A.Kughen và O.N. Nhicandov, đã nghiên cứu sự thích ứng
với hoạt động lao động của các kỹ sư trẻ. Các tác giả này đã đưa ra nhiều mức
độ thích ứng khác nhau
Năm 1972, D.A.Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng.
Tác giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học,

đặc biệt bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện
đại để nghiên cứu vấn đề thích ứng. Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc biệt
của cá nhân với điều kiện, hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những điều kiện
mới một cách không gượng ép. Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa về thích ứng:
“là một quá trình tạo ra một chế độ hoạt động tối ưu có mục đích của nhân
cách, tức là con người vừa thích nghi với điều kiện mới, vừa phải chủ động
thâm nhập vào những điều kiện đó để xây dựng một chế độ hoạt động mới, phù
hợp và đáp ứng những yêu cầu của điều kiện mới”.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra, trong cuốn “Con người và xã hội”, Andreeva đã so sánh khái
niệm “thích ứng và xã hội hóa”. Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự khác biệt
nhau về nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của con
người. Thích ứng nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trường mới.
Còn “xã hội hóa”, về cơ bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân.
Từ đây, vấn đề thích ứng luôn được gắn liền với hoạt động có đối tượng
cụ thể. Hai quá trình này diễn ra đồng thời trong đó thích ứng là tiền đề để cho
hoạt động có hiệu quả của nhân cách với vai trò xã hội này hay khác.
A.I.Serbacov và A.B.Mudric đã nghiên cứu “sự thích ứng nghề nghiệp
của người thầy giáo” và đã nêu lên quan niệm chung về sự thích ứng của người
thầy giáo. Những yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến hiệu quả
của sự thích ứng đó”
Năm 1980, trong tạp chí “Những vấn đề tâm lý học” số 4, A.A.Krintreva đã
trình bày những nghiên cứu của mình về những đặc điểm tâm lý của sự thích ứng
đối với sản xuất ở những học sinh mới ra trường, ở các trường trung cấp, kỹ thuật
chuyên nghiệp và các trường phổ thông trung học. Tác giả cho rằng: thích ứng là
quá trình làm quen với sản xuất, là quá trình gia nhập dần vào sản xuất. Krintreva
cũng đưa ra một số chỉ số đặc trưng của sự thích ứng nghề nghiệp là:
+ Sự thích ứng nhanh chóng nắm vững chuyên ngành sản xuất, các chuẩn
mực kỹ thuật.

+ Sự phát triển tay nghề
+ Vị trí xã hội trong tập thể.
+ Sự hài lòng đối với công việc và vị thế của mình trong tập thể.
Năm 1925, Harvey Carr cho rằng học tập là một công cụ quan trọng được
con người sử dụng để thích nghi với môi trường. Ông đã tập trung nghiên cứu
hành vi thích nghi. Theo ông, hành vi thích nghi gồm 3 thành phần: 1/Một động
lực dùng như một kích thích cho hành vi (ví dụ: đói, khát); 2/Một khung cảnh
môi trường hay hoàn cảnh mà sinh vật ở trong đó; 3/Một phản ứng thoả mãn
động lực kia (ví dụ: ăn, uống)
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Do tầm quan trọng của nó, vấn đề thích ứng của sinh viên với hoạt động
học tập đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình ở nước ngoài cũng như ở
trong nước. Chẳng hạn, năm 1971, V.I.Alaudie và A.L.Meseracov, trên cơ sở
nghiên cứu quá trình hình thành hoạt động học tập của các sinh viên thuộc
Khoa Tâm lý học - Đại học tổng hợp Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích
ứng của sinh viên đại học với hoạt động học tập thực chất là khả năng tổ chức
quá trình phát triển của người học, tiếp cận được với hệ thống tri thức và kinh
nghiệm lịch sử xã hội. Như vậy, thích ứng ở đây được hiểu là khả năng tự tổ
chức học tập của người học.
Năm 1986, A.V.Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề thích
ứng học tập của sinh viên. Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên là một
quá trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt như: 1/Thích nghi với hệ thống học tập
mới; 2/Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/Thích nghi với các mối
quan hệ mới. Các nội dung này đã được chúng tôi sử dụng và cụ thể hoá trong
nghiên cứu.
Năm 1990, ở Mỹ, B.P. Allen đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của
sinh viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở
trường đại học. Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập của
sinh viên là hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Sử dụng quỹ thời gian cá

nhân; 2/Kỹ năng hình thành các hành động học tập và các phẩm chất khác (như
tâm thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập; 3/kỹ năng làm chủ các
cảm xúc tiêu cực; 4/kỹ năng chủ động luyện tập và hình thành các thói quen
hành vi mang tính nghề nghiệp. Theo cách hiểu này, sự thích ứng (hay không
thích ứng của sinh viên được giải thích chủ yếu do sinh viên có (hay thiếu) một
số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức trong hệ thống giáo dục
của nhà trường đại học.
Ở trong nước đã có một số nghiên cứu bước đầu về những vấn đề cụ thể
của thích ứng học tập ở sinh viên đại học của GS.TS.Nguyễn Quang Uẩn,
PGS.TS.Nguyễn Thạc, PGS.TS Hà Nhật Thăng; GS.TS.Nguyễn Ngọc Phú.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra có một số các đề tài Luận văn Thạc sỹ và Tiến sỹ về vấn đề thích ứng
được tiến hành nghiên cứu trong những năm gần đây. Cụ thể là:
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ mang tên
“Bước đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục”.
Tác giả đã đưa ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp
của giáo viên tâm lý – giáo dục.
Nguyễn Thị Trang (1982), trường Đại học Sư phạm Hà Nội với đề tài “Bước
đầu tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý học giáo dục”
Hoàng Trần Doãn (1983), với luận văn Thạc sỹ: “Sự thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên khoa văn và toán trường Đại học Sư phạm Hà Nội I”
Trịnh Ngọc Tân (1986) với đề tài “Bước đầu tìm hiểu kết quả của một số
biện pháp nâng cao tốc độ thích ứng học tập của sinh viên năm thứ nhất”
Từ năm 1994 – 1996 đã triển khai công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ
với đề tài “Sự thích nghi với hoạt động học tập của học sinh tiểu học” của tập
thể cán bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Tâm – Sinh lý học lứa tuổi, thuộc Viện
khoa học giáo dục do TS. Vũ Thị Nho làm chủ nhiệm.
Lê Thị Hương (1998), với luận văn Thạc sỹ “Nghiên cứu sự thích ứng với
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng Sư phạm Thanh Hoá”

Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: “Sự thích ứng của sinh viên đối với học
tập và rèn luyện của học viên các trường Sỹ quan quân đội”
Năm 2000, Phan Quốc Lâm với Luận án Tiến sỹ “Sự thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh lớp I”
Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề
tài “Nghiên cứu sự thích ứng của sinh viên năm thứ nhất Đại học quốc gia Hà
Nội với môi trường Đại học” do PGS.TS. Trần Thị Minh Đức là Chủ nhiệm đề
tài v.v
Có thể nói rằng hiện nay cũng đã có nhiều đề tài quan tâm nghiên cứu
vấn đề thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên. Tuy nhiên, vấn đề này
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chưa bao giờ được quan tâm nghiên cứu ở trường Đại học Đà Lạt. Vì vậy,
chúng tôi đã chọn để nghiên cứu với mong muốn góp phần nhỏ bé làm rõ thực
trạng thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập trong trường, qua đó tìm ra
các biện pháp nhằm giúp họ thích ứng tốt nhất để nâng cao chất lượng học tập.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1.Khái niệm thích ứng
1.2.1.1.Một số lý thuyết về sự thích ứng tâm lý
*Thuyết Tâm lý học hành vi và vấn đề thích ứng
Tâm lý học hành vi do J. Watson khởi xướng với luận điểm cơ bản: tâm
lý học đích thực phải lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu chứ không phải là ý
thức. Theo quan điểm của những người theo dòng phái này, về nguyên tắc, các
quy luật và cơ chế thích ứng ở người giống động vật, chỉ có khác là môi trường
sống của con người có thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc xã
hội. Sự thích ứng người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng không có sự
khác biệt về chất so với động vật. Do đó, khi nghiên cứu sự thích ứng của con
người vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản của tiến hoá sinh học: thích
nghi với môi trường và sống còn, liên kết và phân hoá các chức năng của
chúng, kinh nghiệm loài và cá thể Sự thích ứng của con người chỉ phức tạp

hơn của động vật về mặt số lượng.
Thừa kế quan điểm của các nhà tâm lý học động vật, J. Watson cho rằng
để tồn tại, cá nhân có một hệ thống hành vi, ứng xử có được do học tập. Trong
đó từng hành vi cụ thể có cơ sở là các kinh nghiệm, hành vi cũ và động lực là
sự thích ứng. Đó là quá trình cá nhân học được những hành vi mới cho phép nó
giải quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của cuộc sống. Sự kém thích ứng là
không học được hoặc hành vi học được không đáp ứng được yêu cầu của môi
trường. Việc học tập được J. Watson xem xét dưới góc độ hình thành kinh
nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm ). Với lý luận hành vi, ông coi con người
là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học, đáp ứng với những
đòi hỏi của môi trường xung quanh.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sau này các tác giả: E.C. Tolman, K. Hull đã bổ xung một số khái niệm
mới: hành vi học tập xã hội, hành vi học theo quan sát, và tự thưởng, tự phạt
để hình thành một trường phái mới. Chủ nghĩa hành vi mới với đặc trưng là đã
đưa các yếu tố xã hội vào để giải thích sự thích ứng tâm lý ở người. Về bản
chất vấn đề cũng không thay đổi, cả hai đều đồng nhất các quy luật của sự thích
ứng con người và động vật.
Sau này lý thuyết hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý
học hành vi nhận thức mà tiêu biểu là W.Mischel. Trường phái này chú trọng
vai trò của nhận thức con người trong quá trình thích ứng. Ông đã nhìn nhận
hành vi thích ứng một cách đầy đủ toàn diện hơn. Cùng với việc chú ý đến vai
trò của yếu tố bên trong, Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể thích
ứng.
Mặc dù chưa vạch ra được bản chất đích thực của sự thích ứng tâm lý ở
người, chủ nghĩa hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải quyết
vấn đề.
*Tâm lý học nhân văn và vấn đề thích ứng
Tâm lý học nhân văn đại diện là A.Maslow. Ngược lại với chủ nghĩa

