PHẦN I . ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động Thể dục thể thao là một hoạt động không thể hiếu được trong đời
sống của mỗi con người, sự hoàn thiện về thể chất lẫn tinh thần giúp con người
phát triển một cách toàn diện.
Nhận thức được vai trò to lớn của Thể dục thể thao, tháng 3 năm 1946 Bác Hồ đã
viết lời kêu gọi " Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới việc gì
cũng cần có sức khỏe mới thành công. Vậy nên rèn luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe
là bổn phận của mỗi người dân yêu nước'' . Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng
vận mệnh của đất nước gắn liền với sức khỏe của từng người dân. '' Mỗi một người
dân yếu ớt tức là làm cho nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khỏe mạnh
tức là làm cho nước khỏe mạnh ". Thấm nhuần tư tưởng Chủ Tịch Hồ Chí Minh
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước
ta luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đặc biệt là
sự nghiệp trồng người, thế hệ tương lai của đất nước.
Giáo dục thể chất cho học sinh là một trong những nội dung cơ bản giáo dục
toàn diện: “ Trí lực và Thể lực” góp phần giáo dục tố chất vận động, nhân cách,
đạo đức lối sống, tác phong làm việc. Việc gì cũng cần có sức khỏe thì mới có thể
làm, có sức khỏe tốt, tinh thần minh mẫn thì làm việc gì kết qủa đạt được cũng
luôn luôn cao. Do vậy bồi bổ sức khỏe cho học sinh hiện nay, để làm nền tảng sau
này đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, giáo viên chuyên ngành, các em học
sinh.
Như chúng ta đã biết trong bài phát biểu kêu gọi toàn dân tham gia luyện tập
Thể dục Bác Hồ có khuyên chúng ta hãy tham gia luyện tập TDTT thường xuyên
giúp cho máu huyết lưu thông, tinh thần minh mẫn, làm cho cơ thể cường tráng,
khỏe mạnh điều đó chứng tỏ làm cho nước nhà thêm phần mạnh khoẻ. Điều này
không khó khăn tốn kém gì, ai ai cũng có thể tham gia và luyện tập. Dân có giàu
thì nước mới mạnh Bác mong ai cũng cố công luyện tập, tự Bác ngày nào cũng tập.
Ở học sinh phổ thông nói chung và tuổi học sinh THCS nói riêng, tính vui tươi,
hồn nhiên, hiếu động là không thể thiếu được trong các em. Đặc biệt là mặt tâm
sinh lý của các em có nhiều thay đổi lớn. Vì vậy, trong môn thể dục không nên
theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây cho các em sự mệt mỏi, căng
thẳng, nhàm chán, dẫn đến phản tác dụng rèn luyện mà phải kích thích, tác động
đến hoạt động toàn diện cả về mặt tâm sinh lý ở các em, tạo nên sự hứng thú, giúp
các em ham thích, tập luyện tốt hơn. Mặt khác, trong thực tế môn học thể dục có
nhiều đối tượng học sinh khác nhau, có em có sức khoẻ tốt, có em sức khoẻ yếu, có
em tật bẩm sinh.v.v. Vậy phải làm thế nào với những em không phải đứng nhìn các
bạn tập luyện mà thèm muốn buồn tủi. Phải như thế nào? Phải dùng những biện
pháp nào? Một câu hỏi đang được đặt ra. Vậy trên nền tảng GDTC đặt ra, với
những phương pháp được sử dụng hợp lý có tác dụng quan trọng đến đối tượng tập
luyện kích thích, hay động viên. Nhiều phương pháp khác để cho các em có thể tập
1
SỐ PHÁCHSỐ PHÁCH
luyện nâng cao sức khoẻ, phục vụ tốt cho việc học tập.
Trong những năm qua Bộ Giáo dục & Đào tạo đã không ngừng cải tiến phương
pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy. Thế nhưng một bộ phận giáo viên
dạy bộ môn Thể dục vẫn hay chủ quan, xem thường, không chịu khó nghiên cứa
tài liệu, các chuyên đề, các đợt tập huấn, các hội thảo chuyên môn v.v Dẫn đến
quá trình dạy học nội dung chạy bền học sinh không hứng thú trong tiết học, học
sinh thường chạy giữa chừng rồi bỏ cuộc hoặc là đi bộ cho hết đoạn đường qua
định. Giáo viên không kiểm tra xem xét tình trạng sức khỏe và tâm sinh lý của học
sinh nên hay cáu gắt, phạt các em không thực hiện đủ nội dung mà giáo viên đề ra,
làm cho các em xem nội dung chạy bền là cơn ác mộng, không muốn học nội dung
chạy bền.
Môn chạy bền được giảng dạy xuyên suốt chương trình từ lớp 6 đến lớp 9 của
bậc THCS. Tập chạy bền để phát triển sức bền với cự ly chạy thường 300m trở lên,
học sinh phần lớn ngán, ngại tập luyện vì chạy bền là nội dung tập luyện tương đối
đơn điệu, đòi hỏi năng lực, sức chịu đựng của người tập rất cao, vì phải hoạt động
trên một đoạn đường dài, khả năng chống chịu mệt mỏi của cơ thể cao, qúa trình
tập luyện nhất thiết bản thân phải nỗ lực và cần cù, tính kiên nhẫn, bền bỉ, dẻo dai.
Khi tổ chức các trò chơi giáo viên cho học sinh chơi đi chơi lại một trò chơi quá
nhiều lần gây ra hiện tượng học sinh nhàm chán, không có hứng thú trong học tập,
không có sự ganh đua giữa tổ này với tổ khác, đội này với đội kia. Không đưa các
trò chơi ưa thích của địa phương vào nội dung chơi, giải thích và hướng dẫn luật
chơi không cụ thể nên tính tổ chức kỷ luật không cao.
Khi hướng dẫn trò chơi giáo viên không hướng dẫn một cách chi tiết, thường
giao cho cán sự lớp tổ chức, giáo viên không quan sát xem học sinh có tích cực tự
giác hay không. Nội dung chạy bền xuyên suốt cả quá trình học nên cần nâng dần
lượng vận động một cách hợp lý. Trong quá trình dạy học chạy bền giáo viên
thường cho học sinh chạy khi nào thấy mồ hôi ra nhiều thì mới cho dừng lại, nhiều
em có sức khỏe yếu thường thấy hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn. Bên cạch đó một
số giáo viên không chú trọng công tác chuyên môn dẫn đến chất lượng dạy học
Thể dục đặc biệt là nội dung chạy bền ngày càng đi xuống, chưa áp dụng phương
pháp dạy học tích cực. Giáo viên còn lúng túng trong khâu tổ chức tập luyện, chưa
khuyến khích được học sinh trong các giờ học, mà đặc điểm tân lý của lứa tuổi này
là thích được khen.
Bên cạnh đó sự đầu tư của cấp trên chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học
sinh, gây không ít khó khăn cho giáo viên, đa số giáo viên thiếu sáng tạo trong tổ
chức dạy học vì thế nên học sinh chưa đạt yêu cầu về định lượng, giáo viên chia
nhóm, đội chơi không đồng đều nên có sự không cân sức. Mà yêu cầu hàng đầu
của giáo dục thể chất hiện nay là nâng cao thể lực cho học sinh.
Ngoài nội dung chính bắt buộc trong phân phối chương trình giáo viên thường ít
chú ý biên soạn ( ở phần trò chơi do GV chọn) , chưa tìm tòi những trò chơi mới lạ
2
hấp dẫn để đưa vào phục vụ mục đích giảng dạy, hoặc nếu có thì còn đơn giản kém
phong phú và hấp dẫn, chưa đưa ra hình thức thưởng phạt thích đáng. Chính vì vậy
tôi đi sâu nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài này nhằm nâng cao chất lượng dạy
học thể dục nói chung và dạy nội dung chạy bền nói riêng góp một phần nhỏ công
sức hoàn thành mục tiêu mà ngành giáo dục đề ra.
Qua đề tài này mục đích của bản thân nhằm phát huy tối đa khả năng vận động
của các em, giúp các em tích cực tự giác luyện tập nhằm nâng cao sức khỏe thông
qua các trò chơi đa dạng, phong phú bởi trò chơi tôi đưa vào được sử dụng như
một nội dung học tập, vừa là phương tiện rèn luyện sức khỏe, thể lực và giáo dục
đạo đức cho học sinh. Các trò chơi này mang đầy đủ các đặc điểm, tính chất hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh nhất, thu hút các em vào luyện tập tạo sự hứng thú trong học
tập.Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định lựa chọn đề tài:
''
Lựa chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 6 nhằm tạo
hứng thú trong học nội dung Chạy bền "
3
PHẦN II. NỘI DUNG
Với sáng kiến này mục đích của tôi là tìm hiểu lựa chọn một số trò chơi vận
động phù hợp với học sinh khối 6 nhằm tạo hứng thú trong học nội dung chạy bền,
cũng như nâng cao sức khỏe cho học sinh.
I. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1, Tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong môn học.
2, Giúp các em rèn luyện thân thể tốt, có sức khoẻ đảm bảo trong việc học tập.
3, Sử dụng một số trò chơi vận động phù hợp với lứa tuổi các em đảm bảo tính vừa
sức, hấp dẫn.
II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Với sáng kiến này tôi xác định hai nhiệm vụ trọng tâm sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu về cơ sở lý luận trong dạy học chạy bền.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu lựa chọn trò chơi vận động phù hợp vào các tiết dạy cụ
thể theo phân phối chương trình nhằm tạo sự hứng thú và phát triển sức bền cho
học sinh khối 6.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
.
1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Dựa vào dạy thực nghiệm khối 6 năm học 2010 – 2011
2. Phương pháp thống kê :
Nghiên cứu qua kết quả học tập năm học 2009 – 2010 và việc thăm dò cũng
như kết quả kiểm tra nội dung Chạy bền đối với học sinh khối 6 năm học
2010 – 2011.
3. Phương pháp bổ trợ:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp tham khảo tài liệu.
IV. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
:
1.Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 9/2010 đến tháng 4/2011.
Quá trình nghiên cứu chúng tôi chia làm 4 giai đoạn:
∗
Giai đoạn 1: Từ tháng 9/2010 đến tháng 11/2010. Đọc tài liệu liên quan
đến đề tài nghiên cứu, xác định nhiệm vụ xây dựng đề cương và kế hoạch
nghiên cứu.
∗
Giai đoạn 2: Từ tháng 11/2010 đến tháng 12/2010. Tiến hành điều tra số
liệu để thực hiện giải quyết nhiệm vụ.
4
∗
Giai đoạn 3: Từ tháng 1/2011 đến tháng 2/2011. Tiến hành xử lý thông tin
số liệu hoàn thành đề tài.
∗
Giai đoạn 4: Từ tháng 3/2011 đến tháng 4/2011. Tiến hành xử lý bổ sung
thêm thông tin, số liệu hoàn thiện đề tài.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các khối 6 năm học 2010 – 2011
3. Địa điểm nghiên cứu:
Trường trung học cơ sở Thạch Ngàn - Con Cuông
4. Dụng cụ nghiên cứu:
Chúng tôi sử dụng một số dụng cụ đo đạc để xác định thành tích:
- 1 bộ thước dây
- 1 đồng hồ bấm giờ
VI. THỰC TRẠNG:
* Qua thực tế giảng dạy gần 10 năm tại trường THCS Thạch Ngàn bản thân tôi
nhận thấy muốn tổ chức tốt một tiết học không phải là đơn giản. Ở chương trình
lớp 6 nội dung chạy bền trong phân phối có nhiều tiết sử dụng trò chơi ( do GV
chọn) nhưng hầu hết giáo viên chưa chú trọng quan tâm lựa chọn trò chơi, các trò
chơi thường lặp lại nhiều lần gây sự nhàm chán. Vì vậy nó đòi hỏi người giáo viên
phải nỗ lực rất nhiều, phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ,
nghiệp vụ đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới PPDH, nâng cao chất
lượng dạy - học bộ môn. Phải tăng cường dự giờ, trao đổi kinh nghiệm, tham khảo
các bài giảng của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
Hơn nữa điều kiện về sân bãi tập luyện, trang thiết bị dụng cụ còn thiếu rất
nhiều nên rất khó khăn cho việc đưa trò chơi vào các tiết học.
Trong quá trình lên lớp, vẫn còn giáo viên thực hiện các bước lên lớp một cách
cứng nhắc, tuần tự đi từ bước này sang bước khác, làm cho giờ học nhàm chán,
nặng nề. Chưa kết hợp và giải quyết hài hòa giữa các bước lên lớp.
Khâu tổ chức chưa linh hoạt, nên trong giờ học mất nhiều thời gian tập hợp cũng
như luân chuyển đội hình làm ảnh hưỏng không nhỏ đến thời gian luyện tập của
học sinh.
Hơn nữa một bộ phận nhỏ học sinh chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc học
môn thể dục ( nội dung Chạy bền). Với những hiện trạng trên, làm cho chất lượng
giờ dạy chưa thật đạt yêu cầu. Thực tế và mục tiêu còn có một khoảng cách cần
được khắc phục nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu rèn luyện sức bền và rèn
luyện thể lực, góp phần nâng cao sức khỏe cho học sinh.
Tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát việc tập luyện chạy bền của nhà trường để
thu
5
thập các thông tin và đã tiến hành phỏng vấn bằng phiếu các em học sinh khối 6.
Câu hỏi 1: Theo em có cần thiết phải tập luyện thể dục nói chung và luyện
tập chạy bền nói riêng hay không?
- ý kiến trả lời không cần thiết chiếm tỷ lệ 68,18%.
- ý kiến trả lời cần thiết chiếm tỷ lệ 31,82%.
Như vậy, đại đa số học sinh đều nhận thức không đúng về tác dụng của tập luyện
thể dục nói chung và tập luyện Chạy bền nói riêng. Tuy nhiên, cũng có một số học
sinh có nhận thức đầy đủ, cho rằng việc tập luyện thể dục nói chung và luyện tập
chạy bền nói riêng là cần thiết bởi vì nó nâng cao sức khỏe, sự dẻo dai và sức
chống chịu tốt hơn.
Câu hỏi 2: Theo em có cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn,
hấp dẫn hay không hay chỉ cần một vài trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ?
Ý kiến trả lời như sau:
Số em học sinh cho rằng cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp
dẫn chiếm tỷ lệ 92,37%.
Số em học sinh cho rằng không cần thiết phải thay đổi trò chơi chỉ cần một vài
trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ chiếm tỷ lệ 8,63%.
Như vậy, có thể bước đầu kết luận được rằng số ý kiến cho rằng cần thiết
phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn` chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó
chứng tỏ hướng đi của đề tài này là hợp lý. Vì vậy bản thân tôi cũng như các giáo
viên phải nghiên cứu, tìm tòi nhiều trò chơi phù hợp với thực trạng hiện nay ở
trường học của mình.
Câu hỏi 3: Vì sao em không thích học nội dung Chạy bền?
Đối với câu hỏi này tôi đã chuẩn bị trước bốn phương án trả lời, để các em có thể
khoanh tròn vào những ý kiến phù hợp với suy nghĩ của mình.
1, Do phải hoạt động trên một đoạn đường dài, khả năng chống chịu mệt mỏi của
cơ thể cao, lượng vận động quá lớn.
2, Do giáo viên không kiểm tra xem xét tình trạng sức khỏe các em cũng như tâm
sinh lý của học sinh nên hay cáu gắt, phạt các em không thực hiện đủ nội dung mà
giáo viên đề ra.
3, Các em ngại tập luyện chạy bền vì chạy bền là nội dung tập luyện tương đối đơn
điệu, qúa trình tập luyện nhất thiết bản thân phải nỗ lực và cần cù, tính kiên nhẫn,
bền bỉ, dẻo dai.
4. Do sân tập không đảm bảo
Kết quả thu được như sau:
Số em chọn cả bốn ý trên chiếm tỷ lệ 86,55%.
6
Ý kiến như vậy là hoàn toàn đúng đắn, bởi vì nội dung Chạy bền được áp
dụng thời gian dài. Về mặt tâm lý học, việc tập luyện bài tập đơn điệu, ít đổi mới
sẽ tạo nên tâm lý xấu, làm học sinh thiếu hứng thú tập luyện và dẫn đến thiếu tập
luyện tích cực. Việc tập luyện không tích cực chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu tới việc
phát triển thể chất, làm giảm sút ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức đối với việc rèn
luyện thân thể.
Bên cạnh đó có 24,15% cho rằng ở trường còn thiếu những điều kiện đảm bảo
cho việc tập luyện, chủ yếu là thiếu khoảng không gian, cơ sở vật chất, sân tập, ý
kiến trả lời trên đây cũng hết sức khách quan, bởi vì hiện tại diện tích sân trường
không đủ đảm bảo để học sinh luyện tập Chạy bền, các dụng cụ phục vụ dạy và tổ
chức trò chơi hầu như không có.
Từ kết quả phỏng vấn, có thể rút ra một số nhận định sơ bộ như sau:
Quá trình dạy học nội dung Chạy bền trước đây là chưa phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của các em, chưa tạo được sự hứng thú trong luyện tập do giáo viên
chưa thật sự quan tâm tới tâm sinh lý của các em, chưa thật sự gần gũi tâm sự trò
chuyện cởi mở. Nguyên nhân của việc tập luyện chạy bền chưa tốt, chủ yếu là do
bài tập, trò chơi còn đơn điệu, ít được thay đổi. Nhận thức của học sinh đối với
việc tập luyện chạy bền cũng chưa đầy đủ. Còn thiếu những điều kiện về cơ sở vật
chất cần thiết bảo đảm thực hiện nội dung chạy bền có chất lượng.
VII. CÁC GIẢI PHÁP:
Nghiên cứu lựa chọn trò chơi vận động phù hợp nhằm phát triển sức bền cho
học sinh.
Trước hết ta cần phải hiểu sức bền là gì ? Nó có tác dụng như thế nào đối với
người học?.
Sức bền: là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi khi học tập, lao động hay tập
luyện thể dục thể thao kéo dài.
+ Có hai loại sức bền: Sức bền chung và sức bền chuyên môn.
- Sức bền chung là khả năng của cơ thể khi thực hiện các công việc nói chung
trong một thời gian dài.
- Sức bền chuyên môn là khả năng cơ thể thực hiện chuyên sâu một hoạt động
lao động hay bài tập thể thao trong một thời gian dài.
* Tác dụng của tập luyện sức bền nói riêng hay tập luyện thể dục thể thao nói
chung.
- Tập luyện Thể dục thể thao thường xuyên, đúng phương pháp khoa học sẽ làm
cho cơ phát triển thể hiện ở sức nhanh, sức mạnh, sức bền. độ đàn hồi và linh hoạt
của cơ tăng lên.
- Tập luyện Thể dục thể thao làm cho xương tiếp thu máu được đầy đủ hơn, các tế
7
bào xương phát triển nhanh và trẻ lâu, xương dày lên cứng và dai hơn, khả năng
chống đỡ tăng lên.
- Tập luyện Thể dục thể thao làm cho cơ xương phát triển tạo ra vẻ đẹp và dáng đi
khỏe mạnh của con người.
- Tập luyện Thể dục thể thao sẽ làm cho tim khỏe lên, sự vận chuyển máu của hệ
mạch đi nuôi cơ thể và thải các chất cặn bã ra ngoài được thực hiện nhanh hơn.
Nhờ vậy khí huyết được lưu thông, người tập ăn ngon, ngủ ngon, học tập đạt hiệu
quả cao hơn.
- Nhờ tập luyện Thể dục thể thao thường xuyên lồng ngực và phổi nở ra, các cơ
làm chức năng hô hấp được khỏe và độ đàn hồi tăng.
Muốn tạo sự hứng thú cho học sinh học tập tích cực nội dung Chạy bền thì
mỗi giáo viên cần xác định được tâm lý lứa tuổi của các em. Các phương
pháp dạy học môn Thể dục cũng như các môn học khác bao gồm nhiều
phương pháp khác nhau, phương pháp trò chơi phù hợp lứa tuổi này vì các
em thích được vui đùa, thích được khen trước bạn bè. Vì vậy việc sử dụng trò
chơi vận động vào các giờ học chạy bền là rất phù hợp vấn đề ở đây là chọn
trò chơi nào và phương pháp tổ chức ra sao.
Thực tế cho thấy nhiều giáo viên chưa thực sự quan tâm vấn đề đưa trò chơi
phù hợp vào tiết dạy. Quan điểm như vậy là sai lầm vì như vậy không tạo
được sự sôi động trong giờ học, chưa phát huy được tính tích cực, tự giác của
học sinh dẫn đến học sinh chán nản mệt mỏi, học chiếu lệ, đối phó.
Từ lâu con người đã biết sử dụng trò chơi như là một trong những phương
tiện, phương pháp giáo dục thể chất. Trong giáo dục thể chất, phương pháp trò
chơi là sử dụng các trò chơi vận động hoặc những bài tập được soạn dưới dạng trò
chơi để dạy cho học sinh. Luật lệ chơi, nhiều tình tiết của trò chơi được các em rất
ưa thích. Ví dụ trò chơi “ Mèo đuổi chuột và chồn đuổi gà” thực chất là một bài
tập về chạy được soạn dưới dạng hai con vật chạy đuổi nhau, hay trò chơi “Chạy
tiếp sức chuyển vật” cũng là những bài tập về chạy nhưng được soạn dưới hình
thức trò chơi có luật lệ. Nếu chỉ tập chạy không, học sinh sẽ không có sự cố gắng
cao nhưng khi được học dưới hình thức trò chơi thì em nào cũng tích cực, năng
động lên nhiều. Ngoài ra khi tham gia học sinh thường bộc lộ những ưu và nhược
điểm cũng như khả năng của mỗi cá nhân về mức độ tính thật thà, tính trung thực,
tính kỹ luật, tính đồng đội, khả năng sự tháo vát nhanh nhẹn, sự sáng tạo…. Đó là
những điều rất cần thiết đối với các thầy cô giáo trong giáo dục nói chung và giáo
viên Thể dục nói riêng. Phương pháp trò chơi khai thác được tính tích cực, sự sáng
tạo, mức độ tự giác tham gia vào công việc của mỗi thành viên rất cao, do đó dạy
và học rất có hiệu quả.
Sau đây tôi xin nêu ra quy trình tổ chức trò chơi.
Bước 1: Giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu bài dạy để lựa chọn trò chơi.
8
Bước 2: Nêu tên, mục đích trò chơi, phổ biến luật chơi và cách chơi.
Bước 3: Phân chia đội chơi và cho học sinh chơi thử.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh chơi, công bố kết quả sau mỗi hiệp chơi.
Bước 5: Nhận xét và kết luận đội thắng cuộc.
•
Các trò chơi được tôi đưa vào các tiết dạy cụ thể như sau:
Tiết 6
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Mèo đuổi chuột"
Tiết 7
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Người thừa thứ 3"
Tiết 8
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chạy tiếp sức chuyển vật"
Tiết 14
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Ù"
Tiết 23
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Gánh nước"
Tiết 24
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Tàu hỏa chạy"
Tiết 27
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Rồng rắn"
Tiết 31
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Bóng chuyền 6"
Tiết 39
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Truyền tin thắng trận"
Tiết 41
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Đuổi bắt thám báo"
Tiết 43
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Hai người ba chân"
Tiết 45
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Cứu thương"
Tiết 57
: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chồn đuổi gà"
Các trò chơi này được tôi tìm tòi, lựa chọn, cải biên nhằm tạo ra các tình
huống mới mẻ mà không mất đi mục đích cơ bản là phát triển sức bền cho
học sinh lớp 6.
Những kết quả bước đầu:
So sánh kết quả kiểm tra ở tiết 59 với kết quả năm học trước tôi nhận thấy
rằng: Khi vận dụng linh hoạt các trò chơi vận động vào các tiết học chạy bền, chất
lượng dạy học nội dung chạy bền bộ môn Thể dục ở trường THCS Thạch Ngàn
được nâng cao rõ rệt, học sinh đam mê, có hứng thú học chạy bền hơn.
Bảng so sánh kết quả: Năm học 2009 – 2010 và Năm học 2010 – 2011
Năm học 2009 – 2010 (112 em) Năm học 2010 – 2011( 103 em)
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
9 - 10 điểm 12 10,7 % 20 19,4 %
7 - 8 điểm 57 50,9 % 73 70,9 %
5 - 6 điểm 34 30,4 % 8 7,8 %
9
Dưới 5 điểm 9 8,0 % 2 1,9 %
Qua bảng thống kê cũng như quá trình dạy Thể dục ở trường THCS Thạch
Ngàn và qua trao đổi và thảo luận với giáo viên bộ môn và các em học sinh trong
nhà trường tôi đã đi đến thống nhất và đi đến kết luận áp việc áp dụng đề tài này là
rất phù hợp và mang lại hiệu quả.
10
PHẦN III. KẾT LUẬN
Với việc sử dụng trò chơi vận động vào phục vụ giảng dạy nội dung chạy
bền trong chương trình môn Thể dục 6, nhằm mục đích phát triển sức bền cho
các em đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Bản thân nhận thấy học sinh có sự tiến bộ
đáng kể về mặt thể lực. Thông qua nội dung kiểm tra chạy bền ở tiết 59 có
thể thấy răng các em đa số luôn đạt điểm 7 trở lên, hơn nữa qua thăm dò các
em học sinh có thể thấy rằng các em không còn cảm giác sợ học chạy bền
nữa, các em có hứng thú học môn thể dục hơn, các em có ý thức cao, tiết học
vui tươi, sinh động. Trong giờ học thể dục đã có nhiều em tích cực tham gia,
khi tổ chức trò chơi các em đoàn kết hơn, quyết tâm hơn để dành chiến thắng
cho đội mình, các em hồ hởi động viên nhau, cổ vũ, hò reo làm cho tiết học
vui tươi hơn hẳn. