PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Từ lúc loài người biết trồng trọt và chăn nuôi đến nay thì vai trò của đất
đai chiếm một vị trí rất quan trọng. Nó đã trở thành một tư liệu sản xuất không gì
có thể thay thế được. Trong quá trình phát triển của xã hội từ cổ đại đến văn
minh, khoa học kỹ thuật từ thấp kém đến hiện đại đều được xây dựng trên điểm
cơ bản là sử dụng đất đai. Nhìn chung hoạt động sử dụng đất của con người đã
trở thành nội dung chủ yếu nhất trong hoạt động kinh tế - xã hội của nhân loại.
Đất nước ta trong thời kì xây dựng và phát triển về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
cũng như kinh tế. Đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thì vai
trò của đất đai càng trở nên quan trọng. Vì thế việc sử dụng đất sao cho hiệu quả
là vấn đề rất cấp thiết.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bước vào thời kì
xây dựng đất nước dựa trên nền nông nghiệp là chủ yếu. Tuy vậy trong thời kì đó
chưa có các biện pháp quản lý và các văn bản pháp lý chặt chẽ, đồng bộ về đất
đai nên hiệu quả của việc sử dụng thấp, năng suất ngành nông nghiệp còn kém.
Với sự ra đời của Nghị định 64/CP ngày 27-3-1993 của chính phủ về việc giao
ruộng đất nông nhgiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích sản xuất nông nghiệp và Luật đất đai năm 2003 đã mang lại những kết quả
và thành tựu to lớn trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Kết quả đạt được đã
góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, ổn định chính trị
xã hội, đổi mới bộ mặt nông thôn.
Cùng với các địa phương trong cả nước và các xã khác trong toàn huyện
Cẩm Xuyên, xã Cẩm Lạc đã thực hiện khá thành công công tác “dồn điền, đổi
thửa” và thu được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần thúc đẩy cho sự phát triển
kinh tế của địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Đồng thời cũng tạo ra
sự hăng hái cho người dân trong toàn xã tích cực tăng gia sản xuất.
Mặc dù khi phân chia ruộng đất theo Nghị định 64/CP của chính phủ đã
mang lại hiệu quả nhất định nhưng theo thời gian khi đất nước tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hoá thì vấp phải những hạn chế: ruộng đất bị phân tán nhỏ
lẽ, manh mún nên việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật gặp phải những
khó khăn, bên cạnh đó tình trạng manh mún ruộng đất làm cho năng suất sản
xuất thấp và chi phí sản xuất cao. Điều này làm cho hiệu quả kinh tế trong sản
xuất nông nghiệp bị giảm sút. Vì vậy để từng bước giải quyết những tồn tại nói
trên và đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thì
việc “dồn điền, đổi thửa” là yêu cầu hết sức cấp thiết, đáp ứng được nguyện
vọng của đại đa số nông dân trong khai thác, sử dụng đất lâu dài và hiệu quả.
Bên cạnh đó, tình trạng đất nông nghiệp manh mún hiện nay là do trước
đây việc chia đất canh tác cho nông dân thực hiện theo phương châm: "Có gần,
có xa, có xấu có tốt, có cao có thấp", dẫn đến việc một số hộ dân sở hữu trên 10
thửa ruộng nằm rải khắp ở tất cả các thôn. Cá biệt có một số hộ dân sở hữu tới
hơn 15 thửa ruộng với diện tích bình quân khoảng hơn 100m
2
, có những mãnh
diệt tích chỉ khoảng 20-30m
2
. Do đó, nông dân không thể tiến hành CNH - HĐH
trên những thửa ruộng nhỏ bé và chính tình trạng đất đai manh mún, phân tán
cũng gây ra những tổn thất không nhỏ. Sự manh mún đã làm giảm 2,4 - 4% diện
tích đất nông nghiệp do các bờ ngăn, bờ thửa. Ngoài ra, ruộng đất manh mún còn
làm tăng phí lao động, hạn chế khả năng đầu tư và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, hạn chế khả năng cơ giới hoá nông nghiệp. Chi phí sản xuất lớn, giá
thành tăng cao, chất lượng sản phẩm thấp, thiếu khả năng cạnh tranh.
Những khó khăn trên đặt ra vấn đề cần phải thực hiện DĐĐT để loại bỏ
các tổn thất cho nông dân bằng cách tổ chức lại sản xuất, ứng dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật và công nghệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH
nông nghiệp nông thôn nói chung và toàn tỉnh Hà Tĩnh nói riêng.
Với lý do đó, đề tài: “Đánh giá công tác dồn điền đổi thửa đất nông
nghiệp của xã Cẩm lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh” được thực hiện
nhằm tìm hiểu kỹ hơn vấn đề đã nêu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng đất đai và công tác dồn điền đổi thửa ở địa
phương.
- Đánh giá tác động của công tác dồn điền đổi thửa đến phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
- Tìm ra những nguyên nhân tồn tại của công tác dồn điền đổi thửa, từ đó đề
xuất một số biện pháp khắc phục.
1.3 Yêu cầu
- Nắm được toàn bộ quỹ đất của xã.
- Thu thập số liệu, dữ liệu đầy đủ, chính xác.
- Nắm được nội dung của phương án dồn điền đổi thửa.
- Các giải pháp đề xuất phải xuất phát từ thực tế và phù hợp với các điều kiện
của xã.
- Đánh giá được thực trạng quản lý và sử dụng đất nông nghiệp của xã.
PHẦN II. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Chính sách pháp luật đất đai Việt Nam 1945 đến năm 2010
Đất đai, chính sách đất đai là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay, Cách mạng tháng Tám 1945
đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng đặt nền móng cho ngành Quản
lý đất đai Việt Nam dưới chế độ mới.
2.1.1.1 Giai đoạn trước những năm đổi mới từ nền kinh tế tập trung
bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
a. Thực hiện chính sách giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp,
Việt gian phản động chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền công thổ
Với chính sách này nước ta đã ban hành sắc lệnh bãi bỏ thuế thân, thuế
môn bài, giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản động
chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền công thổ, giảm thuế 20%. Và ở
Miền Bắc lúc này số ruộng đất công chiếm 77% dện tích đất công điền, công thổ.
b. Tiến hành cải cách ruộng đất
Trong giai đoạn này, ruộng đất được chia cho nông dân theo nguyên tắc:
- Thiếu nhiều chia nhiều, thiếu ít chia ít, không thiếu không chia.
- Chia trên cơ sở nguyên canh, rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa.
