Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

nghiên cứu nguyên nhân các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang ở vùng ven biển hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.87 MB, 94 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
i
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban giám hiệu
nhà trường, các thầy cô trong Bộ môn Nuôi trồng Thủy sản - Khoa Chăn nuôi
và Nuôi trồng thủy sản Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã luôn tạo mọi
điều kiện để tôi hoàn thành khóa học.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Đức Cự - đã định hướng và tận tâm hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến các cán bộ
khoa học của Viện Tài nguyên và Môi trường Biển đã nhiệt tình dạy bảo, giúp
đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Con xin gửi lời cảm ơn đến gia đình đã động viên, chia sẻ và chu cấp cho
con trong suốt thời gian học tập và thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các bạn - những người đã luôn luôn
động viên, luôn luôn cổ vũ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập.

Hải Phòng, ngày 01 tháng 08 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Văn Chuyên

ii
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Stt
Từ
viết tắt
Diễn giải


1 GHCP Giới hạn cho phép
2 ĐNN Đất ngập nước
3 CTV Cộng tác viên
4 NNK Những người khác
5 HST Hệ sinh thái
6 RNM Rừng ngập mặn
7 NTTS Nuôi trồng thủy sản
8 CHH Chất hữu cơ
9 VSV Vi sinh vật
10 TCN Tiêu chuẩn ngành
11 TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
12 MBTB Mực biển trung bình
13 BTC Bãi triều cao
14 BTT Bãi triều thấp
15 CH - CB Cát Hải - Cát Bà
16 KST Kí sinh trùng
17 WSSV White spot syndrome virus (Bệnh vi rút đốm trắng)
18 YHD Yellow head desease (Bệnh đầu vàng)
19 MBV Monodon bacilovirus (Bệnh còi ở tôm sú)
20 ADB Asian Development Bank (Ngân hàng Phát triển Châu Á)
21 FAO
Food and Agriculture Organization
(Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc)
22 CCD Charge coupled device (Bộ cảm thụ ảnh dạng tuyến)
23 HRV
High resolution visible imaging system
(Hệ thống độ phân giải cao vùng ánh sáng nhìn thấy)
iii
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
24 WSF World shrimp farming

iv
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Diện tích đầm nuôi và RNM theo các khu vực thuộc vùng ven biển Hải Phòng ở các
mốc thời gian năm 1994, năm 2000 và năm 2008 22
Bảng 2. Biến động diện tích đầm nuôi ở Hải Phòng giai đoạn 1994 - 2008 27
Bảng 3. Mức độ xói lở bãi triều vùng ven biển Hải Phòng 28
Bảng 4. Mức độ bồi tụ ngang bãi triều ở một số điểm ven bờ Hải Phòng trong giai doạn 1994
- 2008 (m/năm) 29
Bảng 5. Mức biến động của tỉ lệ giữa tổng diện tích RNM với tổng diện tích ao đầm nuôi của
vùng ven biển Hải Phòng giai đoạn 1994 - 2008 35
Bảng 6. Diễn biến diện tích, sản lượng và năng suất nuôi tôm sú tại Hải Phòng giai đoạn 2000
- 2008 38
Bảng 7. Kết quả quan trắc môi trường nước tại một số vùng nuôi tôm sú trọng điểm Hải
Phòng giữa vụ nuôi năm 2004 39
Bảng 8. Kết quả quan trắc môi trường nước tại một số vùng nuôi tôm sú trọng điểm Hải
Phòng giữa vụ nuôi năm 2008 40
Bảng 9. Kết quả theo dõi dịch bệnh ở một số khu vực nuôi tôm sú 42
Bảng 10. Tổng lượng thải nguồn sinh hoạt khu vực ven bờ Hải Phỏng 45
Bảng 11. Tổng lượng thải nguồn công nghiệp ở khu vực ven bờ Hải Phòng 46
Bảng 12. Các chất ô nhiễm kim loại nặng trong ao nuôi tôm sú 47
Bảng 13. Các chất ô nhiễm thuốc trừ sâu Clo hữu cơ trong các vùng nuôi tôm sú tại Hải
Phòng 50
Bảng 14. Lượng dầu thải từ hoạt động hàng hải trong 52
v
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Mô hình tổng quát các bước giải đoán ảnh vệ tinh SPOT 18
Hình 2. Ảnh vệ tinh SPOT đa phổ thu ngày 24/12/1994 khu vực vùng ven biển Hải Phòng 23
Hình 3. Ảnh vệ tinh SPOT đa phổ thu ngày 14/09/2000 khu vực vùng ven biển Hải Phòng 24

Hình 4. Bản đồ hiện trạng đầm nuôi khu vực vùng ven biển 24
Hình 5. Ảnh vệ tinh SPOT đa phổ thu ngày 05/11/2008 khu vực vùng 25
Hình 6. Bản đồ hiện trạng đầm nuôi khu vực vùng ven biển Hải Phòng năm 2008 26
Hình 7. Bản đồ biến động diện tích đầm nuôi khu vực vùng ven biển Hải Phòng giai đoạn
2000 - 2008 28
Hình 8. Vị trí các ao (đầm) nuôi tôm sú quảng canh, quảng canh cải tiến 31
Hình 9. Vị trí các ao (đầm) nuôi tôm sú bán thâm canh, nuôi công nghiệp 32
Hình 10. Vị trí các ao (đầm) nuôi tôm sú đang giảm năng suất hoặc bị bỏ hoang 33
Hình 11. Biến động hàm lượng N-NO2- ở một số khu vực nuôi tôm sú tại Hải Phòng 41
Hình 12. Biến động hàm lượng dầu mỡ ở một số khu vực nuôi tôm sú tại Hải Phòng 42
Hình 13. Biến động tình hình dịch bệnh ở một số khu vực nuôi tôm sú 43
Hình 14. Biến động hàm lượng Zn2+ trong ao nuôi tôm sú ở một số vùng nuôi trọng điểm tại
Hải Phòng 48
Hình 15. Sơ đồ cấu trúc bãi triều vùng của sông ven biển Hải Phòng 54
Hình 16. Phân bố hàm lượng cacbon hữu cơ trong trầm tích bề mặt bãi triều vùng ven biển
Hải Phòng 56
Hình 17. Phân bố thế oxy hóa - khử qua tỷ số Fe3+/Fe2+ trong trầm tích bãi triều vùng ven
biển Hải Phòng 57
Hình 18. Phân bố chiều dầy lớp trầm tích màu nâu, nâu xám bề mặt trầm tích bãi triều vùng
ven biển Hải Phòng 58
Hình 19. Phân bố hàm lượng Ssunfua tổng số trong trầm tích màu nâu, nâu xám bề mặt trầm
tích bãi triều vùng ven biển Hải Phòng 59
Hình 20. Phân bố chiều dày trầm tích RNM màu xám xanh, xám nâu dưới bề mặt trầm tích
bãi triều vùng ven biển Hải Phòng 60
Hình 21. Phân bố hàm lượng Ssunfua trong trầm tích RNM mầu xám xanh, xám nâu của bãi
triều vùng ven biển Hải Phòng 60
Hình 22. Tạo màn chắn địa hóa bằng cách dải bạt xanh nhân tạo ở 76
vi
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
MỞ ĐẦU

Sự phát triển của nghề nuôi tôm thương phẩm được đánh dấu từ những năm
2000, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP cho phép chuyển đổi
phần diện tích trồng lúa, làm muối năng suất thấp, đất hoang hóa sang nuôi
trồng thủy sản (NTTS). Diện tích nuôi tôm sú trong cả nước đã tăng từ 250000
ha năm 2000 lên đến 478000 ha năm 2001, 546000 ha năm 2003 và 627000 ha
năm 2007. Chỉ trong vòng một năm sau khi nghị quyết 09 ra đời, đã có khoảng
250000 ha gồm 232000 ha ruộng lúa năng suất thấp, 1900 ha diện tích đất hoang
hóa ngập mặn được chuyển đổi thành ao nuôi tôm (Báo cáo tổng kết NTTS của
Bộ Thủy sản các năm từ 2000 - 2007). Nghề nuôi tôm ở Việt Nam diễn ra theo
hướng vừa mở rộng diện tích vừa gia tăng mức độ thâm canh, nhưng hình thức
nuôi tôm quảng canh cải tiến vẫn là chủ yếu. Diện tích nuôi tôm thâm canh tăng
trưởng nhờ sự khuyến khích của Chính phủ, các địa phương và sự tham gia của
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, cũng như nhiều nước nuôi tôm khác trên thế giới, nghề nuôi tôm
sú ở nước ta đã và đang phải đối mặt với một thách thức rất lớn là dịch bệnh mà
nguyên nhân chính là do suy thoái môi trường, ô nhiễm nguồn nước, tích lũy
mầm bệnh trong ao nuôi quá cao, khi bệnh tôm xuất hiện, các cơ sở nuôi tôm sú
tăng cường sử dụng hóa chất và thuốc kháng sinh để phòng, trị bệnh làm mất đi
hệ sinh thái tự nhiên, dẫn đến giảm sức tải môi trường của ao nuôi tôm. Vì vậy,
trong vùng nuôi ô nhiễm môi trường càng cao, tích lũy mầm bệnh càng lớn dẫn
đến dịch bệnh càng nhiều làm cho nhiều ao nuôi tôm không còn sản lượng thu
hoạch và bị hoang hóa. Theo ước tính, đến quý III năm 2008 chỉ riêng các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long, diện tích nuôi tôm đã giảm đến gần 80000 ha.
Dải ven bờ Việt Nam nói chung và vùng nuôi tôm sú ven biển Hải Phòng nói
riêng, hiện trạng ô nhiễm môi trường , tích lũy mầm bệnh, dịch bệnh ngày càng
xảy ra nghiêm trọng dẫn đến năng suất nuôi ngày càng giảm, chi phí sản xuất
tăng cao và diện tích bị bỏ hoang ngày càng nhiều. Giai đoạn 2005 - 2007 tại
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
Hải Phòng có khoảng 7000 ha nuôi tôm sú, sản lượng đạt khoảng 1114 tấn, đến

năm 2008 diện tích nuôi tôm sú giảm rất nhanh còn khoảng 4950 ha, do phần
lớn diện tích nuôi tôm sú không hiệu quả đã chuyển sang nuôi các đối tượng
khác hoặc để hoang hóa.
Từ thực tế trên, để góp một phần nhỏ vào việc tái sử dụng các ao nuôi tôm sú
bị bỏ hoang đạt hiệu quả, trong khuôn khổ của luận văn tốt nghiệp đại học, được
sự giúp đỡ, ủng hộ của các thầy cô trong Bộ môn Nuôi trồng Thủy sản - Khoa
Chăn nuôi và Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, các
cán bộ khoa học của Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Ban chủ nhiệm đề tài
“Nghiên cứu biện pháp phục hồi các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang”, đề tài cấp
Bộ giai đoạn 2009 - 2011 và nhất là sự hướng dẫn, định hướng, chỉ bảo nhiệt
tình của TS. Nguyễn Đức Cự, tôi đã mạnh dạn đề xuất và thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu nguyên nhân các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang ở vùng ven biển
Hải Phòng” với mục tiêu và nội dung sau đây:
 Mục tiêu
Góp phần đưa các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang tại vùng ven biển Hải Phòng
trở lại nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả kinh tế cao.
 Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá hiện trạng các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang do ô nhiễm môi trường
và dịch bệnh kéo dài tại vùng ven biển Hải Phòng.
- Xác định nguyên nhân các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang tại vùng ven biển
Hải Phòng.
- Đề xuất một số giải pháp phục hồi các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang tại vùng
ven biển Hải Phòng.
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
PHẦN I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nuôi tôm sú và những vấn đề nghiên cứu liên quan trên thế giới
Nuôi tôm thương mại là một ngành sản xuất tương đối mới, được phát triển
từ những năm đầu của thập kỉ 70 của thế kỉ XX. Các đối tượng nuôi chủ yếu
hiện nay là tôm sú (Penaeus monodon) và tôm he chân trắng (Penaeus

vannemei), một số quốc gia có nuôi tôm rảo (Metapenaeus ensis), tôm he mùa
(Penaeus merguiensis), tôm nương (Penaeus orientalis), tôm he Nhật Bản
(Penaeus japonicus),…nhưng sản lượng nhỏ. Trong đó, hai khu vực sản xuất
tôm lớn nhất là châu Á và khu vực Nam Mỹ (World Shrimp Farming in 1997).
Từ những năm 1980 trở lại đây, nuôi tôm theo hình thức thâm canh công nghiệp
mới thực sự phát triển để nâng cao năng suất và sản lượng. Năm 1997, khu vực
Đông Nam Á dẫn đầu về sản lượng nuôi tôm với 506035 tấn, chiếm 53,7% tổng
sản lượng tôm trên thế giới. Cả khu vực Châu Á, tổng sản lượng tôm chiếm đến
78%, sau đến châu Mỹ chiếm 21% sản lượng tôm nuôi (FAO, 1998).
Cho đến nay, các nước có sản lượng tôm nuôi đứng đầu thế giới là Trung
Quốc, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Việt Nam và Ecuado. Năm 1991, Trung
Quốc là nước đứng đầu thế giới với tổng sản lượng tôm nuôi đạt 200000 tấn
chiếm 26,1%, đứng thứ hai là Indonesia với 25,2%, tiếp đó là Thái Lan 19,8%
tổng sản lượng tôm thế giới (FAO, 2000).
Tuy vậy, việc phát triển thâm canh hóa để tăng hiệu quả đầu tư của nghề
nuôi tôm đã dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái trong các vùng nuôi tôm rộng lớn
vào giai đoạn 1991 - 2000. Hiện tượng ô nhiễm môi trường và dịch bệnh xảy ra
liên tiếp, lây lan ra diện rộng ở nhiều khu vực nuôi tôm gây thiệt hại lớn cho
người nuôi. Theo các số liệu thống kê của FAO cho thấy, sản lượng tôm nuôi
trên thế giới giảm dần từ 733000 tấn năm 1994 giảm xuống chỉ còn 660000 tấn
vào năm 2007, mặc dù diện tích nuôi được mở rộng tăng cao hơn (World
Shrimp Farming, 1997). Cũng theo thống kê của FAO, sản lượng tôm sú nuôi
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
của các nước đang phát triển đều tăng cao cả diện tích và sản lượng nuôi một
cách bùng phát từ 1990 - 1995 sau đó đều bị giảm dần so ô nhiễm môi trường và
dịch bệnh: Thái Lan sản lượng cao nhất năm 1994 đạt 265524 tấn đến năm 1997
giảm 215000 tấn mặc dù diện tích tăng cao hơn; Indonesia sản lượng cao nhất
đạt 159480 tấn vào năm 1997 và từ đó đến nay sản lượng giảm liên tục mặc dù
diện tích nuôi cũng tăng cao hơn; Trung Quốc sản lượng tôm nuôi đạt cao nhất