hành vi, trường phái này lấy nhân cách là đối tượng nghiên cứu, xem nhân cách
là một hiện tượng chỉ có ở người, là một hệ thống mở nhưng trọn vẹn và tự thể
hiện. Đó là năng lực bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tin vào bản thân và tương lai.
Động lực thực sự của hành vi thích ứng là nhu cầu hướng thiện, vị tha, vì xã
hội. Thích ứng là những ứng xử tích cực của cá nhân với tư cách là chủ thể với
thế giới xung quanh và với chính mình.
A.Maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những cái vốn có của cá
nhân trong những điều kiện sống nhất định. Sự không thích ứng chính là sự
không được tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách. Tiền đề để tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách,
được sắp xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu
bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được thoả mãn [33]. Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng
(của phân tâm học) hay quá trình học tập (của chủ nghĩa hành vi), nhưng
Maslow có quan niệm khác về yếu tố quy định sự thích ứng. Theo ông, nhu cầu
“tự thể hiện” mong muốn phát triển hết mức khả năng vốn có của bản thân và
năng lực lựa chọn một cách có ý thức những mục tiêu hành động của nhân cách
là yếu tố quyết định sự thích ứng của con người.
Tâm lý học nhân văn đã coi trọng tính tích cực, trọn vẹn và phẩm chất tự
đánh giá của nhân cách trong quan hệ cá nhân – xã hội. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng biện pháp tác động đến sự thích ứng tâm lý nói
chung và thích ứng với hoạt động học tập nói riêng. Đó là tư tưởng tiến bộ của
dòng phái này.
*Tâm lý học phát sinh và vấn đề thích ứng.
Đại diện trường phái này là J.Piaget. Trong cuộc sống con người, theo
J.Piaget có hai loại hoạt động gắn liền với nhau: hoạt động tâm lý và hoạt động
sinh học. Trong đó, hoạt động tâm lý có nguồn gốc sinh học. Cá thể chỉ tồn tại
và phát triển trong mối tương tác giữa cơ thể và môi trường từ đó tạo ra sự cân

bằng giữa cơ thể và môi trường, và cuối cùng cơ thể thích ứng với môi trường.
[19].Theo tác giả, thích ứng có 3 cấp độ:
+ Thích ứng sinh học (thích ứng vật chất) làm cho cơ thể bằng xương
bằng thịt tồn tại và phát triển có thể nhận thức trực tiếp qua các giác quan.
+ Thích ứng tâm lý (thích ứng chức năng), nó có nguồn gốc sinh học
+ Thích ứng trí tuệ, theo Piaget, trí tuệ không phải là cái có ngay từ đầu
khi đứa trẻ mới sinh. Nó là kết quả của sự tương tác giữa cơ thể và môi trường.
Trí tuệ không phải là bẩm sinh. Trong quá trình tương tác giữa cơ thể và môi
trường, con người tự tạo ra trí tuệ của mình. Mỗi người tương tác như thế nào
thì tạo nên trí tuệ theo hướng đó. Trí tuệ được hình thành và phát triển. Tuy
nhiên, Piaget luôn khẳng định, trí tuệ có nguồn gốc sinh học, cái sinh học nó
tương tác với môi trường tạo nên sự cân bằng, thích ứng. Trí tuệ là sản phẩm
của quá trình thích nghi của cơ thể với môi trường. Để giải thích cơ chế hình
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thành trí tuệ, Piaget đã dùng 4 khái niệm có nguồn gốc sinh học để mô tả, đó là:
đồng hoá, điều ứng, sơ đồ, cân bằng
Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lý luận về sự thích ứng tâm
lý ở con người và cơ chế phát triển của thích ứng nhận thức, về những yếu tố
ảnh hưởng đến nó. Tuy nhiên, Piaget đã nhìn nhận sự phát triển tâm lý dưới
góc độ thích nghi sinh học, ông chủ yếu chú ý tới mặt hình thức của sự thích
ứng mà chưa quan tâm đúng mức đến bản chất, nội dung xã hội – lịch sử của sự
thích ứng tâm lý người. Ông đã đánh giá quá cao yếu tố thành thục trong sự
thích ứng và sự thích ứng diễn ra như thế nào chứ chưa coi trọng vấn đề làm
thế nào để phát triển sự thích ứng ở trẻ em cũng như các giai đoạn lứa tuổi
khác.
*Phân tâm học và vấn đề thích ứng
Người khởi xướng là S.Freud (người Áo). xuất phát từ cách nhìn sinh vật
học đối với nhân cách, theo đó, nhân cách là một cấu trúc tổng thể trọn vẹn với
3 thành tố “cái nó” (Id), “cái tôi” (ego), và cái “siêu tôi” (superego) có vai trò

và chức năng khác nhau đối với đời sống của con người. Theo S.Freud, hành vi
sống của con người có hình thức căn bản và được thúc đẩy bởi bản năng mà
quyết định là bản năng tính dục và bản năng xâm chiếm Tuy nhiên, cái bản
năng này luôn bị cấm đoán bởi cái xã hội (cái siêu tôi). Để tồn tại, con người
phải đạt được sự cân bằng, sự hài hoà giữa hai cái đối lập “cái nó” và cái “siêu
tôi” – đó chính là sự thích ứng. Sự thích ứng là sự thoả mãn hợp lý trong những
điều kiện xã hội nhất định của các bản năng tình dục. Sự phát triển “cái tôi”
nhân cách là kết quả của sự thích ứng qua các giai đoạn khác nhau của đời sống
cá thể. Lý thuyết phân tâm cổ điển của S.Freud xuất phát từ quan điểm sinh vật
luận nên không phát hiện được bản chất xã hội - lịch sử của sự thích ứng ở con
người.
Sau này, một số những người kế tục S.Freud đã xây dựng nên trường phái
phân tâm hiện đại như: C. Jung, E. Fromm và E. Erikson. Các ông cho rằng lý
thuyết S.Freud quá đề cao “cái nó”, cái bản năng trong hành vi con người. Theo
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
họ, “cái tôi” có vai trò quan trọng trong sự thích ứng cá nhân, là chủ thể của
hành vi chứ không chỉ là phương thức thoả mãn “cái nó”. Khác với Freud, các
nhà phân tâm học hiện đại đã coi trọng vai trò của quan hệ xã hội đối với các
hành vi thích ứng của cá nhân. E. Fromm cho rằng: “cần phải xem xét hành vi
thích ứng của cá nhân từ tính chất xã hội của môi trường” và E. Erikson thì
nhấn mạnh thêm “sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan hệ xã hội của cá
nhân với những người xung quanh”. [35].
Ứng dụng lý thuyết phân tâm cũ và mới, các nhà tâm thần học theo Freud
chú ý tới giải thích bản chất và cơ chế của sự thích ứng tâm lý. Con người
không phải là một ngoại lệ sinh học. Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa bé tự nhận
ra là nó đối lập với các đòi hỏi do xã hội đặt ra, đồng thời cũng là sản phẩm của
những đòi hỏi đó. Sự lớn lên của đứa trẻ một mặt vừa là quá trình thích nghi về
mặt sinh học và thích ứng về mặt tâm lý. Ví dụ điển hình được đưa ra là một
đứa trẻ đói thoả mãn cơn đói bằng phương thức bú sữa mẹ. Sau đó người lớn

(mẹ) bắt nó phải ăn các thức ăn với phương thức mà nó chưa có. Đầu tiên nó
chống lại vì không phù hợp. Sau đó, sự trưởng thành về cơ thể cho phép nó ăn
được thức ăn đặc, mặt khác, mẹ nó đòi hỏi nó phải ăn những thức ăn mới này.
Với đứa bé, mẹ là hình thái đặc trưng của xã hội đối với nó, ứng xử mới của trẻ
(ăn) là kết quả của sự thích nghi và thích ứng để sống còn và phát triển an toàn.
Theo đó, quá trình thành thục và phát triển của trẻ em là một quá trình xảy ra
các thích ứng và thích nghi để hình thành những ứng xử mới, giúp nó xử lý
thích hợp mâu thuẫn giữa cái đã có với những yêu cầu, đòi hỏi của môi trường
và thoả mãn nhu cầu bản thân. Nhân cách là tổng thể tất cả các ứng xử của một
cá nhân. Thích ứng của con người là khả năng duy trì quan hệ giữa cá nhân với
môi trường sống của mình; được xác định bằng mức độ thoả mãn các nhu cầu
cơ bản và tính có thể chấp nhận được về mặt xã hội của hệ thống ứng xử của
người đó. Vì vậy, thực chất quá trình hình thành nhân cách là quá trình cá nhân
thích ứng với xã hội.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Động lực của sự thích ứng là “lo hãi” bản năng của cá nhân trước các tình
huống mới lạ, cái mà con người thường xuyên gặp phải và “lo hãi” là cái không
thể loại trừ. Vấn đề là con người thường xuyên phải đối phó với “lo hãi” bằng
sự thích nghi và thích ứng để có hành vi phù hợp với tình huống. Để có chúng,
bên cạnh sự thích nghi, ở cá nhân phải có sự thích ứng mà thực chất là sự đối
phó với tình huống bằng các phương thức tâm lý khác nhau gồm có: phóng
chiếu, chuyển dịch, huyễn tưởng, thoái lui, cắm chốt, thăng hoa, Nhờ các
phương thức này, con người làm giảm nhẹ lo hãi, tạo thế cân bằng động với
môi trường và tạo ra sự hài hoà trong quan hệ giữa bản thân với người khác.
Mỗi một hành vi ứng xử đặc thù của cá nhân trước một tình huống mới là kết
quả tổng hoà của cuộc sống và thoả mãn các nhu cầu của chính mình. Sự không
thích ứng sẽ tạo ra những stress và là căn nguyên của đa số các trường hợp
bệnh lý tâm căn.
Mặc dù chưa giải thích được bản chất của sự thích ứng của con người,

phân tâm học chứa đựng những điểm hợp lý cần được chú ý về mặt lý luận và
thực tiễn của vấn đề. Đó là vai trò của vô thức, bản năng xung đột tâm lý trong
quá trình thích ứng, hậu quả của việc thích ứng và cách thức giải toả hậu quả
này.
*Tâm lý học Mác xít và vấn đề thích ứng.
Cùng với việc phê phán cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học Macxít giải
quyết vấn đề theo một hướng hoàn toàn khác. Một mặt, thừa nhận con người
phải thích nghi với môi trường sống như là một sinh vật “vì con người là một
tồn tại tự nhiên, nên đương nhiên nó không thể đứng ngoài sự tác động của
môi trường”. Mặt khác, khẳng định con người là một thực thể xã hội nên “phải
đặt vấn đề” một cách khác: khi nói về con người, tức là vấn đề quan hệ “người
xã hội” trở thành vấn đề chủ yếu, thì cái gì là nội dung mới của vấn đề “cơ thể
- môi trường”
L.X. Vygotxki đã chỉ rõ “Quá trình một đứa trẻ bình thường ăn nhập nền
văn minh thường quyện thống nhất với các quá trình cơ thể chín muồi. Hai bình
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
diện phát triển - tự nhiên và văn hoá - nhập vào nhau, tạo nên một sự hình
thành thống nhất xã hội – sinh vật của nhân cách trẻ” [6; tr.131]. Từ quan niệm
về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn hoá trong sự phát triển
của trẻ em, L.X.Vygotxki đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất của sự thích
nghi của con người. Ông khẳng định: “Con người có một hình thức thích nghi
mới và đây là cơ chế cân bằng chủ yếu của cơ thể với môi trường, dạng thức
hành vi này nảy sinh trên cơ sở các tiền đề sinh vật nhất định, nhưng đã vượt ra
ngoài phạm trù sinh vật, tạo nên một hệ thống hành vi có chất lượng khác và
theo một tổ chức mới”. L.X.Vygotxki gọi dạng thức hành vi chuyên biệt người
này là “hành vi cấp cao” [6; tr.130]. Hệ thống hành vi cấp cao này khác biệt về
chất lượng so với hành vi sinh vật. Trước hết là ở các kích thích tạo ra chúng.
Con người, khác với các động vật khác, tự tạo ra các kích thích tác động vào
bản thân mình. Hơn thế nữa, con người còn dùng các kích thích tự tạo này để

làm chủ hành vi của chính mình: “Con người tự kiểm soát hành vi của chính
mình bằng các kích thích – phương tiện tự tạo” [6; tr.134]. Các kích thích –
phương tiện được Vygotxki coi là chìa khoá để giải quyết bản chất vấn đề thích
ứng tâm lý ở người; là vấn đề có tính nguyên tắc phân biệt phương thức thích
ứng ở động vật và người. Theo ông, thích ứng theo nguyên tắc tín hiệu (phản
xạ có điều kiện) là loại thích ứng chung cho cả người và động vật. Nhưng ở
người, đây không phải là phương thức thích ứng đóng vai trò chủ đạo. Phương
thức thích ứng đóng vai trò chủ đạo ở người có nguyên tắc khác hẳn, không có
ở động vật, đó là nguyên tắc dấu hiệu. Quá trình tín hiệu hoá phản ánh các mối
quan hệ tự nhiên đảm bảo cho cơ thể đáp ứng kích thích của môi trường. Việc
dấu hiệu hoá cho phép con người có khả năng tạo ra một loại cân bằng mới với
môi trường - biến đổi chính môi trường và biến đổi hành vi của chính mình với
tư cách là một chủ thể tích cực. Dấu hiệu là công cụ tâm lý để chủ thể điều
chỉnh hành vi. Dấu hiệu cũng như công cụ vật chất là khí quan xã hội, được
hình thành trong lịch sử loài người. Cùng với dấu hiệu, “cuộc sống xã hội tạo ra
tất yếu buộc hành vi cá thể phải tuân thủ các yêu cầu xã hội” [6; tr.138]. Đó là
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
loại hành vi đặc thù được quy định bởi xã hội. Để có chúng, cá nhân cần phải
lĩnh hội từ xã hội. Mặt khác, để điều khiển những hành vi này cần có những
nguyên tắc chuyên biệt người, đó là nguyên tắc tự kích thích và làm chủ bản
thân. Nguyên tắc này có được ở cá nhân cũng nhờ sự chuyển hoá từ tác động xã
hội bên ngoài thành tác động xã hội ở bên trong con người. L.X. Vygôtxki viết:
“Mọi chức năng trong phát triển văn hoá của trẻ xuất hiện trên vũ đài hai lần,
trong hai bình diện – lúc đầu trong bình diện xã hội rồi sau đó trong bình diện
tâm lý, lúc đầu giữa con người với con người, rồi sau ở bản thân trẻ, tức là có
sự chuyển hoá từ ngoài vào trong, dần dần thay đổi cấu trúc và chức năng” [6;
tr.156]. Với việc phát hiện ra dạng thức cấp cao của hành vi người, cơ chế của
sự hình thành và điều khiển nó ở cá nhân. L.X.Vygôtxki đã thấy sự khác biệt
cơ bản của sự thích ứng tâm lý – xã hội ở người và sự thích nghi sinh học ở

động vật. Theo đó, sự thích ứng của trẻ em trong môi trường xã hội một quá
trình kép. Một mặt trẻ hình thành các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt khác,
hình thành các chức năng tâm lý cấp cao để trở thành chủ thể của các hành vi
đó. Cả hai mặt của quá trình này đều được thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền
văn hoá – xã hội. Những tư tưởng đúng đắn, biện chứng của Vygôtxki đã được
các nhà tâm lý học Xôviết kế thừa, phát triển và cụ thể hoá. Quan điểm của ông
cũng là kim chỉ nam cho việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của
luận văn này.
Xuất phát từ những luận điểm cơ bản của tâm lý học Macxit được khởi
xưởng bởi Vygôtxki, A. N.Leonchiep đã phân tích sự khác biệt cơ bản giữa
phát triển của con người với sự thích nghi của cá thể sinh học về nội dung và
cơ chế. Ông viết “Phải nhấn mạnh riêng về sự khác biệt giữa quá trình ấy (tiếp
thu, lĩnh hội ) với quá trình cá thể thích nghi với môi trường tự nhiên, vì gần
như mọi người chấp nhận rằng, có thể đem khái niệm thích nghi, cân bằng với
môi trường dùng nguyên vẹn vào cho sự phát triển cá thể người. Nhưng dùng
khái niệm ấy vào cho người mà không có sự phân tích cần thiết, thì chỉ làm lu
mờ sự phát triển thực sự của người” [8; tr.94]. A.N. Leonchiev chỉ rõ “Sự khác
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
biệt cơ bản giữa các quá trình thích nghi theo đúng nghĩa của nó và các quá
trình lĩnh hội, tiếp thu là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là quá trình thay
đổi các thuộc tính của loài và năng lực của cơ thể và hành vi của cơ thể. Quá
trình lĩnh hội hay tiếp thu thì khác. Đó là quá trình mang lại kết quả: cá thể tái
tạo lại được những năng lực và chức năng người đã hình thành trong quá trình
lịch sử” [8; tr.95]. Và, “những năng lực và chức năng hình thành ở con người
trong quá trình ấy là các cấu tạo tâm lý mới. Đối với những cấu tạo này, các cơ
chế và quá trình bẩm sinh, di truyền chỉ là điều kiện cần thiết bên trong (tiền
đề) giúp cho các cấu tạo tâm lý mới có thể xuất hiện” [8; tr.96]. Ông thừa nhận:
“sự phát triển của con người cũng mang tính chất môi trường (tức là phụ thuộc
vào những điều kiện bên ngoài), nhưng khác với tiến hoá động vật, sự phát

triển của con người không phải là quá trình thích nghi hiểu theo nghĩa của từ
này” [8; tr.99]. Như vậy, bản chất và nội dung của sự thích ứng của người và sự
thích nghi sinh vật có sự khác biệt về chất. A.N.Leonchiev cũng vạch ra sự
khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và người. Ở động vật,
hành vi được hình thành bởi kinh nghiệm loài và cá thể, trong đó sự hình thành
kinh nghiệm cá thể là đem hành vi loài thích nghi với những yếu tố biến động
của môi trường bên ngoài. Còn ở người, hành vi được hình thành bằng cơ chế
lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Tất nhiên, cơ chế lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử - xã hội quan hệ chặt chẽ với cơ chế kinh nghiệm cá thể.
Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa thích nghi sinh vật với thích
ứng xã hội – tâm lý của con người, A.N.Leonchiev đã đặt nền móng cho việc
nghiên cứu hiện tượng này về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Với các phạm trù cơ bản: Hoạt động, ý thức và nhân cách, tâm lý học
Mác xít đã giải quyết lý luận vấn đề lý luận về sự thích ứng tâm lý một cách
khoa học và toàn diện.
Quá trình thích ứng tâm lý của con người gắn liền với quá trình hình
thành nhân cách. Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành hai mặt
chủ thể của thích ứng tâm lý. Nhờ nhân cách, sự thích ứng tâm lý trở thành một
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quá trình tích cực. Trong đó, con người không chỉ đáp ứng tác động của môi
trường mà còn cải tiến nó một cách tích cực. Tuy nhiên, sự thích ứng không
đồng nhất với sự hình thành nhân cách. Đó là quá trình tương tác biện chứng
giữa nhân cách và môi trường xã hội mà cả hai phía đều có sự thay đổi để trở
nên phù hợp với nhau, đặc biệt là phía nhân cách. Vì vậy, sự hình thành nhân
cách và mức độ của nó không tất yếu quyết định mức độ thích ứng của cá nhân.
Nhưng sẽ không có sự thích ứng nếu không có sự hình thành nhân cách ở trình
độ nhất định. Vì vậy, có những người có nhân cách cao nhưng không thích ứng
được trong những điều kiện môi trường xã hội nhất định hay người nhân cách
mang bản chất của xã hội này nhưng có thể thích ứng với môi trường xã hội có

bản chất khác.
Sau này một số các nhà Tâm lý học mác xít cũng tiếp tục nghiên cứu vấn
đề này, tiêu biểu như: E.A. Ermolaeva, A.I.Serbacov, A.V.Mudric,
D.A.Andreeva, E.A.Golomstooc,
E.A. Ermolaeva đã định nghĩa và đưa ra những chỉ số đặc trưng cho sự
thích ứng nghề nghiệp gồm: 1/Những chỉ số khách quan: chất lượng lao động,
trình độ nghề nghiệp, mức độ kỷ luật, địa vị xã hội; 2/Những chỉ số chủ quan:
mức độ hài lòng về công việc, điều kiện trong công việc. Bà còn chỉ ra được
thời điểm mà sự thích ứng xuất hiện, đó là: “Khi làm quen với điều kiện mới đó
kéo theo những sự tiêu tốn sức lực nhất định”. Mặc dù chỉ nghiên cứu lĩnh vực
thích ứng lao động, nhưng ý kiến của E.A. Ermolaeva góp phần làm sáng tỏ
thêm lý luận về sự thích ứng, nhất là vấn đề chỉ số của sự thích ứng. [12; tr.47]
D.A.Andreeva phân biệt rõ các khái niệm thích ứng và thích nghi sinh
học. Bà nhấn mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhưng cần chú ý phân biệt
chúng. Nếu đem khái niệm thích ứng với ý nghĩa thích nghi sinh học vào giải
thích các hiện tượng xã hội thì dĩ nhiên sẽ sai lầm vì thích nghi sinh học chỉ sự
đồng hoá của cơ thể đối với những tác động từ bên ngoài và là sự xây dựng lại
trạng thái của cơ thể do những tác động đó để tồn tại trong điều kiện môi
trường thay đổi, còn thích ứng tâm lý ở người có ý nghĩa khác biệt về chất. Cần
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiểu “thích ứng” là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới,
là sự thâm nhập của nó vào điều kiện đó một cách không gượng ép. Bà chỉ rõ:
“Sự thích ứng của con người phải làm sao góp phần cho con người thoát khỏi
sự phụ thuộc có tính chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khỏi
vòng tù hãm trực tiếp của cơ thể” [13; tr.47]. D.A.Andreeva cho rằng: “Có thể
xem thích ứng là một quá trình xây dựng chế độ hoạt động tối ưu và có mục
đích của nhân cách” [12; tr.47]. Như vậy ta thấy, bà đã phân biệt rõ thích ứng
tâm lý người với thích nghi sinh học, đưa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập
trường thích nghi sinh học, xem xét nó dưới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn

toàn vào địa hạt của tâm lý học người.
Tóm lại, bằng cách tiếp cận khoa học về vấn đề thích ứng, các nhà tâm lý
học mác xít đã chỉ ra được bản chất hoạt động, nội dung xã hội - lịch sử, tính
tích cực và các chỉ số của hiện tượng thích ứng ở con người. Theo nghĩa đó, lý
luận tâm lý học mác xít về bản chất hoạt động của sự thích ứng tâm lý là cơ sở
lý luận và phương pháp luận cơ bản của chúng tôi khi tiếp cận, nghiên cứu vấn
đề thích ứng học tập của sinh viên.
*Tiếp cận hệ thống về sự thích ứng của con người
Tiếp cận hệ thống là hướng tiếp cận giúp chúng ta gắn kết những tiêu chí
có thể dùng để giải thích sự thích ứng và không thích ứng của con người. Quan
điểm hệ thống nhấn mạnh về những tương tác giữa các yếu tố cấu thành hơn là
tập trung vào mỗi yếu tố riêng biệt. Dưới đây là sơ đồ tiếp cận hệ thống sự
thích ứng của con người với môi trường nói chung của Tremblay. [4.tr16]

20
Di truyền học
Những điều kiện
tự nhiên
Những yếu tố
cấu thành gắn
với cá nhân
Thích ứng của
con người
Những yếu tố
cấu thành gắn
với môi trường
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những yếu tố gắn với cá nhân:
Di truyền học: Việc xem xét yếu tố di truyền thường cũng có rất nhiều
cách quan niệm khác nhau. Sự thích ứng dễ dàng hay khó khăn của một người

với môi trường có liên hệ với yếu tố di truyền, kiểu khí chất bẩm sinh của
người đó.
Sự phát triển của cá nhân: Theo Tremblay, sự phát triển của một cá nhân
được định nghĩa là “Tập hợp những quyết định được đưa ra bởi một người”.
Các quyết định hạnh phúc hay bất hạnh được nhóm lại và hướng một người về
sự thích ứng hay không thích ứng”.
Sự tự do cá nhân: Theo Tremblay, sự tự do – đó là “làm chủ một số
những ứng xử của mình, bất chấp những quyết định luận và những nguồn lực
bẩm sinh, di truyền, bất chấp những yếu tố gây ra cản trở và những bó buộc của
môi trường”. Tự do được giả thiết là một khả năng lựa chọn, nó được thực hiện
trong một “bối cảnh thực tế của hành động, của quyết định”. Phần tự do của
một cá nhân trong một hoàn cảnh cụ thể phản ánh “những khả năng của hành
động một giới hạn thực tiễn và một giới hạn lý tưởng, tuyệt đối”.
Các yếu tố cấu thành gắn với môi trường
Các điều kiện tự nhiên: Là môi trường mà trong đó cá nhân phát triển.
Đó là thế giới của những quy luật tự nhiên của sinh học, hoá học và những tiến
bộ công nghệ riêng của loài người. Những khác biệt không chỉ giữa các vùng
21
Sự phát
triển của cá
nhân
Sự tự do
của cá
nhân
Những
điều kiện
xã hội
Những điều kiện
xã hội vĩ mô
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trên thế giới mà còn ở từng vùng trong mỗi quốc gia và mỗi cá nhân cần phải
thích ứng với những khác biệt đó. Những tiến bộ kỹ thuật, sự phát triển vật chất
(đô thị hoá, máy tính, tệ nạn xã hội, ) là những vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có sự
thích ứng.
Các điều kiện xã hội vĩ mô: Là những hình thức mà xã hội sử dụng để
đảm bảo trật tự, ổn định, sự gắn bó của xã hội. Mục đích tự nó mang lại tính
tích cực, nhưng các phương tiện của nó tự biến đổi thành những tiêu chuẩn của
sự không thích ứng (hay kém thích ứng). Những chuẩn mực xã hội, những
khuôn mẫu, những giá trị thống trị, phong tục, những luật thành văn hay
không tất cả tạo ra những khó khăn trong sự thích ứng của con người
Các điều kiện xã hội vi mô: Là những quan hệ giữa các cá nhân trong một
nhóm nhỏ như gia đình, trường học, những người bạn, những nhóm giải trí, thể
thao, Đó là “cái vòng bao bọc trực tiếp một cá nhân, tuỳ vào những nhóm
khác nhau mà anh ta ở trong đó”. Mỗi nhóm này có cấu trúc đặc trưng của nó,
những luật, những thói quen, những quy tắc điều kiện để “hoà nhập” đối với
các thành viên. Do số lượng lớn những vai trò mà các nhóm yêu cầu thành viên
phải thực hiện nên sự thích ứng cũng là vấn đề lớn đặt ra cho mỗi cá nhân.
1.2.1.2. Định nghĩa khái niệm thích ứng
Để làm rõ khái niệm thích ứng, chúng ta cần phân biệt khái niệm này với
khái niệm thích nghi. Trong các khoa học nói chung và trong tâm lý học nói
riêng, hai khái niệm này nhiều khi được hay sử dụng đồng nhất với nhau.
Chẳng hạn như, trong cuốn từ điển Tâm lý học bằng Tiếng Anh khái niệm thích
ứng và thích nghi được hiểu là “để đáp ứng với môi trường mới”. [34]
Trong từ điển Tiếng Việt của trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), thích
nghi được hiểu là: có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh môi
trường mới. Thích ứng có hai nghĩa: 1/Như thích nghi; 2/là có những thay đổi
cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện mới. [23]
Trong Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội, Hà nội 1994), khái
niệm “thích nghi” được giải thích là “có những biến đổi nhất định cho phù hợp
22

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
với hoàn cảnh mới, môi trường mới”, còn “thích ứng” là “những thay đổi cho
phù hợp với các điều kiện mới, yêu cầu mới. Hoặc trong Đại từ điển Tiếng Việt
(Nguyễn Như Ý chủ biên) thì khái niệm “thích nghi là quen dần, phù hợp với
điều kiện mới nhờ sự biến đổi, điều chỉnh nhất định”, “còn thích ứng là phù
hợp với điều kiện mới nhờ những thay đổi, điều chỉnh nhất định” [31]
Trong từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên,
thích nghi xã hội là: 1/quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những điều
kiện của môi trường xã hội mới; 2/kết quả của quá trình trên [2]. Như vậy, theo
chúng tôi khái niệm thích nghi xã hội và khái niệm thích ứng có thể được hiểu
như nhau.
Trong Từ điển tâm lý (do Nguyễn Khắc Viện chủ biên), thích ứng và
thích nghi được dùng chung một mục, đó là: “bước đầu là điều chỉnh những
phản ứng sinh lý (thích nghi với nhiệt độ cao hay thấp, môi trường khô hay
ẩm), sau là thay đổi cách ứng xử, đây là thích nghi tâm lý” [29]
“Thích nghi xã hội là khả năng một cá nhân tiếp nhận các giá trị của một
xã hội, hoà nhập được vào xã hội ấy. Không thích nghi biểu hiện qua những
hành vì “gàn dở”, trái với tập tục, sống ngoài “rìa”, có thể dẫn đến hành động
phạm pháp” [29]
Theo PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, “Thích ứng là một quá trình hoà nhập
tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởng thành về
mặt tâm lý” [4]
Hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn cảnh
trong sự hài hoà nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, liên hệ
kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh cho phù
hợp với bản thân.
Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong
kinh nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá
nhân phải huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.
23

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự trưởng thành về mặt tâm lý xã hội: là sự thoải mái bên trong của mỗi
cá nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội.
“Quá trình thích nghi diễn ra theo 3 mức độ:
Mức độ 1: Cá nhân hoà đồng với nhóm, tổ chức bằng cách điều chỉnh các
nhu cầu, suy nghĩ, hành vi, của mình theo các chuẩn mực.
Mức độ 2: Cá nhân có những sáng kiến từng bước góp phần thay đổi
chuẩn mực
Mức độ 3: Là mức độ cao nhất và cũng là mục tiêu cuối cùng của quá
trình thích ứng cần đạt tới đó là cá nhân làm thay đổi hệ thống chuẩn mực, xây
dựng hệ thống chuẩn mực mới và có những biện pháp để duy trì chuẩn mực”
(Lê Nam Trà) [26]
Để làm rõ hai khái niệm Thích nghi và Thích ứng, chúng ta cần tìm hiểu
rõ về cơ chế của việc hình thành của chúng.
Thuật ngữ “thích nghi” được dùng trước tiên và phổ biến trong sinh vật
học. Thích nghi là một trong những phạm trù cơ bản của sinh vật học do S. Đác
uyn đưa ra dùng để chỉ các quá trình biến đổi về cấu trúc và chức năng của cơ
thể sinh vật để duy trì sự cân bằng của quan hệ cơ thể - môi trường trong điều
kiện môi trường thay đổi. Sự thích nghi diễn ra trong sự tác động qua lại giữa
cơ thể sinh vật và môi trường xung quanh bằng các cơ chế di truyền, biến dị và
chọn lọc tự nhiên của thế giới sinh vật trước sự biến đổi của môi trường.
Sự thích nghi của giới sinh vật được thực hiện với nhiều trình độ khác
nhau: đầu tiên và thấp nhất là sự thích nghi sinh học, có tính vật chất, cơ thể tác
động qua lại với môi trường một cách trực tiếp về mặt lý hoá, mà sự thay đổi
của nó chậm chạp, tạo ra những đáp ứng ổn định của cơ thể sinh học gọi là tính
chịu kích thích. Sự thích nghi này đảm bảo cho các cá thể sinh vật tồn tại trong
môi trường tương đối ổn định được nối tiếp bằng con đường sinh học, đảm bảo
một sự cân bằng trực tiếp và hạn chế giữa sinh thể với môi trường trong thời
hiện tại. Thích nghi kiểu này có ở mọi loài cá thể sinh học.
24

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong điều kiện môi trường thay đổi nhanh chóng, tính biến động cao do
di chuyển, thay đổi thời tiết, khí hậu, thức ăn, ở động vật bậc cao kể cả con
người đã hình thành một trình độ thích nghi mới cả về nội dung và hình thức,
mà biểu hiện là tính cảm ứng. Ở trình độ này, cơ thể động vật không chỉ thụ
động đáp ứng kích thích của môi trường mà còn có những phản ứng đáp lại
những kích thích đó. Trong cơ thể động vật bậc cao, hình thành một tổ chức
mới cho phép nó đáp ứng được những biến đổi loại này – đó là hệ thần kinh.
Hệ thần kinh phát triển cho phép cơ thể sinh vật có khả năng đáp ứng với
những kích thích gián tiếp, hoặc đón trước, hoặc tái tạo gần kề. Một hình thức
thích ứng cao hơn xuất hiện – thích ứng tâm lý.
Đặc trưng thích ứng tâm lý là cơ thể động vật thích ứng không chỉ với
những tác động trực tiếp mà còn với những kích thích gián tiếp có tính tín hiệu
của môi trường. Thích ứng có chung ở người, động vật và nó phát triển cùng với
sự phát triển của hệ thần kinh. Lúc đầu, nó chỉ là sự phụ thêm, động vật càng
phát triển nó càng có vai trò cơ bản, quyết định sự cân bằng giữa cơ thể và môi
trường. “Ở những động vật khác, hệ thần kinh chỉ là phụ thêm, còn ở đây nó là
nền tảng của toàn bộ tổ chức cơ thể có thể quản lý được toàn bộ cơ thể” [12].
Khi nghiên cứu hiện tượng Thích ứng tâm lý con người, người ta đã phát
hiện được một trình độ cao nhất của nó: sự thích ứng tâm lý ở người. Hình thức
mới này có sự phát triển cả về chất trong sự phát triển tâm lý nói chung - cả về
cơ chế tâm – sinh lý (hệ thống tín hiệu thứ 2) cả về mặt cơ chế xã hội. Xuất
phát từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chúng ta phân tích một
cách khoa học nội dung và cơ chế của sự thích ứng của con người.
Với lao động, con người đã tạo ra một loại môi trường mới – môi trường
xã hội với hai đặc trưng hoạt động và giao tiếp. Để tồn tại và phát triển, con
người phải thích ứng với những yêu cầu của môi trường này - phải tham gia
được các hoạt động và quan hệ. Chủ nghĩa Mác cũng chỉ ra nội dung của sự
thích ứng mới này là bằng hoạt động tích cực, con người lĩnh hội nền văn hoá
(nội dung phương thức hoạt động và quan hệ) để hình thành những ứng xử mới,

điều chỉnh những hành vi cũ phù hợp với những yêu cầu, điều kiện hoạt động
25

×