Dån ®iÒn, ®æi thöa ®Êt n«ng nghiÖp
ë tØnh vÜnh phóc hiÖn nay
Hµ Néi - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỒN ĐIỀN, ĐỔI
THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1 Đất nông nghiệp và vai trò của đất nông nghiệp đối với quá trình
sản xuất. 9
1.2 Sự cần thiết phải dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở Việt Nam
nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. 18
1.3 Cơ sở lý luận và vai trò của dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp. 29
Chương 2: THỰC TRẠNG DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG
NGHIỆP Ở VĨNH PHÚC NHỮNG NĂM QUA
35
2.1. Đặc điểm tự nhiên; kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc 35
2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp và kết quả sản xuất nông
nghiệp ở Vĩnh Phúc những năm qua 43
2.3. Những chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước và một số kết quả
thực hiện dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp trong thời gian qua 56
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT
VIỆC DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở
VĨNH PHÚC
74
3.1. Những quan điểm cơ bản 74
3.2. Yêu cầu cần đạt được của việc dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp 78
3.3. Những giải pháp chính để dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở
Vĩnh Phúc 82
KẾT LUẬN
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
PHỤ LỤC
102
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DĐ, ĐT : Dồn điền, đổi thửa
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
NN : Nông nghiệp
QHSX : Quan hệ sản xuất
SXNN : Sản xuất nông nghiệp
TLSX : Tư liệu sản xuất
TW : Trung ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn Vĩnh Phúc từ 2002-2008 38
Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc qua các năm kể từ sau tái lập
tỉnh 1997 38
Bảng 2.3: Tổng hợp tốc độ tăng GDP, thu chi ngân sách, thu nhập bình
quân đầu người một số năm sau tái lập tỉnh 1997 39
Bảng: 2.4: Giá trị công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần
kinh tế từ 2004-2008 trên địa bàn Vĩnh Phúc 39
Bảng 2.5: Tổng hợp số thu ngân sách 5 năm (2004-2008) từ nguồn thu
thuế xuất, nhập khẩu trên địa bàn Vĩnh Phúc 42
Bảng 2.6: Tổng hợp diện, tích cơ cấu loại các đất trên địa bàn Vĩnh
Phúc 46
Bảng 2.7: Thống kê biến động đất sản xuất nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
1998 2008 47
Bảng 2.8: Tổng hợp phân bố đất sản xuất nông nghiệp các huyện, thị
trong tỉnh Vĩnh Phúc 48
Bảng 2.9: Giá trị sản xuất nội ngành nông nghiệp theo giá thực tế qua
các năm ở tỉnh Vĩnh Phúc 49
Bảng 2.10: Cơ cấu giả trị sản xuất nội ngành nông nghiệp theo giá thực
tế qua các năm 49
Bảng 2.11: Tốc độ phát triển nội ngành nông nghiệp qua các năm 50
Bảng 2.12: Tổng hợp diện tích gieo trồng hàng năm từ 2004-2008 51
Bảng 2.13: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa một số năm từ khi tái
lập tỉnh 51
Bảng 2.14: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô một số năm từ khi tái
lập tỉnh 52
Bảng 2.15: Số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh qua các năm 53
Bảng 2.16: Sản lượng sản phẩm chăn nuôi cung cấp cho thị trường 53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài sản, là nguồn lực vô cùng quý giá của mỗi quốc gia.
Trong sản xuất đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì thay thế được.
Trong đời sống xã hội đất đai là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng.
Đất đai vô cùng quý giá nhưng không phải là vô tận, bởi trái đất của
chúng ta rất lớn nhưng cũng chỉ là hữu hạn. Lãnh thổ - đất đai của mọi quốc
gia cũng chỉ là hữu hạn. Vì đất đai chỉ là hữu hạn cho nên điều quan trọng
nhất là con người sử dụng tài sản nguồn lực này sao cho khoa học, hợp lý
mang lại hiệu quả tốt nhất phục vụ cho chính con người, nhưng vẫn phải bảo
vệ được môi trường tự nhiên, sinh thái, điều đó vừa là mục đích vừa là yêu
cầu cần quan tâm của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới này.
Đối với Việt Nam, là quốc gia đất chật, người đông, đời sống của đại
bộ phận nhân dân dựa vào SXNN, thì đất đai lại càng quý giá hơn. Việc sử
dụng, khai thác có hiệu quả các loại quỹ đất hiện có là việc làm hết sức có ý
nghĩa, bởi Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước NN, lạc hậu nghèo
nàn, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, tiềm năng chính của Việt Nam chủ
yếu dựa vào lao động và đất đai.
Hiện nay, nền kinh tế của nước ta đang trong xu thế hội nhập ngày càng sâu
rộng, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, trong đó CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn được ưu tiên hàng đầu. Để thực hiện CNH, HĐH
chúng ta phải giành đất SXNN cho công nghiệp- thương mại - dịch vụ phát
triển. Do đó quỹ đất SXNN sẽ ngày càng bị thu hẹp, điều này trên thực tế đã
và đang diễn ra trên phạm vi cả nước. Mặt khác, để phát triển SXNN thì phải
tập trung ruộng đất (dồn điền, đổi thửa) để sản xuất lớn nhằm phát huy hiệu
quả quỹ đất NN trong điều kiện hiện nay. Hơn nữa, bản thân NN cũng phải
hoà nhập cùng sự nghiệp CNH, HĐH. Do đó nhiệm vụ quan trọng của cả
nước cần phải có chiến lược và những giải pháp thiết thực nhằm khai thác, sử
dụng quỹ đất NN còn lại sao cho có hiệu quả nhất là điều đang được cả nước
quan tâm chú ý. Trong những giải pháp đó có giải pháp cần đẩy nhanh việc
dồn điền, đổi thửa (DĐĐT) ruộng đất để phát triển SXNN theo hướng hàng
hoá, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân là hết sức cần thiết.
Vĩnh Phúc là tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, sau 16 năm thực hiện
việc giao đất NN cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài theo tinh
thần Nghị định 64/NĐ-CP, ngày 27.9.1993 của Chính phủ và Quyết định số
450 - QĐ/UB, ngày 19/5/1992 của UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ) bước đầu đã tạo
tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và trong SXNN nói
riêng . Thông qua việc giao đất đến hộ gia đình đã làm cho đất đai gắn kết với
lao động, năng lực và sức sản xuất được giải phóng, SXNN phát triển một
cách nhanh chóng. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, sau khi đất sản xuất
được giao đến hộ gia đình, năng suất và sản lượng các loại cây trồng hàng
năm của tỉnh Vĩnh Phúc tăng liên tục. Theo số liệu của Cục Thống kê Vĩnh
Phúc cho thấy: “Sản lượng lương thực của tỉnh năm 1992 khi chưa thực hiện
Nghị định 64/CP đạt 288.942 tấn, nhưng chỉ sau một năm giao ruộng đến hộ
thì sản lượng lương thực của tỉnh năm 1994 đã đạt 294.472 tấn, năm 1995 đạt
329.782 tấn, tăng 40.840 tấn so với năm 1992” [9, tr.99]. Bên cạnh đó cơ sở
hạ tầng, kinh tế khu vực nông thôn dần được hoàn thiện, bộ mặt nông thôn
từng bước được đổi mới, đời sống của nhân dân ngày càng ổn định và được
cải thiện. Có được những thành tựu đó là nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng
và Nhà nước trong việc giao đất sản xuất đến hộ gia đình cá nhân ổn định lâu
dài và chủ trương này đã được thực tiễn kiểm nghiệm và đi vào cuộc sống
một cách thiết thực.
Vì vậy có thể khẳng định đường lối chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước trong việc giao đất SXNN đến hộ gia đình, cá nhân là hết sức phù
hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam từ năm 1993 nói chung, cũng như tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đổi mới và phát triển thì việc giao
đất cho hộ nông dân theo tinh thần Nghị định 64/NĐ- CP của Chính phủ trên
cả nước cũng như địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến nay đã bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình CNH, HĐH đất nước nói
chung và NN, nông thôn nói riêng.
Thực tế hiện nay ruộng đất còn quá manh mún, nhỏ lẻ, phân tán tồn tại
đã khá lâu. Nguyên nhân chính là do trước đây nhận thức của việc chia ruộng
mang hình thức cào bằng. Hộ nông dân có ruộng được chia ở nhiều xứ đồng,
hộ nào cũng có ruộng theo kiểu có tốt - có xấu, có gần - có xa, có cao - có
thấp, dẫn đến việc canh tác trong mỗi hộ và từng địa bàn bị phân tán, khó áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khó thực hiện cơ giới hoá vào sản xuất. Hơn
nữa do ruộng đất manh mún, nông dân vẫn còn tư tưởng tiểu nông, sản xuất
mang tính tự do, thiếu sự gắn kết với nhau trong quá trình sản xuất nên sản
phẩm sản xuất ra không trở thành hàng hoá, chất lượng kém, số lượng không
đủ lớn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Những yếu kém, tồn tại trên
đã làm cho hiệu quả sử dụng đất không cao, cản trở sự phát triển của lực
lượng sản xuất, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Điều đó cần phải được xem xét một cách nghiêm túc, khách quan, kịp thời cả
về phương diện lý luận và trong thực tiễn.
Là một trong 8 tỉnh được Trung ương xác định nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Bắc, kể từ khi tái lập (01-01-1997) đến nay Vĩnh Phúc chủ
trương đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp làm động lực thúc đẩy
và lôi kéo các lĩnh vực kinh tế xã hội khác phát triển theo. Qua hơn 10 năm
thực hiện chủ trương đúng đắn đó, đến nay Vĩnh Phúc được Trung ương đánh
giá là tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh nhất ở phía Bắc.
Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ 14 nhiệm kỳ 2005-2010
Đảng bộ Vĩnh Phúc tiếp tục đặt ra nhiệm vụ cho tỉnh phấn đấu trở thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2015 và trở thành thành phố Vĩnh Phúc vào những năm
hai mươi của thế kỷ XXI. Để thực hiện chủ trương và mục tiêu đó thì quỹ đất
SXNN sẽ ngày càng giảm và trên thực tế đất SXNN đã liên tục giảm trong
những năm vừa qua. Trong quá trình phấn đấu để trở thành tỉnh công nghiệp
trước năm 2015 thì lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cũng phải hoà đồng với
sự nghiệp đó.
Để đảm bảo đời sống cho các hộ nông dân trong điều kiện quỹ đất
SXNN ngày càng giảm thì việc nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng quỹ đất
NN hiện có ở Vĩnh Phúc sẽ là hướng phát triển chính. Thông qua đó nhằm
khắc phục những khó khăn nảy sinh trong quản lý sử dụng đất NN thì cần
thiết phải tập trung quỹ đất, đưa NN phát triển theo hướng sản xuất lớn. Vì
vậy để DĐ, ĐT đất NN ở Vĩnh Phúc hiện nay được chọn làm đề tài nghiên
cứu của luận văn của tác giả.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước những bất cập nảy sinh trong quá trình quản lý, sử dụng đất NN
như hiện nay trên cả nước đã và đang kìm hãm sự phát triển trong sản xuất
nông nghiệp. Để tháo gỡ những tồn tại trên, đến nay đã có một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này như:
- Nguyễn Xuân Nguyên (1995), Khuynh hướng phân hoá hộ nông dân
trong phát triển hàng hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và
vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp, nông thôn trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (1998), Phát triển nông thôn theo
hướng CNH- HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Hồng Vinh (chủ biên), (1998), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
- Phương Thị Tiến (1999), Đổi mới Quản lý kinh tế Nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- PGS,TS Nguyễn Đình Kháng - TS Nguyễn Văn Phúc (2000), Một số
vấn đề lý luận của Các Mác và Lênin về địa tô ruộng đất, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
- Trần Tú Cường (2006), Tăng cường vai trò quản lý đất đai của Nhà
nước trong quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ kinh
tế, Trường Đại học KTQD Hà Nội.
- PGS, TS Nguyễn Đình Kháng (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục
hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
- GS, TS Phùng Hữu Phú - Tiến sỹ Nguyễn Viết Thông - Tiến sỹ Bùi
Văn Hưng (2008), Vấn đề nông nghiệp - nông dân- nông thôn- kinh nghiệm
Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các công trình nêu trên nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về đất
đai, quản lý đất đai, xu hướng biến động của các quan hệ ruộng đất trong kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách về ruộng đất và
quyền lợi của người dân…Đồng thời các công trình nêu trên cũng đề xuất
phương hướng và giải pháp để giải quyết các quan hệ ruộng đất trong SXNN
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để phát triển nông nghiệp, nông
thôn theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên bàn về vấn đề DĐ, ĐT đất nông
nghiệp ở Vĩnh Phúc chưa có đề tài, công trình nào. Việc nghiên cứu vấn đề
DĐ, ĐT được nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cách tiếp
cận mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở luận giải các vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò của
đất đai trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và SXNN nói riêng, kết hợp
với tình hình phân bố sử dụng, các quỹ đất trong SXNN ở Vĩnh Phúc. Đề tài
sẽ đánh giá khách quan, khoa học xu hướng vận động quan hệ ruộng đất ở
Vĩnh Phúc từ khi thực hiện giao đất cho hộ nông dân đến nay. Căn cứ vào
tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp Vĩnh Phúc, luận văn có mục
đích đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh việc DĐ, ĐT
ruộng đất phục vụ cho phát triển SXNN hàng hoá theo hướng CNH, HĐH ở
Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát và hệ thống những quan điểm lý luận cơ bản về dồn điền,
đổi thửa ruộng đất; khẳng định tính tất yếu khách quan và xu thế không thể
khác của việc tích tụ ruộng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Hay nói cách khác đó chính là việc DĐ, ĐT. Đồng thời đề tài sẽ đánh
giá vai trò, vị trí, các nhân tố ảnh hưởng của DĐ, ĐT trong SXNN hàng hoá.
- Đánh giá, phân tích thực trạng về quản lý sử dụng ruộng đất hiện nay
ở Vĩnh Phúc, chỉ ra những tiềm năng lợi thế cũng như những tồn tại hạn chế
và sự cần thiết phải đẩy nhanh việc DĐ, ĐT ruộng đất ở Vĩnh Phúc nhằm khai
thác có hiệu quả nguồn lực đất đai.
- Thông qua các vấn đề đã được luận giải, đề tài sẽ xác định phương
hướng, giải pháp, bước đi của việc DĐ, ĐT ruộng đất. Đồng thời DĐ, ĐT
phải gắn giữa việc đầu tư với phân vùng sản xuất, lựa chọn mô hình sản xuất
hàng hoá phù hợp với tập quán, truyền thống canh tác, đất đai và lợi thế của
từng địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng
Đề tài hướng vào việc nghiên cứu việc giao đất, sử dụng các loại quỹ
đất SXNN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ cấu phân bố đất đai, xu thế vận động biến đổi của
quỹ đất SXNN sau khi đã giao đất theo Nghị định 64/NĐ-CP của Chính phủ
từ 15.10.1993 đến nay và sự cần thiết phải DĐ, ĐT ruộng đất.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối chủ trương của
Đảng, Nhà nước, các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, văn bản
pháp luật đất đai, các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Nghị quyết
của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các chính sách giải pháp của HĐND
- UBND tỉnh, ngành Tài nguyên & Môi trường, ngành Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc.
Đồng thời luận văn có sự tham khảo, lựa chọn, kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học đã công bố, các bài viết trên tạp chí, báo, tài
liệu có liên quan của các tác giả, các nhà khoa học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cơ bản của
kinh tế chính trị. Đồng thời sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phân
tích, một số số liệu và bảng tổng hợp số liệu để minh hoạ.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá và luận giải sâu sắc hơn cơ sở lý luận và thực tiễn, sự
cần thiết của việc DĐ, ĐT đất nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
- Đánh giá thực trạng quá trình dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở
tỉnh Vĩnh Phúc những năm qua dưới góc độ kết quả đạt được, những vấn đề
đặt ra và nguyên nhân.
- Trình bày quan điểm và những giải pháp cơ bản để thực hiện DĐ, ĐT
đất NN ở Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Giúp cho cán bộ quản lý phương pháp, cách nhìn toàn diện và hệ
thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý và sử dụng đất SXNN
- Giúp cho các địa phương trong tỉnh có những giải pháp tác động, thúc
đẩy nhanh việc DĐ, ĐT ruộng đất theo hướng phát triển SXNN hàng hoá,
nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân.
- Đưa ra kế hoạch tổ chức, thực hiện việc DĐ, ĐT ruộng đất trong
SXNN hàng hoá theo hướng CNH- HĐH ở Vĩnh Phúc.
- Thực hiện hoàn thiện việc DĐ, ĐT là tiền đề cho việc lựa chọn đầu tư
có trọng điểm SXNN hàng hoá, khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỒN ĐIỀN,
ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT
1.1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp
Đất đai nói chung là tài sản vô cùng quý giá, là nguồn lực cực kỳ quan
trọng của mỗi quốc gia. Đối với mỗi quốc gia đất đai là lãnh thổ chủ quyền
được xác định bằng đường biên giới. Đối với sản xuất, đất đai không chỉ là
mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, máy móc, là địa bàn tổ chức sản xuất kinh
doanh. Trong SXNN thì đất đai còn là môi trường sống của cây trồng, vật
nuôi, đặc biệt hơn trong SXNN đất đai còn là TLSX không gì thay thế được,
đồng thời đất đai còn là đối tượng của lao động. Và ngày nay trong nền kinh
tế thị trường thì đất đai được xem như một yếu tố quan trọng của lực lượng
sản xuất. Còn đối với con người, thì đất đai không chỉ là nơi sinh tồn mà còn
là nơi diễn ra mọi hoạt động của các cộng đồng dân cư.
Theo Luật Đất đai 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp
thứ 3 ngày 14.7.1993 đã ghi rõ:
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ,
nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ
được vốn đất đai như ngày nay [28, tr.7].
Theo Điều 11 Luật đất đai năm 1993 quy định: Căn cứ vào mục đích sử
dụng chủ yếu, đất đai được phân thành các loại như sau:
- Đất nông nghiệp;
- Đất lâm nghiệp;
- Đất khu dân cư nông thôn;
- Đất đô thị;
- Đất chuyên dùng;
- Đất chưa sử dụng [28, tr.11-12].
Và theo Điều 42 của Luật Đất đai năm 1993 quy định:
“Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu
thí nghiệm về nông nghiệp” [28, tr.30].
Như vậy theo Luật Đất đai thì đất NN là đất chủ yếu dùng để SXNN
như trồng trọt và chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản. Trên thực tế, lịch sử phát
sinh và phát triển của xã hội loài người thì từ buổi sơ khai loài người sinh tồn
được chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm. Sau này dần dần con người trên trái
đất mới biết trồng, cấy, biết thuần phục các con vật nuôi từ đó hình thành nên
nghề trồng trọt, chăn nuôi để phục vụ chính cho sự sinh tồn của con người.
Đất đai ban đầu chủ yếu là đất NN, về sau này khi các ngành khoa học
ra đời và phát triển đã thúc đẩy SXNN phát triển theo từ đó trong xã hội hình
thành các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Khi trình độ kinh tế, xã hội phát
triển cùng với áp lực dân số ngày càng gia tăng thì các nhu cầu chung của xã
hội về đất đai phi nông nghiệp ngày càng lớn, do đó đất NN ngày càng bị thu
hẹp. Mặc dù con người bằng nhiều cách đã khai phá, chinh phục thiên nhiên,
khai thác có hiệu quả hơn đất đai như thâm canh, tăng vụ, áp dụng các biện
pháp canh tác tiến bộ, sử dụng các giống, cây, con có chất lượng tốt và năng
suất cao. Nhưng càng về sau đất đai giành cho SXNN ngày một ít đi. Và ngày
nay nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu đất sản
xuất, nguy cơ thiếu lương thực,v.v…
1.1.2 Đặc điểm của đất nông nghiệp
Cũng như các loại đất khác nói chung và đất NN nói riêng chúng đều là
sản phẩm của tự nhiên. Ban đầu chúng chỉ là sản phẩm sơ khai, trải qua quá
trình chinh phục con người đã tác động vào đất đai thông qua lao động nhằm
mục đích phục vụ lợi ích của con người. Theo thời gian sức lao động của con
người đã được kết tinh vào đất đai trong quá trình cải tạo, khai thác, sử dụng do
đó đất đai có giá trị và giá trị sử dụng. Bởi vậy đất NN có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Đất NN là sản phẩm của tự nhiên có sự kết tinh giá trị sức
lao động của con người vào trong đó.
Đất NN nói riêng, đất đai nói chung được hình thành qua quá trình
phong hoá các loại đất đá, dưới tác động của các quy luật tự nhiên như: nhiệt
độ, không khí, độ ẩm, ánh sáng, động đất, hoạt động núi lửa, mưa bão, các
phản ứng lý học, hoá học v.v… Trải qua quá trình phong hoá và các vòng tuần
hoàn biến đổi khác nhau dần được “ổn định” đất đai được hình thành dưới nhiều
dạng đồi, núi, đầm lầy, suối, sông, hồ, biển, đất đồng bằng, cao nguyên…Trên
cơ sở đó mà sự sống phát triển ngày càng đa dạng và phong phú.
Chỉ từ khi loài người xuất hiện, trải qua quá trình lịch sử lâu dài, gian
khổ con người đã cải tạo, chinh phục tự nhiên như quai đê, lấn biển, xây dựng
các công trình thuỷ lợi tưới, tiêu, thau chua, rửa mặn, bồi bổ đất đai…Đất đai
ngày càng trở lên màu mỡ và trở thành môi trường sống ngày càng phù hợp
đối với con người và các loài sinh vật. Không những thế ở nhiều quốc gia trên
thế giới và cả Việt Nam con người đã từng phải hy sinh rất nhiều xương, máu,
trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ từng tấc đất
của tổ quốc. Vì vậy có thể nói đây là đặc điểm chung nhất, bao trùm nhất của
đất đai nói chung và đất NN nói riêng.
Thứ hai: Đất NN không đồng nhất về mặt chất lượng
Đất NN được phân bổ ở nhiều nơi, nhiều vùng khác nhau về vị trí địa
lý, về khí hậu, và các điều kiện tự nhiên khác như chất đất, độ dày tầng canh
tác, độ dốc, tính chất lý, hoá… Vì vậy người ta phân ra các vùng đất ôn đới,
nhiệt đới, cao nguyên, đồng bằng, đất trũng, đất bạc màu, đất bazan, đất khô
cằn, đất chua phèn, nhiễm mặn, đất ngập nước, đất phù sa, đất bãi bồi, đất
ruộng, đất ruộng bậc thang, v.v…Việc không đồng nhất về mặt chất lượng, vị
trí khác nhau, điều kiện tự nhiên khác nhau, hạ tầng khác nhau là một trong
những nguyên nhân chính hình thành địa tô chênh lệch I. Xuất phát từ đặc
điểm này các quốc gia đã lấy đó làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược,
đưa ra các chủ trương giải pháp, chính sách khai thác và sử dụng đất đai sao
cho phù hợp với mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi vùng khác nhau. Điều đó
cũng giúp cho con người khai thác có hiệu quả hơn đất sản xuất NN và đó
cũng chính là biện pháp tác động để rút ngắn khoảng cách địa tô chênh lệch I
giữa các dạng đất SXNN khác nhau.
Thứ ba: Đất NN chỉ là hữu hạn, có vị trí cố định và phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên của từng vùng.
Như chúng ta đã biết trái đất của chúng ta vô cùng to lớn nhưng cũng
chỉ là hữu hạn so với vũ trụ. Vì vậy đất NN trên thế giới hiện nay của mỗi
quốc gia cũng chỉ là hữu hạn, bởi lãnh thổ của mỗi quốc gia chỉ là hữu hạn.
Ở đặc điểm thứ nhất đã nêu trên đây, đất NN là sản phẩm của tự nhiên.
Do đó nó tồn tại khách quan, con người chỉ có thể cải tạo khai thác nó phục
vụ cho mục đích của con người chứ không thể tạo ra được. Căn cứ vào tính
chất hữu hạn, chất lượng và mục đích sử dụng mà người ta phân thành các
loại đất khác nhau trong đó có đất SXNN. Do đặc điểm chỉ là hữu hạn, nên
đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức, chính sách, biện pháp, sử
dụng đất đai sao cho có hiệu quả bền vững, đảm bảo các mối quan hệ xã hội
nhất là quan hệ lợi ích được đem lại từ đất đai.
Vì có vị trí, mặt bằng cố định và hữu hạn, cho nên mặt bằng đất NN
không thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác được. Đất NN được phân bố ở
nơi nào thì nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên cụ thể ở nơi đó. Nơi nào có
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chất đất khô cằn, nghèo nàn thì nơi đó diện
tích đất NN chiếm phần rất nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên và ngược lại.
Bên cạnh đó tính hữu hạn của nó còn bị chi phối, bị phụ thuộc vào mật độ dân
số, cơ cấu kinh tế, mức độ đô thị hoá ở nơi đó.
Thứ tư: Đất NN là TLSX đặc biệt, đồng thời cũng là đối tượng của lao động.
+ Đất NN là TLSX đặc biệt
Khác biệt với các ngành sản xuất khác, sản phẩm của NN là các loại
cây, con, củ, quả, lá v.v…Các loại sản phẩm ấy muốn trở thành sản phẩm hữu
dụng thì nó phải trải qua một quá trình sinh trưởng và phát triển. Sự sinh
trưởng đó điều trước tiên phải nhờ vào đất đai, đồng thời phải có sự tác động
của con người thông qua lao động. Quá trình SXNN hay nói cách khác là thời
gian sinh trưởng của cây trồng vật nuôi phải trải qua nhiều khâu và một
khoảng thời gian nhất định. Nếu các khâu như chuẩn bị giống, phân bón,
thuốc trừ sâu, lao động, công cụ lao động…rất đầy đủ và sẵn sàng nhưng
không có đất NN để gieo trồng thì mọi thứ đó đều trở lên vô nghĩa. Vì vậy
tham gia vào quá trình SXNN yếu tố đầu tiên là phải có mặt bằng đất NN, khi
đó đất NN tham gia với tư cách là tư liệu sản xuất. Cây trồng có thể thay thế
từ cây này sang cây khác nếu nó phù hợp hoặc phân bón, thuốc trừ sâu. Công
cụ lao động có thể thay thế nhưng đất đai thì không thể thay thế được. Đối với
SXNN đất đai là TLSX đặc biệt ở chỗ đó.
Đất NN là TLSX đặc biệt còn được thể hiện ở chỗ: TLSX của các
ngành khác được tạo ra ngày càng nhiều, và còn có thể thay thế được trong
quá trình sản xuất. Nhưng đất SXNN là sản phẩm của tự nhiên không tự tạo ra
được và không thay thế được trong quá trình sản xuất. Khi sử dụng, đất sản
xuất có thể còn được cải tạo, bồi bổ để đất đai được tốt hơn, ở những chu kỳ
sản xuất sau làm tăng thêm hiệu quả. Bên cạnh đó cũng có thể xẩy ra tình
trạng chủ sử dụng đất chỉ biết khai thác vắt kiệt đất đai làm cho đất đai ngày
càng bị cằn cỗi và nghèo đi. Do đó ứng xử với đất đai trong quá trình sản xuất
chúng ta cần phải tôn trọng các quy luật tự nhiên, biết tiết kiệm, giữ gìn, bồi
bổ đất đai, nâng cao hệ số sử dụng đất, khai thác tốt và nâng cao hiệu quả
tiềm năng đất đai.
Điểm đặc biệt nữa của đất NN không giống các TLSX khác là sau thời
gian sử dụng sẽ bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Còn đất NN sau
một thời gian hay một chu kỳ sản xuất nếu được sử dụng khoa học hợp lý,
được tiếp tục bồi bổ thì đất đai không những còn nguyên mà độ phì nhiêu
mầu mỡ của nó được tăng lên, theo đó sức sản xuất của nó cũng được nhân
lên.
Đất NN là TLSX không thể di chuyển được từ nơi này sang nơi khác
như các TLSX khác, mà nó chỉ được sử dụng, khai thác ở vị trí cố định và quá
trình sử dụng còn có sự gắn kết với môi trường tự nhiên khác như nước,
không khí, ánh nắng…
Chính những đặc điểm nêu trên của đất NN đòi hỏi người sử dụng đất
phải có những chính sách, chiến lược khai thác, sử dụng đất NN “Tư liệu sản
xuất đặc biệt” làm sao cho sức sản xuất của nó không ngừng được tăng cao.
Nhờ nắm bắt được quy luật khách quan và nhận thức được sự đặc biệt
của TLSX đất NN mà Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương đúng đắn
tiêu biểu như: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư ngày 13.01.1981 về cải tiến công
tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX NN (gọi tắt là
Khoán 100); Nghị quyết 10 - NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị (gọi tắt
là Khoán 10), Nghị định 64 -NĐ/CP ngày 27.9.1993 của Chính phủ về việc
giao đất SXNN ổn định, lâu dài đến hộ nông dân, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho người sử dụng….Những chủ trương chính sách tiêu biểu trên
đã đưa Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu
lương thực đứng thứ 2 trên thế giới.
+ Đất NN là đối tượng lao động:
Trong quá trình SXNN, con người sử dụng đất NN không chỉ dừng ở
chỗ chỉ gieo trồng thuần tuý mà còn thông qua kinh nghiệm, đặc điểm của cây
trồng vật nuôi, đặc điểm khí hậu, chất đất, con người còn biết tìm cách thâm
canh tăng vụ, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Khi SXNN còn chưa phát triển mạnh thì những tác động của con người
vào đất đai với tư cách là đối tượng lao động với những việc làm giản đơn
như cày sâu, bừa kỹ, tưới tiêu…Càng về sau, khi trình độ của con người ngày
một nâng cao, nhiều kinh nghiệm được tích luỹ thông qua quá trình sản xuất,
cộng với khoa học kỹ thuật phát triển thì tác động của con người vào đối
tượng lao động là đất đai ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Các tác động
như cải tạo mặt bằng, cải tạo chất đất nhằm tăng độ phì, xây dựng các công
trình thuỷ lợi, tưới tiêu, thau chua, rửa mặn, chống sói mòn, sạt lở đất, đắp đê
ngăn lũv.v luôn được con người chú ý. Ở mức độ cao hơn thông con người
còn thông qua tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông qua giống cây con mới, các
biện pháp thâm canh tiên tiến, các biện pháp chế ngự thiên nhiên, khắc phục
thời tiết khắc nghiệt, nhằm mục đích khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất
đai. Quá trình tác động đó chính là những tác động trực tiếp của con người
vào đối tượng lao động là đất đai.
1.1.3. Vai trò của đất nông nghiệp đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hoá
+Đất NN là TLSX đặc biệt duy nhất, là nơi sản xuất ra lương thực thực
phẩm nuôi sống con người và xã hội.
Từ xa xưa, ông, cha ta có câu “phi nông bất ổn”, còn ở Trung Quốc
dưới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Khổng Tử đã nói rằng “Dân dĩ thực vi
thiên” (Dân lấy ăn làm trời). Con người chúng ta muốn tồn tại phải có cái ăn,
muốn có cái ăn không thể chỉ dựa vào những sản vật sẵn có trong tự nhiên do
thiên nhiên ban tặng mà phải lao động sản xuất ra của cải vật chất là lương
thực thực phẩm để nuôi sống con người và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội. Và nơi duy nhất để sản xuất ra của cải vật chất chính là đất NN.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội đến nay đã trải qua các thời kỳ
khác nhau từ kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp chuyển sang kinh tế hàng hoá,
từ sản xuất hàng hoá nhỏ lên sản xuất hàng hoá có quy mô lớn và hiện đại,
tất thảy trong sản xuất NN thì bao giờ đất đai cũng đóng vai trò cực kỳ
quan trọng. Xã hội càng phát triển thì vai trò của đó của đất NN cũng phát
triển theo.
+ Đất NN là môi trường sống, môi trường không gian để SXNN.
SXNN có đặc thù là sản xuất ở ngoài trời, phải tiếp xúc với tự nhiên.
Cây phải sống trên đất, quang hợp nhờ ánh nắng mặt trời, hút nước từ trong
đất, cá phải sống dưới nước sông, hồ, biển; gia súc, gia cầm phải có chuồng
trại, có bãi chăn thả; con vật nuôi phải có thức ăn, mà thức ăn lại chính là các
động thực vật được sản xuất từ trong NN. Tất cả những yếu tố đó chính là
môi trường sống, là không gian để sản xuất. Muốn sản xuất phát triển thì
chúng ta phải biết giữ gìn, bảo vệ môi trường, không vi phạm các quy luật tự
nhiên, không chỉ biết khai thác đất đai mà còn phải biết bồi bổ đất đai, tạo lập
môi trường sống tốt nhất cho cây trồng vật nuôi.
+ Đất NN là TLSX chủ yếu để sản xuất hàng hoá.
Như đã nêu trong phần đặc điểm của đất NN, khi tham gia vào quá
trình sản xuất, đất NN vừa là TLSX đặc biệt vừa là đối tượng lao động. Để
SXNN theo hướng hàng hoá đối với bất kỳ nông sản nào trước hết phải có
diện tích đất NN đủ lớn, kết hợp với các yếu tố khác như lao động, công cụ
lao động, KHKT, chất lượng giống, phân công lao động theo từng chuyên
khâu v.v…thì mới có điều kiện tạo ra khối lượng nông phẩm hàng hoá lớn
đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngoài những điều kiện như đã nêu, sản xuất hàng
hoá trong NN còn có thể khai thác yếu tố lợi thế về đặc thù riêng có của
những vùng đất như: Vải thiều có năng suất và chất lượng tốt thuộc vùng Lục
Ngạn, Bắc Giang; Thanh Hà, Hải Dương, bưởi Năm Roi ở miền Tây Nam bộ;
nhãn lồng Hưng Yên…
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay do khoa học công nghệ phát triển
mạnh con người có thế sản xuất ra những sản phẩm mà không cần sử dụng
đất: như công nghệ đột biến gien, công nghệ nuôi cấy mô, nhân bản vô tính,
sản xuất trong nhà kính bằng phương pháp thuỷ canh v.v… Song trên thực tế
điều đó chưa phải là phổ biến, sản xuất theo phương pháp đó chi phí giá thành
sản phẩm quá cao, không hiệu quả, không thể tạo ra khối lượng sản phẩm
hàng hoá lớn. Cho đến nay hình thức sản xuất này chỉ mang tính nghiên cứu,
ứng dụng không thể mở rộng một cách phổ biến được. Và suy cho đến cùng,
dù có ứng dụng khoa học công nghệ cao bao nhiêu đi chăng nữa SXNN vẫn
cần phải có không gian đất NN nhất định. Vì vậy đất NN vẫn đóng vai trò
hàng đầu trong SXNN hàng hoá hiện nay.
+Trong điều kiện thị trường bất động sản được hình thành thì đất NN
có vai trò là phương tiện góp vốn, huy động vốn, liên doanh liên kết hoặc cho
thuê để phát triển sản xuất.
Trong công cuộc đổi mới đất nước đối với lĩnh vực phát triển kinh tế
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp lớn để tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển trong đó có giải pháp hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, đi
đôi với việc tạo lập các khung khổ pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát
của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tiếp cận với
thị trường trong đó có thị trường bất động sản.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Phát triển thị
trường bất động sản, trong đó có thị trường quyền sử dụng đất, tạo điều kiện
thuận lợi để chuyển quyền sử dụng đất; mở rộng cơ hội cho các công dân và
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được dễ dàng có đất và sử dụng
đất lâu dài cho sản xuất kinh doanh”. “Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
tích tụ và tập trung đất canh tác trong một số vùng có điều kiện” [30, tr.324].
Nghiên cứu Luật Đất đai năm 2003 cho thấy: Tại Điều 105 Mục 1 quy
định: “Quyền của người sử dụng đất được Nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”; Điều 106 quy định: “Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, thuê lại, thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất, quyền thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”; Điều 113 Mục 7 quy định: “Thế
chấp, bảo lãnh, bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt
động tại Việt Nam, tại các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất
kinh doanh” [30, tr.120-121, 130].
Đối với Luật Đầu tư số 59/2005/QH tại Điều 3 Mục 1 có nêu: “Đầu tư
là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình
thành tài sản, tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và
các quy định khác của pháp luật có liên quan” và Mục 7 có nêu: “ Vốn đầu
tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư
theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp”[31, tr.2].
Như vậy có thể nói đất SXNN có đầy đủ các yếu tố thuận lợi để tham gia vào
thị trường bất động sản, thị trường vốn trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Trên thực tế đã có rất nhiều mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh
trong NN rất đa dạng và phong phú như:
- Người nông dân góp cổ phần trong doanh nghiệp NN bằng quỹ đất và
tham gia lao động ngay tại doanh nghiệp NN đó;
- Cá nhân hoặc tổ chức có đất NN do thiếu vốn sản xuất có thể thế chấp
quyền sử dụng đất tại các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng nhân dân
để vay vốn sản xuất;
- Hộ nông dân có đất SXNN nhưng do thiếu kinh nghiệm, thiếu lao
động thì dùng quỹ đất liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác
không có đất hoặc thiếu đất để sản xuất…
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển và hội nhập
ngày càng sâu rộng như hiện nay thì vai trò của đất NN là phương tiện góp
vốn, thế chấp, huy động vốn, liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh
được nhà nước khuyến khích và có đầy đủ cơ sở pháp lý thuận lợi giúp các hộ
nông dân khai thác và sử dụng quỹ đất sản xuất một cách linh hoạt nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Thực trạng về công tác quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở
nước ta trước khi có Nghị định 64/CP, ngày 27/9/1993 của Chính phủ
Như chúng ta đã biết đất NN là sản phẩm của tự nhiên, mặc dù có rộng
lớn bao nhiêu cũng chỉ là hữu hạn. Đất NN có đặc điểm phụ thuộc vào vị trí
địa lý, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên khác như khí hậu, bình độ, sông
ngòi, chất đất Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau do tính chất nhiệm vụ cách
mạng của mỗi giai đoạn khác nhau mà Nhà nước có những chính sách quản lý
sử dụng đất NN khác nhau. Mặt khác trước yêu cầu phát triển chung của xã
hội, cùng với sự gia tăng nhanh dân số và các nhu cầu sử dụng đất phi NN
ngày càng tăng làm cho đất NN ngày càng ít đi. Do đó chính sách quản lý và
sử dụng đất đai cũng thay đổi theo cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Việt Nam là quốc gia
thuộc địa, nửa phong kiến. QHSX thời kỳ này là QHSX phong kiến, ruộng đất
nằm trong tay địa chủ và thực dân Pháp, người nông dân không có ruộng đất,
chủ yếu đi làm thuê, đời sống vô cùng cực khổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhân dân ta đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8.1945 với khẩu hiệu “Độc
lập dân tộc và người cày có ruộng” đã giành thắng lợi vẻ vang thành lập nên
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Về thực chất, tuy có Nhà nước nhưng ruộng đất vẫn do thực dân Pháp
và địa chủ phong kiến cai trị nắm giữ. Chính sách về quản lý đất đai giai đoạn
này mới chỉ là sơ khai ban đầu, đan xen cả chính sách của chính quyền cách
mạng và chính sách của chính quyền cũ.
Trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp với điều
kiện vô vàn khó khăn, nhưng chính quyền non trẻ của ta cũng đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ ruộng đất nhằm thực hiện song
song hai nhiệm vụ hàng đầu là đánh đuổi thực dân Pháp và lãnh đạo nhân dân
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Đến giai đoạn 1954-1975, đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt, cách mạng
Việt Nam phải đồng thời làm 2 nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Theo đó, quản
lý đất đai của Việt Nam chịu sự chi phối của hoàn cảnh này. Ở miền Bắc,
quản lý đất đai dựa trên quan điểm đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động. Ở miền Nam quản lý đất đai lại nằm trong tay chế độ
miền Nam cộng hoà.
Bởi tính chất đặc thù của giai đoạn này như vậy nên luận văn chỉ đề cập
một cách khái quát công tác quản lý đất đai ở miền Bắc.
Những năm đầu sau 1954, chính sách đất đai của nước ta chủ yếu tập
trung giải quyết nhiệm vụ “người cày có ruộng”. Các văn bản được ban hành
nhằm mục đích nhanh chóng động viên toàn xã hội hàn gắn vết thương chiến
tranh, phát triển sản xuất nâng cao đời sống nông dân.
Trong điều kiện đất nước còn chiến tranh, giai đoạn này, quản lý đất
đai tập trung vào thống kê ruộng đất, kiểm tra tình hình quản lý, sử dụng đất
làm cơ sở cho công tác quản lý đất đai dần dần đi vào nề nếp. Đặc biệt văn
bản về Hợp tác hoá NN đã có tác động mạnh mẽ trong việc chuyển sở hữu đất
NN từ tư nhân, nhỏ lẻ của người lao động, sang sở hữu tập thể thông qua các
quan hệ trong mô hình HTX NN, từ HTX bậc thấp cho đến HTX NN bậc cao.
Mô hình quản lý và sử dụng ruộng đất chủ yếu được thông qua HTX NN dưới
hình thức sở hữu tập thể. Hình thức quản lý và sử dụng đất đai giai đoạn này
như vậy là phù hợp, điều đó đã góp phần rất quan trọng cho việc huy động
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. “Tất cả cho tiền
tuyến” “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” vì sự nghiệp giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước.
Giai đoạn hợp tác hoá trước năm 1975 quản lý và quan hệ đất đai theo
sở hữu tập thể là phù hợp với điều kiện đất nước còn chiến tranh. Từ sau năm
1975 đất nước được thống nhất, cả nước đi lên xây dựng CNXH, lẽ ra chúng
ta không nên duy trì, áp dụng kiểu quản lý và sử dụng đất đai như thời kỳ đất
nước còn chiến tranh. Nhưng trong thời gian khá dài chúng ta vẫn duy trì hình
thức sở hữu tập thể về ruộng đất là chính, bên cạnh đó về mặt nhận thức