200000 tấn vào năm 1991 và đến năm 1994 giảm chỉ còn 63872 tấn; Philippine
năm 1997 sản lượng tôm nuôi đạt 113000 tấn và đến năm 2000 giảm xuống còn
41610 tấn; Ecuado sản lượng tôm nuôi năm 1998 đạt 147000 tấn và đến năm
2000 giảm xuống còn 79400 tấn; Ấn Độ năm 1998 sản lượng tôm nuôi 413000
tấn và đến năm 2003 chỉ còn 150000 tấn và Malaysia năm 1997 sản lượng tôm
nuôi đạt 101000 tấn đến năm 2000 chỉ còn 57000 tấn…Nguyên nhân giảm sản
lượng tôm nuôi của các nước trên thế giới là do phát triển quá nhanh (phát triển
nóng thiếu quy hoạch đồng bộ) các ao nuôi tôm làm cho môi trường bị ô nhiễm
và dịch bệnh kéo dài vào những năm 1991 - 2000, dẫn đến nhiều diện tích ao
nuôi tôm bị bỏ hoang hoặc chuyển sang nuôi đối tượng khác (FAO, 2005).
Các nghiên cứu tại Thái Lan, Philippine, Đài Loan, Ấn Độ, Trung Quốc,
Malaysia, Mexico, của tác giả Stevenson năm 1997, 1999; Griggs và Funge
năm 1994; Potaros năm 1995; Sammut và Mohan năm 1996; Sammut và Hanafy
năm 2002; Yap năm 1997; Macintosh năm 1996; Hambrey năm 1996 và nhiều
nghiên cứu khác đều cho rằng nguyên nhân chính gây ra sự giảm sút sản lượng
của các ao nuôi tôm là do ô nhiễm môi trường và bệnh, dịch. Về tác hại của
bệnh, dịch đã được nhiều nghiên cứu chỉ rõ mức độ gây hại, loại bệnh và đưa ra
một số biện pháp phòng trị,…tuy nhiên, tác hại do nguyên nhân ô nhiễm môi
trường ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng của tôm nuôi và các biện pháp phục
hồi vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng mà còn mang nhiều mô tả định tính [27].
Trước thực trạng trên, một số nước đã đầu tư tiến hành nghiên cứu xác định
nguyên nhân ô nhiễm và dịch bệnh làm suy thoái môi trường các ao nuôi tôm
dẫn đến hoang hóa và giảm sản lượng. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phục
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
hồi, tái sử dụng có hiệu quả các ao nuôi tôm bị bỏ hoang, nâng cao sản lượng
nuôi
Các tác giả đưa ra khuyến cáo tại các vùng nuôi tôm bị bỏ hoang có thể lựa
chọn một số giải pháp chung như sau để phục hồi:
- Tái tạo lại hệ sinh thái (HST) nguyên thủy trước đây của khu nuôi tôm để

đưa đất trở lại sản xuất theo các quy trình nuôi bền vừng hơn.
- Tái tạo lại HST nguyên thủy trước đây của khu nuôi tôm rồi nuôi các đối
tượng khác phù hợp hơn, bền vững hơn thay thế cho việc nuoi tôm.
- Tái tạo lại các điều kiện môi trường bên trong các khu nuôi tôm và vùng phụ
cận chung quanh, sau đó lại thiết lập lại các HST vùng đất ngập nước (ĐNN).
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu phục hồi môi trường, kiểm soát dịch bệnh và
sử dụng các mô hình nuôi có hiệu quả bền vững các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang
hoặc hiệu quả thấp trên thế giới cơ bản đã giải quyết những vấn đề sau:
1. Nghiên cứu đánh giá sức tải môi trường để nâng cao sức tải môi trường và
không làm phá vỡ sức tải môi trường tự nhiên.
2. Phòng ngừa ô nhiễm theo các vùng sinh thái.
3. Ứng dụng mô hình nuôi phù hợp với các điều kiện môi trường các vùng sinh
thái.
1.2. Tình hình nuôi tôm sú và những vấn đề nghiên cứu liên quan ở Việt
Nam
Nghề nuôi tôm của Việt Nam đã xuất hiện khoảng 100 năm nay nhưng chỉ
thực sự phát triển từ những năm 1980 khi mà sản phẩm của nghề sản xuất tôm
giống đạt được số lượng, chất lượng mang tính hàng hóa. Diện tích nuôi tôm đã
tăng nhanh chóng, năm 1985 cả nước mới chỉ có 50000 ha đưa vào nuôi tôm
biển và đến năm 1998 đã mở rộng lên đến 210000 ha với 30 tỉnh có diện tích
nuôi tôm sú (Bộ Thủy sản, 1999). Diện tích ao nuôi tôm tăng cao đột biến từ khi
có Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ là hành lang pháp lý quan trọng
cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp có hiệu quả. Thực hiện chủ
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
trương của Chính phủ, các tỉnh ven biển chuyển đổi đất hoanh hóa, đất nông
nghiệp và làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản thu nhập cao. Trong
thời gian 5 năm (2000 - 2005), diện tích nuôi tôm tăng từ 280000 ha (năm 2000)
đến 605000 ha (năm 2005), tăng gấp 2,16 lần, trung bình hàng năm diện tích ao
nuôi tôm tăng trên 23%/năm (Bộ Thủy sản, 2006).

Năm 2003, cả nước có 546757 ha diện tích nuôi tôm nước lợ thương phẩm.
Tuy nhiên, diện tích nuôi tăng nhưng năng suất tôm nuôi lại không tăng do nghề
nuôi tôm của Việt Nam đang gặp phải khó khăn lớn về môi trường, dịch bệnh
mà đặc biệt là về chất lượng nước, chất lượng con giống. Môi trường nuôi bị
biến động nhiều do lượng phù sa bồi lắng lớn, nguồn nước bị ô nhiễm; nước thải
sinh hoạt, nước thải công nghiệp, chất độc, thuốc trừ sâu, lượng đầu thải cao.
Đóng góp vào tình trạng có một phần không nhỏ của việc phát triển ồ ạt, không
quy hoạch của chính nghề nuôi tôm tạo lên. Diện tích nuôi càng mở rộng thì
năng suất nuôi càng giảm. Và cũng trong năm 2003 đó, trên cả nước, diện tích
có tôm nước lợ thương phẩm nuôi bị bệnh và chết là 30083 ha. Riêng các tỉnh
ven biển từ Đà Nẵng đến Kiên Giang có tới 29200 ha tôm nuôi bị chết nhiều,
chiếm 97,06% diện tích có tôm bị chết trong cả nước. Nguy hiểm nhất là bệnh vi
rút đốm trắng (White spot syndrome virus - WSSV), bệnh đầu vàng (Yellow
Head Desease - YHD), bệnh còi ở tôm sú (Monodon Bacilovirus), bệnh do kí
sinh trùng, bệnh do dinh dưỡng, Tại các tỉnh miền Trung, sau hơn hai thập kỉ
phát triển liên tục, nghề nuôi tôm sú hiện nay ngày càng sa sút do tốc độ đô thị
hóa mạnh mẽ cùng với dịch bệnh liên tục xảy ra, môi trường đất và nước bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Năm 2000 là thời điểm cực thịnh, cả khu vực miền Trung
có gần 20000 ha nuôi tôm sú và hàng năm diện tích nuôi giảm từ 20 - 30% diện
tích ao đầm bỏ hoang ngày càng nhiều, hiện nay chỉ còn khoảng 6000 - 7000 ha
ao đạng nuôi thả. Không ít các khu đầm nuôi tôm tại tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận đã hóa thành cánh đồng
hoang. Cà Mau và Bạc Liêu nơi có diện tích nuôi tôm lớn nhất trong nước,
những năm đầu mới nuôi năng suất đạt từ 250 - 500 kg/ha/năm thì sau đó năng
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
suất giảm dần. Năm 1986 - 1988 , diện tích nuôi tôm tại Cà Mau và Bạc Liêu
tăng từ 72200 ha lên tới 120000 ha nhưng sản lượng chỉ tăng từ 21500 tấn lên
22700 tấn. Năng suất giảm từ 297 kg/ha/năm xuống còn 153 kg/ha/năm. Nguy
hại hơn cả là các ao nuôi tôm đang bị bỏ hoang với tốc độ nhanh, năm 1988 Cà

Mau và Bạc Liêu chỉ có 3000 ha bị bỏ hoang đến năm 1992 là 8000 ha và đến
năm 1993 đã lên tới 20000 ha. Tính đến cuối tháng 04/2008, các tỉnh ven biển
Đồng bằng sông Cửu Long gồm: Tiền Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang chỉ thả nuôi 420000 ha tôm sú, giảm mạnh so
với gần 500000 ha của cùng kì năm 2000 [27]
Các vấn đề môi trường liên quan đến nuôi tôm, đó là:
- Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm ở Viêt Nam đã và đang đặt ra
những vấn đề môi trường bức xúc trước mắt và lâu dài như suy thoái rừng ngập
mặn (RNM), mất cân bằng sinh thái, nguy cơ ô nhiễm môi trường và sự phát
triển của dịch bệnh,…
- Trước năm 1943, Maurand ước tính Viện Nam có khoảng 400000 ha RNM.
Theo Phan Nguyên Hồng (1993), đến năm 1983 diện tích RNM của nước ta còn
lại khoảng 252500 ha gồm cả diện tích rừng trồng mà phần lớn tập trung ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long là 191800 ha. Năm 2000, Ngân hàng Phát triển Châu
Á (Asia development Bank - ADB) ước tính Viêt Nam chỉ còn lại khoảng
110000 ha RNM. Như vậy, trong các thập kỉ 80 và 90, Việt Nam đã bị mất
142500 ha RNM. Diện tích rừng bị mất trong thời kì này bị quy kết chủ yếu là
do phát triển NTTS.
- Sau năm 2000, một vấn đề môi trường khác đã nảy sinh, đó là chuyển đổi
đất trồng lúa, làm muối năng suất thấp và đất hoang hóa sang nuôi tôm. Việc
chuyển đổi này trước mắt không gây tác động môi trường nghiêm trọng nếu như
các hệ thống chuyển đổi sang NTTS hoạt động có hiệu quả. Nhưng một khi hiệu
quả nuôi trồng không được phát huy thì khó có thể chuyển ao trở lại các hình
thức sử dụng đất khác vì hệ vi sinh vật tự nhiên đã bị phá hủy và bị thay thế
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
bằng hệ nuôi tôm đơn canh. Trong nuôi tôm, các hóa chất, chất diệt tạp được sử
dụng đồng thời cũng là nguyên nhân phá hủy nơi sinh sống của các loài khác.
- Ngoài ra, các hiện tượng như ô nhiễm môi trường đã xuất hiện trên vùng
đầm phá thâm canh vì người nuôi ngày càng sử dụng nhiều thức ăn, chế phẩm,

thuốc và hóa chất. Mặt khác, các chất tồn đọng gây ô nhiễm môi trường làm
thay đổi cấu trúc và nhiễu loạn HST ngoài tự nhiên. Tình trạng quản lý nguồn
nước kém. Suy thoái môi trường và dịch bệnh đã làm cho các ao, đầm nuôi tôm
sú có năng suất, sản lượng giảm dần sau mỗi vụ nuôi và có thể dẫn đến bỏ hoang
rất lớn những diện tích nuôi tôm bị thua lỗ.
Như vậy, nguyên nhân dẫn đến các ao nuôi tôm bị bỏ hoang là môi trường bị ô
nhiễm, bệnh và dịch bệnh, chất lượng con giống kém, diện tích nuôi tôm phát triển
ồ ạt, thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết cho từng vùng, miền nuôi.
Để giải quyết nhu cầu của thực tiễn sản xuất, các nhà khoa học nước ta đã
triển khai nhiều công trình nghiên cứu để giải quyết các vấn đề về môi trường và
dịch bệnh, xác định một số nguyên nhân, đề xuất một số mô hình nuôi để nâng
cao hiệu quả sản xuất đồng thời giảm thiểu những ảnh hưởng của bệnh, dịch
bệnh và suy thoái môi trường trong quá trình nuôi tôm sú thương phẩm trong
nước. Những nghiên cứu, đó là: GS.TS Lâm Minh Triết, năm 2002 - 2003,
“Nghiên cứu cơ sở khoa học đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ môi trường
vùng nuôi tôm ven biển”. GS.TSKH Phan Nguyên Hồng, 1995 “Nghiên cứu và
sử dụng hợp lý HST RNM để nuôi tôm có hiệu quả”. ThS. Mai Văn Tài và ctv,
2006 “Báo cáo tổng hợp nhiệm vụ quan trắc, cảnh báo chất lượng môi trường và
dịch bệnh thủy sản miền Bắc Việt Nam năm 2006”. ThS. Nguyễn Hữu Thọ,
2007 “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự suy thoái môi trường và đề xuất
một số giải pháp sử dụng đất và nước ở các vùng nuôi tôm thâm canh và bán
thâm canh đang giảm năng suất” và nhiều những nghiên cứu của các tác giả khác.
Từ các kết quả đã đạt được đó sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu để đưa ra các giải
pháp phục hồi các ao nuôi tôm bị bỏ hoang ở những vùng ven biển nước ta.
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
Có thể nói các vấn đề còn tồn tại, hạn chế đó là thiếu các kết quả nghiên cứu
định lượng về các quá trình ô nhiễm, tích lũy dịch bệnh và suy thoái môi trường,
tác động ô nhiễm đến các sinh vật thủy sinh,…Chưa có bức tranh toàn cảnh và
kiểm kê chính xác về hiện trạng những ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang trên từng

vùng sinh thái để từ đó xây dựng những giải pháp phục hồi có hiệu quả. Các
nghiên cứu trước đây chỉ giới hạn phạm vi hẹp và cục bộ ở từng ao nuôi không
theo các vùng sinh thái để có được các giải pháp giải quyết có quy luật vấn đề
các ao nuôi tôm bị bỏ hoang, nên khi áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn ở
các vùng khác nhau không mang lại hiệu quả, các giải pháp đưa ra chưa thực sự
khả thi trước hoàn cảnh thực tế (Nguyễn Đức Cự, 2009).
1.3. Tình hình nuôi tôm sú, đặc trưng môi trường và các vấn đề nghiên cứu
liên quan ở Hải Phòng
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản (08/2007),
diện tích NTTS toàn thành phố Hải Phòng tính đến hết năm 2005 là 13427 ha
tăng gần 2,7% so với năm 2000. Phần diện tích tăng chủ yếu là ruộng trũng,
ruộng nhiễm mặn cấy lúa năng suất thấp và ruộng trũng sản xuất kém hiệu quả
chuyển đổi sang NTTS. Kết quả đạt được như sau: diện tích nuôi tôm sú là 7220
ha chiếm 53,7% tổng diện tích NTTS, diện tích nuôi tăng lên nhanh chóng
nhưng năng suất nuôi không tăng. Nhưng từ năm 2006 - 2008, diện tích nuôi
tôm sú tại các vùng nuôi tôm trọng điểm tại Hải Phòng giảm mạnh. Năm 2008,
diện tích nuôi tôm sú tại Hải Phòng chỉ còn 4950 ha (Viện Tài nguyên và Môi
trường biển, năm 2008). Năng suất nuôi tôm sú bán thâm canh ở các ao, đầm
vùng ven biển Hải Phòng còn thấp đạt 0,41 tấn/ha [tiêu chuẩn ngành là 1 - 1,5
tấn/ha (28 TCN 110:1998)], tiếp theo đó là năng suất nuôi tôm sú quảng canh
cải tiến là 0,13 tấn/ha và 1,55 tấn/ha đối với thâm canh (năm 2005). Để thúc đẩy
sản xuất nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa lớn phục vụ cho xuất khẩu tôm sú, từ
2004 - 2009 ngành thủy sản thành phố Hải Phòng đã và đang thực hiện một số
dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách tập trung [23]. Trong số đó có các dự án
nuôi tôm sú thâm canh vùng nước lợ, một số dự án tiêu biểu như:
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
- Dự án đường 14 Kiến Thụy - Đồ Sơn (quy mô 325 ha; 40,2 tỷ đồng)
- Dự án Phù Long, Cát Hải (quy mô 122 ha; 44,3 tỷ đồng)
- Dự án Đông - Tây Hưng, Tiên Lãng (quy mô 155 ha; 31,3 tỷ đồng)

- Dự án Tân Vũ, Hải An (quy mô 328 ha; 83,7 tỷ đồng)
- Dự án nuôi tôm sú công nghệ cao (91 ha, 59,9 tỷ đồng)
- Dự án Mắt Rồng (quy mô 65 ha, 15,7 tỷ đồng)
Nhưng trong quá trình triển khai việc thực hiện và kết quả của những dự án
đem lại không như mong đợi, hầu hết các dự án này đến nay vẫn chưa hoàn thành
và đưa vào sử dụng nên chưa phát huy được hiệu quả.
Hải Phòng có chiều dài bờ biển là 125 km. Nằm ven bờ phía Tây Vịnh vịnh
Bắc Bộ có tọa độ 29
o
30
΄
39
΄΄
- 21
o
01
΄
15
΄΄
vĩ độ Bắc, 106
o
23
΄
30
΄΄
- 107
o
08
΄
39

΄΄
kinh
độ Đông. Hải Phòng, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải
Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ (biển
Đông). Là khu vực chuyển tiếp giữa hai vùng tự nhiên lớn ở ven bờ Tây vịnh
Bắc Bộ [Vùng vịnh, đảo Đông Bắc (Móng Cái đến Đồ Sơn) là vùng ven bờ châu
thổ sông Hồng (từ Đồ Sơn đến Lạch Trường)] [23]. Do đó, Hải Phòng là vùng
tập trung lớn bãi triều cửa sông ven biển nước ta. Trên đó đang diễn ra những
hình thức khai thác khác như khai thác nông nghiệp, NTTS bằng đầm nước lợ,
khai thác nguồn lợi hải sản ngoài tự nhiên,…Vùng ven biển Hải Phòng có tiềm
năng rất lớn về kinh tế biển. Và để phát huy tốt lợi thế sẵn có mà thiên nhiên ban
tặng cho nơi đây, một trong những hướng đi của thành phố là nuôi trồng hải sản
mà chủ yếu nói đến nghề nuôi tôm sú. Suốt dọc chiều dài vùng ven biển, việc
nuôi tôm sú ở đây có những nét đặc trưng của sự biến đổi địa hình rất lớn, đó là:
vùng ven biển Hải Phòng có hai loại hình cửa sông khác nhau về bản chất trầm
tích đáy và môi trường nước có tác động rất gây ô nhiễm đến các ao nuôi tôm là
vùng cửa sông châu thổ và cửa sông hình phễu. Trong vùng cửa sông, sự tương
tác sông - biển là yếu tố động lực quan trong đối với sự biến động của các yếu tố
khác của môi trường, tại đây dòng triều tạo ra hiệu suất triều không chỉ ảnh
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
hưởng trực tiếp đến sự phân bố của độ muối mà còn làm biến đổi địa hình đáy
và sắp xếp lại các chất lắng đọng. Cụ thể chia các vùng nuôi tôm sú tại Hải
Phòng theo vùng sinh thái như sau:
1.3.1. Vùng nuôi tôm sú tại dải ven bờ Đông Bắc - Đồ Sơn
Địa hình nuôi ở đây thuộc dạng cửa sông hình phễu, cửa sông Bạch Đằng,
sông Cấm, sông Lạch Tray chịu tác động chủ yếu của động lực biển [1], [6],
[16], [23]. Động lực biển thống trị trong điều kiện địa chất bị ngập chìm không
được bồi tích với những đặc trưng:
- Do động lực biển thắng thế, do đó vùng cửa sông này xói lở chiếm ưu thế.

- Nước có độ mặn cao (về mùa mưa, độ mặn nước biển ở Cát Bà là 30%, cửa
sông Bạch Đằng, sông Cấm là 10 - 15%).
- Bờ bị chia cắt phức tạp bởi hệ thống luồng lạch sâu rộng kéo dài ra biển.
- Đa dạng về sinh vật.
- Đa dạng về địa mạo bờ biển.
Diễn biến của tình trạng xói lở, bồi tụ đối với việc NTTS được thể hiện:
- Các đảo Cát Bà - Long Châu: Sóng thủy triều, độ mặn nước biển là động
lực xâm thực, bào mòn và ăn mòn hóa học các bờ đá của đảo tạo lên hệ thống
vách dốc đứng, các hang luồn, các cùng bờ lớn phát triển các bãi cát, vỏ sinh
vật, các thềm san hô chất tích tụ bột sét là các bãi đặc sản có giá trị cao. Môi
trường ổn định, thuận lợi cho việc nuôi trồng hải sản với công nghệ cao.
- Đoạn ven bờ Nam Triệu - Đương Gianh: Là đoạn bờ xói lở mạnh với mức
độ lớn nhất trong toàn dải ven bờ Hải Phòng. Trong 50 năm qua, xói lở ở mực
biển trung bình (MBTB) của Cát Hải là 7 m/năm, Phù Long 5 m/năm; ở mức 0
hải đồ của Cát Hải là 32 m/năm, Phù Long là 24 m/năm. Vấn đề này có liên
quan đến phá RNM để lấn biển với mục đích nuôi trồng hải sản, trong đó có
một phần diện tích đáng kể vào nuôi tôm sú, làm thu hẹp dòng chảy và chưa có
giải pháp chống sói lở trên 8 km bờ biển phía nam Cát Hải. Trên toàn tuyến
đang xảy ra quá trình xói lở bãi triều cao (BTC), tạo nguồn vật liệu hình thành
11
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
bãi triều thấp (BTT), với các doi cát triều, delta triều lên, delta triều xuống chắn
cửa luồng vào cảng phía ngoài cửa Nam Triệu. Việc phá RNM còn làm cho mặt
bãi triều mất lớp đất bề mặt giàu chất dinh dưỡng, do đó NTTS kém hiệu quả.
- Đoạn bờ cửa Lạch Tray đến cửa Nam Triệu: Sau khi đắp đập Đình Vũ (năm
1981) đoạn bờ có xu thế bồi tụ ở Tây Nam cửa Cấm và xói lở ngang mở rộng
luồng cho dòng triều ở phần bờ phía Tây Bắc cửa Cấm, nhất là phía Đông Nam
đảo Đình Vũ. Trung bình 50 năm qua, tốc độ xói lở ở Đình Vũ ở mức 0 m hải
đồ là 4 m/năm. Dọc phía sông Cấm, tình trạng bồi tụ gia tăng. Mặt khác, nơi đây
hoạt động kinh tế cảng rất phát triển. Điều đó đã làm gây ảnh hưởng rất lớn đến

môi trường của các ao nuôi tôm sú.
- Đoạn ven bờ đồi Độc đến cửa Lạch Tray: Trong 50 năm qua xu thế bồi tụ,
xói lở chỉ là cục bộ. Tốc độ bồi lấn ở MBTB là 20 m/năm, ở 0 m hải đồ là 3
m/năm. Việc chuyển dịch đê quốc gia trên đường 14, đường bờ được đắp thẳng
đã tạo điều kiện cho cát di chuyển dọc bờ gây lên bồi lấp ở bến cá Ngọc Hải và
những cống cấp nước vào khu NTTS ven đường 14.
Xét về tính chất môi trường đối với việc nuôi tôm sú, nơi đây là vùng cửa
sông hình phễu bồi tụ chậm, vùng của sông ổn định lâu dài, thường có thực vật
phát triển tiềm tàng rất lớn gây ô nhiễm lâu dài cho các ao nuôi tôm. Nhưng môi
trường nước lợ có độ mặn ổn định cao, ít dao động theo mùa và đặc điểm quan
trọng nhất dao động mực nước thủy triều lớn thuận lợi cho môi trường của các
ao nuôi tôm.
1.3.2. Vùng nuôi tôm sú tại dải ven bờ Tây Nam - Đồ Sơn
Địa hình ở đây thuộc cửa sông Văn Úc - Thái Bình, do bán đảo Đồ Sơn án
ngữ, tác động của khu vực này yếu đi (biên độ thủy triều còn dưới 3,5 m), tốc độ
dòng triều giảm và sự chênh lệch tốc độ dòng triều lên và xuống không đáng kể.
Khu vực cũng trong điều kiện địa chất ngập chìm, song được bồi tích bởi phù sa
của sông Văn Úc và sông Thái Bình. Các sông này hàng năm đưa ra biển
khoảng 9 triệu tấn bùn cát là tác nhân tạo lên “vùng cửa sông châu thổ” và đặc
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
trưng động lực sông thống trị, vùng triều của sông được bồi tụ mở rộng và nâng
cao dần, bờ biển chia cắt đơn giản hơn. Nước có độ mặn thấp (mùa mưa độ mặn
nước biển cửa sông Văn Úc chỉ đạt 1 - 5%), đây được coi là yếu tố bất lợi cho
việc sinh trưởng và phát triển bình thường của tôm nuôi [1], [6], [16], [23].
Diễn biến của tình trạng xói lở, bồi tụ đối với việc nuôi tôm sú:
- Đoạn bờ từ cửa Họng đến đồi Độc: Là đoạn bờ do sóng, thủy triều xâm
thực, mài mòn các vách đá lục nguyên thuộc bán đảo Đồ Sơn, xen kẽ những
cung lõm được tích tụ cát, tạo cho khu bờ hình thái đa dạng, khúc khuỷu.
- Đoạn bờ cửa Họng đến cửa sông Văn Úc: Đang diễn ra quá trình xói lở nhẹ

BTC, bồi tụ mạnh BTT. Trong vòng 50 năm qua, tốc độ bồi lắng của đường 0 m
hải đồ trung bình 40 m/năm. Trong khi đó đường MBTB xói lở với tốc độ trung
bình 5 m/năm. Phía cửa hình thành một bãi triều thấp rộng đã làm năng lượng
sóng và thủy triều và hiện tượng xói lở yếu đi, xong động lực biển vẫn còn
mạnh. Trong nhiều năm nữa, đoạn bờ vẫn thuộc đoạn xung yếu và quỹ đất bồi ở
đây chưa đủ điều kiện để đưa vào sản xuất.
- Đoạn từ cửa Văn Úc đến cửa sông Thái Bình: Ở đoạn này động lực sông
thống trị đã diễn ra quá trình bồi tụ mạnh, xói lở yếu dần và chỉ diễn ra ở khu
cồn cát giáp cửa Văn Úc từ Thái Bình đến Cống Ngựa. Trong 50 qua, tốc độ bồi
lấn của đường MBTB 10 m/năm (đoạn giáp sông Văn Úc từ cống Ba Gian đến
xóm Đông) đến 45 m/năm (đoạn từ Cống Ngựa đến Cống C1). Xói lở không
còn là mối đe dọa đến đoạn đường này của huyện Tiên Lãng nên có thể tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi tôm sú nước lợ, khôi phục và phát
triển RNM.
Cho đến nay, những nghiên cứu kiểm kê định lượng và tìm ra nguyên nhân
các ao nuôi tôm bị bỏ hoang trên các vùng cửa sông ven biển Hải Phòng, từ đó
đề xuất các biện pháp tái sử dụng có hiệu quả các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang lần
đầu tiên được nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu không những góp phần giải quyết
nguyên nhân suy thoái môi trường, dịch bệnh kéo dài dẫn tới bỏ hoang các ao nuôi
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
tôm mà còn đóng góp lý luận khoa học cho việc nghiên cứu bảo vệ môi trường cho
ngành thủy sản và sẽ là tiền đề cho việc lập quy hoạch NTTS hợp lý và phát triển
bền vững (Nguyễn Đức Cự, 2009).
1.4. Một số thông tin chung về tài liệu ảnh vệ tinh SPOT
Theo [2], [7], [15], vệ tinh SPOT của Pháp lần đầu tiên được phóng vào
21/02/1986, tiếp theo là sự thành công của SPOT-2 vào 02/1990, SPOT-3 vào
3/1993 và SPOT-4 vào 03/1998. Vệ tinh SPOT mang hai bộ cảm, độ phân giải
cao vùng ánh sáng nhìn thấy HRV (High resolution Visible imaging system) với
chức năng nhìn lập thể và xiên chéo. Đây là vệ tinh thương mại đầu tiên được

thiết kế để cung cấp dịch vụ tài liệu ảnh chất lượng cao cho cộng đồng sử dụng
có hiệu quả trên toàn thế giới.
Các đặc điểm của ảnh vệ tinh SPOT như sau: Độ cao 830 km, độ nghiêng
98,7
o
so với mặt phẳng qũy đạo, thời điểm qua quỹ đạo 10 giờ 30 phút sáng và
chu kì lặp là 26 ngày. HRV có thể thay đổi góc chụp bởi thay đổi độ gương chụp
với ±27
o
. Nó cho phép nhìn một vị trí từ các quỹ đạo khác nhau. Chức năng nhìn
nghiêng này cho phép tạo ra ảnh lập thể với ranh giới độ cao cho phép đo đạc độ
cao địa hình.
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
PHẦN II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ 08/03/2009 - 05/08/2009.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khu vực nghiên cứu là các vùng NTTS trọng điểm ven biển Hải Phòng
tại: huyện Tiên Lãng, huyện Kiến Thụy, Cát Hải, quận Đồ Sơn và quận Hải An.
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang ở vùng ven biển Hải Phòng.
2.2. Phương pháp - Kĩ thuật nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống
Vùng ben biển Hải Phòng là vùng có hai loại cửa sông điển hình khác nhau
về trầm tích đáy và môi trường nước có tác động rất lớn gây ô nhiễm đến các ao
nuôi tôm sú, đó là vùng cửa sông châu thổ và vùng cửa sông hình phễu. Mỗi
vùng cửa sông bị chi phối rất khác biệt về điều kiện tự nhiên và sinh thái. Vì
vậy, các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang ở đây có rất nhiều nguyên nhân cần được

nghiên cứu và đánh giá.
Phương pháp nghiên cứu mang tính hệ thống như sau:
Tìm hiểu tổng quan các vùng cửa sông dọc ven biển Hải Phòng: vùng cửa
sông châu thổ (dải ven bờ phía Tây Nam - Đồ Sơn) và vùng cửa sông hình phễu
(dải ven bờ phía Đông Bắc - Đồ Sơn). Từ đó, đi đến nghiên cứu tại các vùng
nuôi trọng điểm tại các quận, huyện nơi có diện tích hoang hóa lớn.
2.2.2. Phương pháp kế thừa tài liệu
Đề tài kế thừa các tài liệu nghiên cứu đã có về môi trường và suy thoái môi
trường, dịch bệnh trong các ao nuôi tôm sú của các Viện nghiên cứu. Đồng thời
tổng kết, thống kê các tài liệu báo cáo quản lý thường xuyên của Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) thành phố Hải Phòng và các
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
Phòng NN & PTNT các quận, huyện trong thành phố về hiện trạng các ao nuôi
tôm sú bị bỏ hoang.
2.2.3. Phương pháp tiếp cận lịch sử
Sử dụng các ảnh vệ tinh SPOT được chụp ở thời gian xác định khác nhau, số
liệu báo cáo của Sở NN & PTNT thành phố Hải Phòng nhiều năm để kiểm kê
diện tích và biến động các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang theo các mốc thời gian.
Từ đó, đánh giá xu thế bỏ hoang của các ao nuôi tôm và làm rõ hơn về nguyên
nhân.
2.2.4. Phương pháp tiếp cận liên ngành
Đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực ô nhiễm và suy thoái môi trường biển liên
quan đến NTTS là một lĩnh vực đa ngành. Vì vậy, phương pháp tiếp cận tài liệu
của đề tài là tập hợp đông đảo những nghiên cứu về nhiều chuyên ngành khác
nhau, như: Địa hóa, hóa môi trường, sinh học, vi sinh học, NTTS và bệnh trong
NTTS, kinh tế xã hội của các quận, huyện có diện tích ao nuôi tôm trên toàn
thành phố Hải Phòng để nghiên cứu.
- Phương pháp tiếp cận các kĩ thuật NTTS tiên tiến: các kĩ thuật tiên tiến
được áp dụng trong NTTS (thủy lý, thủy hóa, địa hóa, sinh học, vi sinh học,…)

đảm bảo phục hồi tái tạo môi trường sinh thái đã bị phá hủy do ao nuôi tôm gây
ra dẫn đến bị bỏ hoang trên cơ sở phải mang tính ổn định.
- Phương pháp tiếp cận HST: Các chức năng của HST vùng của sông ven
biển Hải Phòng cần được duy trì và bảo vệ, môi trường sinh thái có những đặc
điểm khác nhau về nền đáy, thổ nhưỡng, mùa vụ,
- Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng: Ý thức việc bảo vệ môi trường
vùng nuôi tôm sú, phòng ngừa dịch bệnh, sử dụng tốt các giải pháp kĩ thuật đã
được đề xuất, nhân rộng mô hình NTTS có hiệu quả,…phụ thuộc rất lớn vào
nhận thức của cộng đồng (từ người quản lý, cán bộ kĩ thuật, người nuôi,…).
Cách tiếp cận này cho phép tìm hiểu được nhiều thông tin về hiện trạng và
nguyên nhân các ao nuôi tôm sú bị bỏ hoang (trình độ quản lý, quy hoạch, điều
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
kiện kinh tế và mức độ đầu tư, trình độ kĩ thuật,…), tìm hiểu các giải pháp tổng
hợp từ cộng đồng. Từ đó, đưa ra các giải pháp phục hồi các ao nuôi tôm sú bị bỏ
hoang ở các vùng cửa sông ven biển của thành phố Hải Phòng một cách hợp lý.
2.2.5. Khảo sát thực địa
Tìm hiểu các vấn đề của vùng nuôi tôm ven biển Hải Phòng có diện tích nuôi
tôm bị bỏ hoang lớn, vùng sinh thái trọng điểm về môi trường, dịch bệnh, các
vấn đề kĩ thuật, điều kiện kinh tế - xã hội, công tác quản lý, quy hoạch và thực
hiện quy hoạch,…
2.2.6. Phương pháp giải đoán ảnh viễn thám
* Tài liệu bản đồ
Bản đồ địa hình UTM 1: 50000 hệ tọa độ VN 2000 được sử dụng để hiệu
chỉnh hình học ảnh vệ tinh và làm bản đồ nền.
Bản đồ địa hình 1:10000 xuất bản năm 1998, tái bản năm 2000 khu vực Hải
Phòng được sử dụng để dùng trong việc tham khảo thành lập bản đồ hiện trạng
đầm nuôi và biến động đầm nuôi khu vực vùng ven biển Hải Phòng.
* Tài liệu ảnh vệ tinh SPOT
Các ảnh vệ tinh SPOT đa phổ khu vực vùng ven biển Hải Phòng được sử

dụng trong luận văn tốt nghiệp này gồm:
+ Ảnh SPOT đa phổ thu ngày 24/12/1994.
+ Ảnh SPOT đa phổ thu ngày 14/09/2000.
+ Ảnh SPOT đa phổ thu ngày 05/11/2008.
* Phân tích và đánh giá tài liệu đã có
Các tài liệu được thu thập từ các báo cáo liên quan đến hiện trạng đầm nuôi
và biến động diện tích đầm nuôi, RNM vùng ven biển Hải Phòng trong 14 năm
(1994 - 2008) được phân tích, chọn lọc để đưa vào sử dụng trong nội dung của
đề tài.
* Phân tích và giải đoán tài liệu viễn thám qua ảnh và giải đoán bằng mắt
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
Các tài liệu viễn thám được xử lý bằng phương pháp xử lý ảnh số (hình 1)
kết hợp với phương pháp giải đoán bằng mắt.
Phương pháp xử lý ảnh bằng mắt sẽ phụ thuộc rất lớn vào “khả năng đọc
ảnh” của người giải đoán và các yếu tố giải đoán ảnh vệ tinh. Việc kết hợp cả
hai phương pháp vào giải đoán ảnh vệ tinh sẽ cho kết quả chính xác nhất.
Hình 1. Mô hình tổng quát các bước giải đoán ảnh vệ tinh SPOT

* Sai số gặp phải trong quá trình phân tích và giải đoán ảnh vệ tinh viễn thám
Trong quá trình giải đoán ảnh SPOT sẽ gặp phải 2 loại sai số ảnh hưởng đến
độ tin cậy của kết quả khi sử dụng phương pháp này, đó là sai số hệ thống và sai
số ngẫu nhiên.
- Sai số hệ thống: Thời tiết tại thời điểm mà vệ tinh bay chụp có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng ảnh chụp. Trời nắng đến quang mây, không có hiện tượng
mưa gió là điều kiện thuận lợi cho vệ tinh viễn thám bay chụp thì mức độ giải
đoán ảnh thông qua tiêu chí độ chính xác của phân loại ảnh có thể đạt 95% -
100% nhưng còn phụ thuộc vào năng lực của người giải đoán ảnh. Trái lại, vệ
tinh viễn thám bay chụp trong điều kiện thời tiết xấu, nhiều mây, trời âm u,…sẽ
cho ảnh chụp với chất lượng không cao, thiếu sự chính xác của đối tượng và giải

18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn V¨n Chuyªn TS - K50
phổ mà vệ tinh thu được không có tính thuyết phục. Như vậy, kết quả giải đoán
ảnh vệ tinh qua tiêu chí độ chính xác của phân loại ảnh sẽ ở dưới mức 95%.
- Sai số ngẫu nhiên: Kết quả giải đoán ảnh vệ tinh phụ thuộc rất nhiều vào người
giải đoán. Đó là, “khả năng đọc ảnh của người giải đoán” và “các yếu tố giải
đoán của người đọc ảnh”
* Kĩ thuật sử dụng hệ thông tin địa lý (GIS)
Bằng kỹ thuật sử dụng hệ thông tin địa lý (GIS), việc chồng phủ hai lớp bản đồ
giúp cho việc tính và thành lập được bản đồ biến động diện tích đầm nuôi giai
đoạn 2000 - 2008.
Việc ứng dụng công nghệ hệ thông tin địa lý, nhiều thông tin khác nhau cũng
được đưa vào xử lý tạo ra kết quả chính xác và phong phú hơn rất nhiều so với
trường hợp chỉ sử dụng riêng tư liệu viễn thám. Nhờ GIS đã cho phép tính toán
được những đối tượng là diện tích đầm nuôi, RNM trong và ngoài khu vực đầm
nuôi. Mặt khác, từ kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thảo (2002) sẽ tính
được biến động ở giai đoạn 1994 - 2000. Như vậy, biến động diện tích đầm
nuôi, RNM sẽ được làm rõ trong 14 năm 1994 - 2008.)
* Một số kĩ thuật khác
- Kĩ thuật làm bản đồ bằng phần mềm Map infor.
- Kĩ thuật sử dụng phần mềm vẽ Corel Draw 12
Như vây, với sự kết hợp kĩ thuật bản đồ và giải đoán ảnh viễn thám cùng với
công cụ GIS sẽ mang lại một bức tranh tổng thể về hiện trạng các ao nuôi tôm sú
vị bỏ hoang:
- Xác định hiện trạng sử dụng các ao nuôi tôm sú trước và sau khi bỏ hoang.
- Tình hình bỏ hoang (thời gian bỏ hoang, hiện trạng đang khai thác sử dụng
và hướng khai thác sử dụng trong tương lai).
19

×