- Chia theo nhân khẩu chứ không chia theo lao động.
- Lấy số diện tích bình quân và sản lượng bình quân ở địa phương làm tiêu
chuẩn để chia.
- Chia theo đơn vị xã, xong nếu xã ít người, nhiều ruộng thì thì có thể san
sẻ một phần cho xã khác ít ruộng, nhiều người, sau khi chia đủ cho nông dân
trong xã.
c. Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế nông nghiệp
Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành cải cách
ruộng đất và theo đó, chủ trương xây dựng thí điểm hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp được hình thành.
d. Cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thí điểm
và hoàn thiện việc xây dựng HTX nông nghiệp
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV tháng 12 năm 1976 khẳng
định:
- Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, xóa bỏ kiểu tổ
chức sản xuất và ăn chia theo đội.
- Chuyển sản xuất tập thể từ kiểu làm ăn phân tán, tự cấp tự túc sang sản
xuất theo quy hoạch và kế hoạch thống nhất của huyện.
- Về cải tiến quản lý, tổ chức lao động theo hướng tập trung, dưới sự điều
hành thống nhất của ban quản trị HTX.
e. Cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp (1981 - 1985)
Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ:
- HTX nông nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu
sản xuất, trước hết là ruộng đất, sức kéo, phân bón, các công cụ và cơ sở vật chất
kỹ thuật của tập thể.
- Đẩy mạnh giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo
phương thức nông lâm kết hợp, chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ nông dân
nhằm khuyến khích nông dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc; nông dân
được quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày.
- Cho phép các hộ gia đình nông dân tận dụng mọi nguồn đất đai mà HTX,
nông lâm trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản xuất.
- Nhà nước không đánh thuế sản xuất, kinh doanh đối với kinh tế gia đình,
chỉ đánh thuế sát sinh và đất thuộc; đất phục hóa được miễn thuế nông nghiệp.
- Cũng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn miền núi, cho phép áp dụng linh
hoạt các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao; ở vùng núi cao, không nhất
thiết tổ chức HTX mà phát triển kinh tế hộ gia đình và thiết lập quan hệ nhà
nước - nông dân theo đơn vị bản, buôn; trong HTX áp dụng hình thức khoán gọn
cho hộ xã viên.
Vào những năm cuối của giai đoạn này, ruộng đất đã được tập thể hóa triệt
để, chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất đã được thiết lập. Theo đó, HTX là đơn vị
quản lý, đội sản xuất là đơn vị nhận khoán với phương thức 3 khoán: khoán sản
lượng, khoán lao động, khoán chi phí, phân phối bình quân.
Mô hình HTX đã thích ứng với điều kiện thời chiến, tuy nhiên phương
thức điều hành theo lối hành chính đã phát sinh yếu tố độc đoán, chuyên quyền,
mệnh lệnh, vi phạm nguyên tắc dân chủ đã kìm hãm sản xuất, nông dân vẫn
không quan tâm đến hiệu quả sử dụng đất; sản xuất trì trệ, đời sống tiếp tục gặp
nhiều khó khăn.
2.1.1.2 Giai đoạn từ 1986 đến nay
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách này đã tạo ra tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản,
tỷ trọng kinh tế hộ tự chủ và kinh tế trang trại tăng lên rõ rệt, tương ứng là sự sút
giảm tỷ trọng của kinh tế tập thể và quốc doanh. Đây là yếu tố có tầm quan trọng
hàng đầu để vừa tạo nên sự chuyển biến thần kỳ của sản xuất nông, lâm nghiệp -
thủy sản, vừa bảo đảm an ninh lương thực. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn
những con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn
quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng khan
hiếm, người lao động không có việc làm… đã trở thành một đất nước không
những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo
đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về
nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế - xã hội sôi động, nông nghiệp
nông thôn nói riêng và toàn đất nước nói chung đang không ngừng phát triển.
2.1.2 Các quan điểm về tích tụ ruộng đất [11]
Quá trình làm cho quy mô tư bản tăng lên được thực hiện bằng hai phương
thức là tích tụ tư bản và tập trung tư bản. Hai phương thức này có liên quan chặt
chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy nhau.
Tích tụ là dồn lại và dần dần tập trung vào một nơi. Tích tụ tư bản là tăng
thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư
thành tư bản.
Tích tụ tư bản là làm cho quy mô tư bản tăng lên nhờ có tích lũy tư bản cá
biệt. Tích tụ ruộng đất là yếu tố quan trọng nhất của quá trình tích tụ tư bản để
mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô.
Tập trung là dồn vào một chỗ, một điểm. Tập trung tư bản là làm tăng
thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại, hoặc một tư bản này thu hút một tư bản
khác.
Tập trung tư bản tạo ra tư bản lớn hơn, thông qua việc các nhà tư bản thôn
tính nhau hay liên doanh, liên kết với nhau.
Tích tụ và tập trung ruộng đất là việc sát nhập ruộng đất của các chủ sở
hữu nhỏ cá biệt để tạo quy mô lớn hơn thông qua tước đoạt, chuyển nhượng mua
bán ruộng đất; hoặc hợp nhất ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt thành một
chủ sở hữu cá biệt khác lớn hơn (thông qua xây dựng các HTX nông nghiệp ở
nước ta trước đây). Như vậy, tích tụ và tập trung ruộng đất là việc làm tăng quy
mô diện tích của thửa đất và chủ thể sử dụng đất thông qua các hoạt động như:
chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê mượn, cầm cố, thế chấp, thừa kế…
2.1.3 Khái niệm và vai trò của đất đai [12]
a. Khái niệm về đất đai
Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đất đai xuất hiện với
nhiều khái niệm khác nhau, đứng trên nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Luật đất đai năm 1993 và sửa đổi bổ sung năm 2003 của nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có ghi: “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là
tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa
bàn phân bố dân cư, xây dựng kinh tế văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải
qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu tạo lập, bảo vệ
được vốn đất đai như hiện nay”.
b. Vai trò của đất đai
Đất nông nghiệp thường được coi là ruộng đất, là đất đai được sử dụng
vào trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ cho
mục đích thí nghiệm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế người ta thường
đưa đất có khả năng nông nghiệp tức diện tích chưa được sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp mà không cần đầu tư cải tạo lớn, đất sử dụng vào nông
nghiệp của mỗi nước mỗi khu vực phụ thuộc vào các thuộc tính tương đối ổn
định của sinh quyển bên trên, bên trong và bên dưới nó.
Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất có vai trò hết sức quan trọng. Bởi
vì nó là nguồn lực, là cơ sở tự nhiên để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp. Đất đai
tham gia hầu hết vào các quá trình sản xuất của xã hội, nhưng tuỳ thuộc vào từng
ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong công nghiệp, thương
mại, giao thông đất đai là cơ sở, nền móng để trên đó xây dựng nhà cửa, cửa
hàng, mạng lưới giao thông, thì ngược lại trong nông nghiệp ruộng đất tham gia
với tư cách là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thay thế được.
Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và
tồn tại ngoài ý muốn của con người vì thế ruộng đất là tài sản của quốc gia.
Trong nông nghiệp, ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động.
Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng. Ruộng đất là tư liệu lao động, khi
con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đất thông qua thuộc tính lý
học, hoá học, sinh học của đất. Sự kết hợp giữa đối tượng lao động và tư liệu lao
động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. Không
những vậy nó còn là tư liệu sản xuất chủ yếu, tư liệu sản xuất đặc biệt, tư liệu
sản xuất không thể thay thế được.
Như vậy, đất đai là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn
nơi dân cư sinh sống, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội. Đối với cây
trồng đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nơi cung cấp các chất dinh
dưỡng. Vì vậy năng suất cây trồng phụ thuộc rất nhiều vào đất đai, sử dụng đầy
đủ và hiệu quả sẽ làm tăng thu nhập, ổn định kinh tế chính trị xã hội.
2.1.4 Các văn bản pháp lý về công tác dồn điền đổi thửa [3], [4]
Quá trình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa được căn cứ vào các văn
bản hướng dẫn sau:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của ban chấp hành Trung ương khoá IX về
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kì 2001 -
2010.
- Luật đất đai 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật đất đai
vào các năm 1998 và 2001.
- Căn cứ Luật đất đai năm 2003 ra ngày 10 tháng 12 năm 2003.
- Nghị định 64/CP ngày 27 tháng 09 năm 1993 của chính phủ về việc giao
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân.
- Căn cứ quyết định số 68/2002/QĐ-TTg ngày 04 tháng 06 năm 2002 của
Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động thực hiện quyết định Trung
ương 5 khoá IX.
- Và các Nghị quyết, chỉ thị, công văn, hướng dẫn của tỉnh uỷ, Uỷ ban
nhân dân các địa phương về công tác dồn điền đổi thửa.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
Việt Nam cơ bản là một nước nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ
cấu nền kinh tế còn cao. Qua kết quả tổng kiểm kê thì đất nông nghiệp cả nước
ta hiện nay có 9.345.346 ha và quỹ đất này có xu hướng giảm do nhu cầu xây
dựng, giao thông, thuỷ lợi, chuyển mục đích sử dụng sang đất ở. Sau gần 20 năm
tiến hành công cuộc đổi mới từ Nghị quyết đại hội VI (1986), đặc biệt từ năm
1990 trở lại đây, nông nghiệp và kinh tế nông thôn Viêt Nam đã có bước tiến
mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu to lớn. Nông nghiệp đang chuyển mạnh từ sản
xuất nhỏ, tự cung tự cấp theo phương thức truyền thống sang sản xuất kinh
doanh theo cơ chế thị trường. Đây là một chuyển biến có ý nghĩa hết sức quan
trọng và sâu sắc làm thay đổi tính chất và các mối quan hệ cơ bản trong nông
nghiệp nông thôn, đồng thời tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Bên
cạnh đó Nghị quyết TW5, TW7( khoá IX) của Ban chấp hành trung ương về
công tác “dồn điền, đổi thửa” đất nông nghiệp càng tạo điều kiện cho ngành
nông nghiệp nước ta bước vào thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thời
gian qua, chủ trương dồn điền, đổi thửa được thực hiện đã giúp các địa phương
trong cả nước giảm ½ số thửa, có nơi tới 80%. Diện tích mỗi thửa nhờ đó mà
tăng bình quân gấp 3 lần, tạo điều kiện cho nông dân cải tạo đồng ruộng, thâm
canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nâng cao thu nhập và còn tăng diện tích nhờ
làm giảm phần đất làm bờ, tại Hưng Yên sau khi dồn điền đổi thửa diện tích đất
nông nghiệp đã tăng từ 89.000 ha lên 92.309 ha. Không chỉ có vậy mà còn nhiều
địa phương trên cả nước đã hoàn thành rất tốt chủ trương DĐĐT, là những điểm
sáng để những nơi khác làm theo. Ví dụ: Bắc Ninh là một trong những địa
phương đi đầu trong công tác DĐĐT. Hiện đã hoàn thành chuyển đổi ở 87 xã
(73,1%), 382 thôn (58,3%), có 95.922 hộ chuyển đổi ruộng đất (50%) được
16.414ha (37%). Nhờ đó, tỉnh đã khắc phục được tình trạng ruộng đất manh
mún, bước đầu hình thành vùng chuyên canh các loại cây trồng có giá trị kinh tế.
Hiện Bắc Ninh đã chuyển được 2.500ha ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp sang
nuôi thuỷ sản, đưa diện tích mặt nước nuôi thả lên 5.220ha.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì một số nơi thực hiện công tác
DĐĐT còn kém như: Sáu tháng đầu năm 2008, tỉnh Phú Thọ có 241/274 xã
-phường - thị trấn triển khai DĐĐT nhưng chỉ có 6% số xã hoàn thành kế hoạch
(dồn được 97.967 ô thửa nhỏ thành 52.876 ô thửa), do công tác chỉ đạo của một
số ban ngành chưa tích cực. Tỉnh Quảng Nam sau gần 3 năm thực hiện DĐĐT
mới có 6/17 huyện triển khai.
2.2.2 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa ở tỉnh Hà Tĩnh
Trong những năm qua, thực hiện cuộc vận động chuyển đổi ruộng đất
nông nghiệp theo Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 12/6/2001 của Ban chấp hành
Tỉnh uỷ trên địa bàn các huyện, thành phố, thị xã bước đầu đã đạt được kết quả
thiết thực; bình quân số thửa đất trên mỗi hộ giảm gần 65%, bình quân diện tích
trên mỗi thửa tăng gần 120%; nhiều địa phương đã gắn công tác quy hoạch sử
dung đất với đầu tư hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng; các tiến bộ khoa học
kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất nên đã đem lại hiệu quả cao, người nông dân
yên tâm bỏ vốn đầu tư thâm canh sản xuất. Những kết quả đó đã góp phần vào
việc ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh, tập trung phát triển kinh tế,
cải thiện đời sống nhân dân và từng bước xây dựng nông thôn mới theo tinh thần
nghị quyết TW5 khoá IX.
Tuy nhiên, sự chỉ đạo của một số chính quyền cấp uỷ điạ phương chưa sâu
sát và kiên quyết, còn mang tính hình thức; kinh phí đầu tư còn hạn chế nên kết
quả chưa đạt được yêu cầu; đất sản xuất của các hộ vẫn còn manh mún, số hộ sử
dụng 5 - 7 thửa vẫn còn phổ biến; chưa gắn công tác chuyển đổi diện tích đất với
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xây
dựng hồ sơ địa chính theo quy định, vì vậy tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sau chuyển đổi còn thấp (mới đạt gần 10%).
Để khắc những tồn tại, hạn chế, đồng thời đẩy nhanh tiến độ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và xây dựng hồ sơ địa chính đến năm 2010 phải
hoàn thành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 05/2006/CT-
TTg ngày 22/02/2006 và Chỉ thị số 02/CT-BTNMT ngày 19/11/2007 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên môi trường, UBND tỉnh yêu cầu UBND huyện, thành
phố, thị xã, phường, thị trấn đẩy mạnh công tác chuyển đổi sử dụng đất nông
nghiệp giai đoạn 2, phấn đấu hoàn thành trong năm 2008 (trước vụ sản xuất đông
xuân 2008 - 2009).
Yêu cầu đặt ra sau chuyển đổi là mỗi hộ sử dụng tối đa 3 thửa đất và diện
tích thửa nhỏ nhất là 500m
2
, gắn chuyển đổi đất nông nghiệp với điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy hoạch giao thông, thuỷ lợi nội đồng và chuyển
dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp.
2.2.3 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa ở huyện Cẩm
Xuyên
Trong những năm qua, thực hiện nghị quyết 01/NQ-TU ngày 12/6/2001
của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về cuộc vận động chuyển đổi sử dụng ruộng
đất nông nghiệp. Trên địa bàn huyện đã có 26/26 xã, thị trấn tổ chức triển khai
thực hiện, bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực, nhiều địa phương trước
chuyển đổi bình quân 12 - 13 thửa, nhưng sau chuyển đổi chỉ còn lại 5 - 7 thửa.
Đây là kết quả nhằm góp phần cho chuyển đổi kinh tế, cải thiện điều kiện sống
của nhân dân, tăng cường cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, áp dụng các
tiến bộ khoa học mới vào sản xuất nông nghiệp, tạo tiền đề cần thiết cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và được nhân dân
đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, sự chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chưa có
tính cương quyết và sâu sát, còn mang tính hình thức, kinh phí đầu tư còn hạn
chế nên kết quả chưa đạt được yêu cầu; đất sản xuất của các hộ vẫn còn manh
mún, số hộ sử dụng 5 - 7 thửa vẫn còn phổ biến; chưa gắn công tác chuyển đổi
diện tích đất với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và xây dựng hồ sơ địa chính theo quy định. Vì vậy tiến độ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sau chuyển đổi còn thấp (mới đạt 0,91%).
Để khắc những tồn tại, hạn chế, đồng thời đẩy nhanh tiến độ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và xây dựng hồ sơ địa chính đến năm 2010 phải
hoàn thành theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 05/2006/CT-
TTg ngày 22/02/2006 và Chỉ thị số 02/CT-BTNMT ngày 19/11/2007 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên môi trường, Chỉ thị số 11/CT-UBND ngày 20/3/2008 của
UBND Tỉnh về việc tiếp tục chuyển đổi ruộng đất lần 2. UBND Huyện yêu cầu
UBND các xã, thị trấn kiện toàn ban chỉ đạo chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp
giai đoạn 2, phấn đấu hoàn thành trong năm 2008. Yêu cầu đặt ra sau chuyển đổi
là mỗi hộ sử dụng tối đa 3 thửa đất và diệnh tích thửa nhỏ nhất là 500m
2
; chuyển
đổi phải gắn với điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy hoạch giao
thông, thuỷ lợi nội đồng và chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp.
PHẦN III.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ quỹ đất chủ yếu là đất nông nghiệp nằm trong ranh giới hành
chính của xã Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành điều tra, khảo sát, nghiên cứu
và đánh giá toàn bộ quỹ đất nông nghiệp trên địa bàn xã Cẩm Lạc.
- Phạm vi thời gian: Đề tài được tiến hành từ ngày 05 tháng 01 đến ngày
03 tháng 05 năm 2011.
3.2 Nội dung nghiên cứu
- Điều tra, khảo sát và đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã.
- Đánh giá tình hình sử dụng và quản lý đất đai trên địa bàn xã.
- Đánh giá tác động của công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp của xã
đến hiệu quả sử dụng đất, đến xã hội và môi trường.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Chọn điểm và chọn mẫu
* Chọn điểm
Đề tài nghiên cứu trên toàn xã Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Đây là xã có nhiều diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho sản xuất, và là một
trong những xã có nhiều thửa ruộng phân tán nhỏ lẻ với nhiều vùng đất tốt xấu,
thấp trũng, đất gò đồi… nhất của huyện. Vì thế, việc dồn điền đổi thửa diễn ra
khá phức tạp và rất khó để phân chia cho phù hợp với mong muốn của người
đân.
* Chọn mẫu
Chọn 30 hộ thuộc thôn Quang Trung I có điều kiện kinh tế khác nhau, có
số nhân khẩu khác nhau trong đó có cả một số hộ làm nghề phi nông nhằm có cái
nhìn tổng quát hơn về những ý kiến khác nhau xung quanh công tác DĐĐT.
Dựa trên những tiêu chí tìm hiểu địa bàn đại diện cho việc thực hiện công
tác dồn điền đổi thửa theo hướng tác động tích cực và tiêu cực mà các hộ được
hưởng lợi hoặc phải chịu thiệt thòi.
3.3.2 Phương pháp thu thập thông tin
3.3.2.1 Thu thập thông tin sơ cấp
* Phỏng vấn cán bộ khuyến nông huyện
Nội dung
- Tìm hiểu công tác quản lý của nhà nước về đất đai.
- Tìm hiểu quy trình thực hiện DĐĐT.
- Mặt tích cực và hạn chế của công tác DĐĐT trên toàn huyện nói chung.
- Những sự hỗ trợ của phòng nông nghiệp tới các xã trước, trong và sau
khi thực hiện công tác dồn điền đổi thửa.
* Phỏng vấn chính quyền và cán bộ nông dân xã, cán bộ các thôn xóm
Nội dung
- Quá trình triển khai thực hiện công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã.
- Đánh giá tác động của công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn.
- Các chính sách hỗ trợ của xã đến thôn xóm.
- Khả năng giải quyết các mâu thuẩn, thu hồi đất vô chủ, cấp bìa đất,… của
chính quyền địa phương.
* Phỏng vấn các hộ nông dân
Nội dung
- Sự tham gia của người dân trong công tác dồn điền đổi thửa.
- Những thuận lợi hay khó khăn trong sản xuất giữa trước và sau khi nhà
nước và chính quyền địa phương thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa.
- Yêu cầu và nguyện vọng của người dân sau thực hiện dồn điền đổi thửa.
* Thảo luận nhóm
Nội dung
- Phân tích nhưng thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức sau chuyển đổi
trong bối cảnh xã sắp thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới vào năm 2011.
- Xác định mức độ hài lòng của các hộ nông dân, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông hộ và mức thu nhập của họ so với trước chuyển đổi.
- Thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu thông
qua các công cụ PRA.
3.3.2.2 Thu thập thông tin thứ cấp
- Số liệu thứ cấp được thu thập từ những tài liệu, báo cáo hàng năm (năm
2008 (trước DĐĐT) và năm 2009 (sau DĐĐT)), số liệu được công bố của phòng
thống kê, báo cáo hàng năm của UBND xã.
- Chính sách dồn điền đổi thửa của phòng nông nghiệp; địa chính huyện
Cẩm Xuyên.
- Số liệu, báo cáo trên sách, báo, các trang Web và các báo cáo khoa học
có liên quan.
3.3.2.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sau khi thu thập được các tài liệu, số liệu cần thiết thì sử dụng phương
pháp này để tiến hành phân tích và xừ lý, từ đó có thể tiến hành lập các bảng
biểu để so sánh, đánh giá sự tăng giảm trong dãy số liệu, tìm ra nguyên nhân của
sự tăng giảm đó, như vậy sẽ đánh giá được công tác dồn điền đổi thửa, thấy rõ
được những hạn chế tồn tại và đưa ra các biện pháp thực hiện.
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGIÊN CỨU
4.1 Đặc điểm cơ bản về tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Cẩm Lạc,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà tĩnh
4.1.1 Vị trí địa lí
Cẩm Lạc tuy là một xã thuộc vùng đồng bằng nhưng diện tích đất đồi núi
chiếm một tỉ lệ khá cao, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, có tổng diện tích tự
nhiên là 3.857,6 ha. Địa hình kéo dài từ Tây sang Đông, một số thôn phân bố rải
rác nằm xen lẫn với các cánh đồng rộng lớn nên khó khăn trong việc đi lại như
thôn Lạc Thọ, thôn Nam Hà. Xã có vị trí địa lý như sau:
- Phía Nam giáp xã Cẩm Minh.
- Phía Bắc giáp xã Cẩm Thịnh.
- Phía Đông giáp xã Cẩm Lộc và Cẩm Sơn.
Phía Tây là dãy núi ngăn cách với huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.
Địa hình xã Cẩm Lạc chia làm 2 dạng cơ bản:
- Dạng thứ nhất là đồng bằng bán sơn địa có độ dốc khá lớn, xã được chia
làm 2 vùng ngăn cách bởi con sông Rác kéo dài đổ ra biển đông.
- Dạng thứ 2 là vùng đồng bằng có độ dốc vừa phải thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, trong đó phổ biến là trồng lúa, sắn và lạc.
4.1.2 Dân số và lao động
Dân số và lao động là nguồn lực không thể thiếu của một vùng, một địa
phương. Nó vừa là nguồn lực trong sản xuất vừa là người được hưởng trực tiếp
các lợi ích của phát triển kinh tế. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế về cơ bản vẫn
là nền kinh tế nông nghiệp, lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao và là
lực lượng dân số chủ yếu. Trong quá trình CNH - HĐH đất nước hiện nay, sự
phát triển kinh tế của từng địa phương ngoài những ảnh hưởng tích cực đến nông
nghiệp nông thôn, thì nó cũng có những ảnh hưởng theo chiều hướng ngược lại
đến sản xuất cũng như lao động nông nghiệp. Nếu dân số và lao động vừa đảm
bảo về lượng vừa đảm bảo về chất thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế và xã hội một cách bền vững, nhưng ngược lại nếu dân số nhiều nhưng
lao động ít, chất lượng lao động thấp thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước hay địa phương đó. Do vậy, khi thực hiện đề tài tôi đã tìm hiểu cơ
cấu dân số và lao động của xã Cẩm Lạc, kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Cơ cấu dân số và lao động của xã Cẩm Lạc
TT Cơ cấu Người
I Tổng số hộ 1574
II Tổng dân số 6422
2.1 Bình quân nhân khẩu /hộ 4.08
2.2 Tổng số Nam 3305
2.3 Tổng số Nữ 3117
III Tổng số lao động 3860
3.1 Bình quân lao động/hộ 2.45
3.2 Lao động nam 1882
3.3 Lao động nữ 1978
3.4 Lao động nông nghiệp 2542
3.5 Lao động phi nông 1318
Nguồn: - Thống kê và báo cáo của xã Cẩm Lạc năm 2009
Qua bảng 1 cho thấy, lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỉ lệ khá
lớn với hơn 65,8% tổng số lao động, còn lao động phi nông (tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ ) chiếm tỉ lệ khá thấp với hơn 34%. Tuy tỉ lệ chênh
lệch này là khá lớn nhưng so với những năm trước đây nó đã giảm đi rất đáng kể.
Đây là những thuận lợi lớn vì lao động phi nông đã mang về thu nhập cho xã nhà
hơn 60% tổng thu nhập toàn xã (nguồn: báo cáo của UBND xã). Điều này đã góp
phần không nhỏ trong việc tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho nhiều nông
dân, tạo điều kiện cho xã nhà thực hiện việc xây dựng đề án nông thôn mới (một
trong các tiêu chí quan trọng nhất là thu nhập phi nông chiếm 70%).
Tóm lại, Cẩm Lạc là xã đồng bằng có nhân lực và nguồn lao động dồi dào
(2,45 lao động/hộ) trong đó lao động phi nông chiếm một tỉ lệ khá lớn so với các
xã lân cận. Chính vì vậy, xã cần có chính sách phát triển nông nghiệp kết hợp
với tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thương mại ngay trên mãnh đất của mình,
tiếp tục thực hiện cơ giới hóa vào sản xuất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các
lao động trong xã tham gia nhiều hơn vào sản xuất kinh tế phi nông góp phần
đưa kinh tế của xã nhà ngày càng đi lên một cách vững chắc.
4.1.3 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Cẩm Lạc
Theo số liệu điều tra năm 2009 thì tổng diện tích tự nhiên của xã là
3.857,6ha và được sử dụng vào mục đích được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Hiện trạng sử dụng đất ở xã Cẩm Lạc năm 2009
Loại đất Diện tích ((ha)
Tổng diện tích đất tự nhiên 3.857,6
1.1. Đất nông nghiệp 564,69
1.1.1. Đất trồng cây hàng năm 453,28
1.1.2. Đất lúa, hoa màu 413,97
1.1.3. Đất trồng cây lâu năm 9
1.2. Đất lâm nghiệp
1.2.1. Đất có rừng tự nhiên 648,9
a. Đất có rừng sản xuất 86,7
b. đất có rừng phòng hộ 562,2
1.2.2. Đất có rừng trồng 378
a. Đất có rừng sản xuất 6,7
b. Đất có rừng phòng hộ 41,5
1.3. Đất chuyên dùng 297,7
1.3.1. Đất xây dựng 16,75
1.3.2. Đất giao thông 49,46
1.3.3. Đất thuỷ lợi, mặt nước chuyên dùng 127,99
1.3.4. Đất nghĩa địa 29,5
1.3.5. Đất khác 74,5
1.4. Đất ở nông thôn 28,38
1.5. Đất chưa sử dụng 1.939,93
1.5.1. Đất bằng 123,06
1.5.2 Đất đồi núi 1.105,87
1.5.3. Sông suối 70,5
1.5.4. Đất núi đá có cây 613
1.5.5. Đất khác 27,5
Nguồn: Tổng hợp số liệu của UBND xã năm 2009
Nhìn vào bảng trên ta thấy hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã
Cẩm Lạc là 2.642,77ha chiếm 49,7% tổng diện tích đất tự nhiên, trong 50,3%
diện tích còn lại chưa sử dụng thì đất đồi núi chiếm tới 57%.
4.1.4 Đặc điểm về điều kiện kinh tế xã hội
4.1.4.1 Sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi
Từ xưa đến nay đa số người dân xã Cẩm Lạc sống dựa nhiều vào nông,
lâm nghiệp với tổng giá trị thu được năm 2009 là 27,339 tỷ chiếm gầm 50% giá
trị tổng sản phẩm xã hội.
Bảng 3: Một số thông tin về tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp của xã
Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
Lúa 780 45,93 3581
Lạc 76,4 20 152,8
Sắn 60 100 600
Khoai lang 21 40 84
Nguồn: Báo cáo của xã Cẩm Lạc năm 2009
Chăn nuôi
Nhìn chung, ngành chăn nuôi năm 2009 đã có bước khởi sắc hơn trong
chăn nuôi gia cầm trong đó đáng chú ý là phát triển gà thả vườn, đàn trâu bò có
chiều hướng giảm dần vì đã có máy cày tháy sức kéo, nhất là trong bối cảnh xã
vừa thực hiện chuyển đổi ruộng đất lần 2 năm 2008.
Qua thống kê cho thấy tình hình chăn nuôi của xã như sau:
Bảng 4: Tình hình chăn nuôi của xã Cẩm Lạc năm 2008 và 2009
STT Đối tượng Năm 2008 (con) Năm 2009 (con)
1 Tổng đàn trâu, bò 2.120 1.431
2 Tổng đàn gia cầm Gần 21.700 22.500
3 Tổng đàn lợn 3.820 Hơn 3.500
Nguồn: Báo cáo của xã Cẩm Lạc năm 2008 và 2009
4.1.4.2 Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ
Sản xuất tiểu thủ công nghiệp chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế,
nhưng so với năm 2008, sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã có bước chuyển biến
khá hơn. Toàn xã có 1318 lao động hoạt động tiểu thủ công nghiệp, thương mại,
dịch vụ, trong đó có 117 lao động hàn, mộc, nề thu nhập từ 20 triệu đồng trở
lên/năm, có 50 lao động xuất khẩu thu nhập khá từ 150-200 triệu đồng/năm.
Có 32 hộ kinh doanh nhỏ, 60 hộ kinh doanh vừa, có 9 hộ kinh doanh đại
lý vật tư hàng hoá, có 1051 lao động làm hợp đồng với các công ty xí nghiệp, có
50 máy cày, 25 máy tuốt lúa, 84 máy xay xát và nghiền thức ăn gia súc, 6 ô tô
vận tải. Tổng giá trị ước tính từ kinh doanh thương mại dịch vụ đạt 23,068 tỷ
đồng.
4.2 Đánh giá tình hình sử dụng và quản lý đất đai trên địa bàn xã
4.2.1 Công tác quản lý Nhà nước về đất đai thời kỳ trước Luật đất đai
năm 1993 ra đời
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng vào năm 1975 cùng với các địa
phương khác trên cả nước nói chung và xã Cẩm Lạc, huyện Cẩm Xuyên nói
riêng đều thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác quản lý đất đai, bao gồm: Thực hiện quyết định 169/CP năm 1977 của
Thủ tướng chính phủ về công tác đo đạc, điều tra thống kê tình hình cơ bản đất
đai cả nước; thực hiện quyết định số 201/CP ngày 01 tháng 07 năm 1980; chỉ thị
299TTg ngày 10/11/1980 về công tác đo đạc, phân hạng, đăng ký thống kê đất
đai; chỉ thị 100CT/TW ngày 13/01/1981 về khoán sản phẩm; tổ chức tuyên
truyền Luật đất đai được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 10 năm 1987; nghị
quyết 10NQ/TW ngày 05 tháng 04 năm 1988; chỉ thị 30/HĐBT ngày 23 tháng
03 năm 1989 của hội đồng bộ trưởng về thi hành Luật đất đai.
Mặc dù đã thực hiện tốt các chủ trương chính sách đó nhưng công tác
quản lý đất đai của Cẩm Lạc còn nhiều hạn chế và tồn tại như: năng lực quản lý
và trình độ của cán bộ địa chính lúc bấy giờ còn thấp trong lúc đó thì các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thường xuyên thay đổi, các nghị
quyết, chỉ thị chưa đồng nhất về nội dung. Do vậy dẫn đến việc phân cấp quản lý
chưa rõ ràng, nội dung quản lý chưa chặt chẽ, dẫn đến việc sử dụng đất sai mục
đích và kém hiệu quả. Kết quả thống kê, kiểm kê đất đai hàng năm thường thiếu
chính xác. Tóm lại, thời kỳ chưa có Luật đất đai 1993 ra đời thì công tác quản lý
đất đai còn nhiều bất cập và hạn chế kìm hãm sự phát triển nền kinh tế của xã
nhà nói riêng và các địa phương khác trên cả nước nói chung.
4.2.2 Công tác quản lý Nhà nước về đất đai thời kì Luật đất đai năm
2003 ra đời đến nay
Ngày 31/07/1993 Quốc hội khoá 9 đã thông qua và Chủ tịch nước đã ký
lệnh công bố Luật đất đai mới. Với sự ra đời của Luật đất đai 1993 đã tạo nên
một bước phát triển mới cho công tác quản lý đất đai. Tình hình quản lý đất đai
của xã trong thời gian này đã có nhiều chuyển biến, đã lập phương án để UBND
huyện phê duyệt giao đất cho các hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Điều này đã tạo ra sự yên tâm cho người dân, từ đó nông dân trong xã đã tăng
cường đầu tư và tiến hành khai hoang mở rộng diện tích sản xuất.
Sau khi Luật đất đai 1993 đi vào thực hiện bên cạnh những hiệu quả mang
lại, theo thời gian đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập không phù hợp với tình hình
hiện tại. Tiếp sau đó với Luật đất đai sữa đổi bổ sung vào năm 1998 và 2001, đến
ngày 26/11/2003 Luật đất đai 2003 đã được Quốc hội thông qua đánh dấu sự
chuyển biến quan trọng trong công tác quản lý đất đai, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ
cho công tác này. Được sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện và sự quan tâm của Đảng bộ, UBND xã, cán bộ địa
chính xã đã hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý đất đai, đưa công tác đi vào thực tế
theo đúng 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Thể hiện ở các nội dung sau:
* Công tác lập và quản lý hồ sơ địa giới
Đây là cơ sở quan trọng để quản lý đất đai tại địa phương, đảm bảo ranh
giới quản lý của các cấp. Thực hiện chỉ thị 364/CP-HĐBT ngày 06 tháng 11 năm
1991 địa giới hành chính của xã Cẩm Lạc với các xã lân cận đã được xác định rõ
ràng. Qua công tác đo đạc địa chính đã xác định được tổng diện tích tự nhiên của
xã là 3.857,6 ha.
* Công tác đo đạc và lập bản đồ địa chính
Với sự giúp đỡ của Trung tâm kỹ thuật địa chính tỉnh và Phòng Tài
nguyên và Môi trường đến nay đã hoàn thành đo vẽ bản đồ chi tiết đất sản xuất
nông nghiệp và bản đồ chi tiết đất lâm nghiệp. Đó là cơ sở để cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
* Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Đây là khâu quản lý nhằm ổn định tình hình sản xuất, tổng hợp các biện
pháp kinh tế - kỹ thuật - pháp lý để phân bố đất đai cho các mục tiêu kinh tế - xã
hội nhằm công khai cho người dân biết để an tâm sản xuất. Việc lập quy hoạch
sử dụng đất chi tiết cho xã còn khá mới mẻ nên hiện nay xã Cẩm Lạc đang tiến
hành triển khai công tác này.
* Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng và cấp giấy
CNQSD đất
Thực hiện theo đúng Nghị định 64/CP của Chính phủ về công tác dồn điền
đổi thửa thì hiện nay hầu hết diện tích đất đai của xã đã có chủ sử dụng ngoại trừ
1.939,93 ha đất chưa sử dụng. Việc chuyển mục đích sử dụng đất đai của xã đều
được thực hiện theo đúng trình tự mà luật quy định, người dân không tự ý
chuyển mục đích khi chưa có quyết định của cơ quan quản lý đất đai.
Sau khi công tác dồn điền đổi thửa được hoàn thành, Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng sử dụng đất huyện đã tiền hành công tác chỉnh lý bản đồ, hoàn
thiện dần hồ sơ sổ sách và tiến hành cấp giấy CNQSD đất nông nghiệp cho tất cả
người dân trong xã.
* Công tác quản lý tài chính về đất đai
Đây là công tác nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách, đảm bảo sự công
bằng xã hội. Hàng năm cán bộ địa chính xã tiến hành xác định và thu tất cả các
loại thuế sử dụng đất để nộp cho cơ quan quản lý tài chính.
* Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo về đất đai
Theo quy định mới của Luật đất đai 2003 việc giải quyết tranh chấp, khiếu
nại tố cáo về đất đai là nhiệm vụ của cơ quan quản lý đất đai mà cụ thể là là địa
chính xã, theo phương châm “hoà giải”. Từ đó tìm ra các giải pháp cụ thể đúng
đắn nhằm phục hồi các quyền lợi bị xâm hại, truy cứu trách nhiệm pháp lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật. Hàng năm trên địa bàn xã vẫn xảy ra một số
vụ tranh chấp đất đai giữa các hộ sử dụng đất liền kề về ranh giới sử dụng đất và
một số vụ về lấn chiếm đất đai.
4.3 Đánh giá công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp xã Cẩm Lạc,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
4.3.1 Sự cần thiết phải dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
Ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của nông dân và ruộng đất luôn là
trung tâm của đời sống kinh tế - xã hội nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp
nông thôn của đất nước trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân
với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất của các hộ nông dân trong
phạm vi cả nước. Vì vậy, giải quyết những mối quan hệ ruộng đất trong điều
kiện hiện nay của nước ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho sự phát triển nông
nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá.
Với sự ra đời của của Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất nông
nghiệp lâu dài cho hộ nông dân tự chủ sản xuất đã có những tác động tích cực,
khuyến khích thúc đẩy nông dân đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, tăng thu nhập cải thiện đời
sống làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Đến cuối năm 1994 thì nhìn
chung 100% số hộ đã được giao ruộng đất và đến năm 2000 đã cơ bản hoàn
thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho người dân.
Tuy vậy, do yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
nên Nghị định 64/CP của Chính phủ có nhiều vấn đề không phù hợp, tình trạng
đất đai phân chia manh mún phân tán, có tốt, có xấu, có gần, có xa làm tăng ngày
công lao động và chi phí sản xuất, hệ thống giao thông thuỷ lợi ở nội đồng, vùng
chuyên canh chưa được quy hoạch làm hạn chế việc cơ giới hoá và chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, hiện nay
ở nước ta bình quân mỗi hộ nông nghiệp có từ 7 đến 10 mảnh ruộng, mỗi mảnh
chỉ có từ 50 - 102m
2
, có vùng có tới 30 mảnh nhưng diện tích mỗi mảnh khoảng
từ 30 - 80m
2
. Việc tích tụ ruộng đất còn nhiều hạn chế, vì vậy hiệu quả sử dụng
nguồn lực đất đai trong sản xuất nông nghiệp chưa cao. Diện tích đất trên một
đầu người lao động nông nghiệp ở nước ta thuộc loại thấp nhất thế giới (khoảng
0,1 ha/người), trong khi đó dân số tăng nhanh và quá trình đô thị hoá đã dẫn đến
xu hướng diện tích đất canh tác trên đầu người càng giảm.
Đối với huyện Cẩm Xuyên nói chung và xã Cẩm Lạc nói riêng thực hiện
chính sách chia ruộng đất ổn định lâu dài cho nông hộ trên cơ sở nguyên trạng
khoán 10 nên bộc lộ những nhược điểm sau đây:
- Hệ thống mương máng, giao thông nội đồng chưa được quy hoạch một
cách tổng thể, hiệu quả tưới tiêu thấp. Trong khi đó hệ thống giao thông nội đồng
đang ngày càng bị xuống cấp, các đầu mối cống tưới tiêu đều không được sữa
chữa đã ảnh hưởng rất lớn đến công việc sản xuất của nông dân.
- Quá trình giao đất theo nguyên trạng khoán 10 (khoán hộ) cho nên ruộng
đất chia cho hộ manh mún, phân tán trên tất cả các xứ đồng theo quan điểm có
tốt có xấu, có gần có xa. Đây là vấn đề khó khăn nhất cho người dân trong việc
đi lại đầu tư thâm canh.
- Qua khảo sát tình hình sử dụng đất nông nghiệp, đất trồng lúa trên địa
bàn toàn huyện, có 218.349 thửa, số thửa có diện tích trên 500m
2
là 62.264 thửa
và số thửa có diện tích dưới 500m
2
là 56.085 thửa. Điều đó nói lên mức độ manh
mún, hiện nay có những xã như Cẩm Hưng, Cẩm Lạc, Cẩm Long …trung bình
mỗi hộ từ 9-11 thửa, như thế có những hộ sử dụng trên 15 thửa đất.
- Đất công ích các xã, thị để phân tán rải rác, trên 68% chủ yếu gửi vào đất
giao ổn định lâu dài, thậm chí có những vùng không có địa chỉ cụ thể.
- Công tác quản lý nhà nước về đất đai gặp nhiều khó khăn, đặc biệt công
tác để quản lý và xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong thời gian tới.
Từ thực trạng như trên, đặc biệt những khó khăn tồn tại cho nên việc thực
hiện cuộc vận động chuyển đổi sử dụng ruộng đất nông nghiệp trong thời gian
tới là vấn đề hết sức cần thiết, tạo điều kiện cho các xã, thị, thôn, xóm tiếp tục
chỉ đạo giao hết diện tích đất nông nghiệp, quy hoạch lại hệ thống kênh mương,
bờ vùng, bờ thửa, cải tạo lại đồng ruộng, xoá bỏ manh mún, quy hoạch đất công
ích, đặc biệt tạo cho người dân sản xuất có hiệu quả.
Từ những thực tế nói trên, thực hiện chủ trương “dồn điền, đổi thửa” là hết
sức cần thiết, là một yếu tố khách quan, một phương án đột phá, nhằm đẩy nhanh
sự phát triển nông nghiệp hàng hoá. Là chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà
nước trong thời kì mới.
4.3.2 Tiến trình và phương pháp thực hiện công tác dồn điền đổi thửa
4.3.2.1 Mối quan hệ giữa công tác dồn điền đổi thửa với quy hoạch,
công tác quản lý và sử dụng đất
a. Với quy hoạch sử dụng đất
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương theo chiều hướng
tích cực hay không phụ thuộc rất lớn vào quy hoạch, kế hoạch của địa phương
đó. Và quá trình thực hiện phải gắn liền với việc sử dụng đất.
Trước khi thực hiện kế hoạch dồn điền đổi thửa đòi hỏi các đơn vị phải
nắm chắc được tình hình cơ bản, rà soát kỹ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
nắm lại các quỹ đất. Đối với những vùng đã có quy hoạch được UBND huyện
phê duyệt thì tiến hành rà soát bổ sung để thông qua hội đồng nhân dân xã,
những nơi chưa có quy hoạch sử dụng đất thì căn cứ vào đặc điểm tình hình đất
đai, cơ sở hạ tầng và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương xây dựng quỹ đất cho phù hợp. Từ đó tạo điều kiện để quy hoạch đồng
ruộng, nâng cấp hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng, quy hoạch nông nghiệp
thành các vùng chuyên canh, phối hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xác định cho từng địa phương. Khai thác hết tiềm năng đất đai hiện có, từng
bước làm thay đổi tập quán sản xuất lạc hậu, chuyển dần một bộ phận lao động
nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhằm
nâng cao đời sống nhân dân, đổi mới bộ mặt nông thôn.
Tóm lại, quy hoạch sử dụng đất là một nội dung đặc biệt quan trọng trong
quy trình dồn điền đổi thửa hay quá trình này phải gắn với việc quy hoạch lại
đồng ruộng, giao thông thuỷ lợi, bố trí lại quỹ đất công ích cho phù hợp.
b. Với công tác quản lý và sử dụng đất
Trước đây ở nước ta đất nông nghiệp nói riêng và đất đai nói chung do nhà
nước quản lý, do tính chất rộng lớn phân tán nên việc quản lý của Nhà nước ở
tầm vĩ mô, không trực tiếp quản lý đến từng hộ cá nhân sử dụng đất vì thế không
thấy được những khó khăn tồn tại trong việc sử dụng đất dẫn đến kết quả sản
xuất nông nghiệp đạt hiệu quả thấp.
Mặt khác, công tác quản lý và sử dụng đất đai trước đây đã gặp phải những
vướng mắc như quỹ đất công ích nằm xen lẫn quỹ đất giao sử dụng ổn định lâu
dài nên có một số trường hợp người dân tự động sử dụng mà không được sự
đồng ý của chính quyền UBND xã, hoặc một số trường hợp nông dân lấn chiếm
đất công ích để làm quỹ đất riêng của mình. Đó là 2 trong nhiều lý do quan trọng
cần tiến hành dồn điền đổi thửa.
Kết quả cấp giấy chuyển quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân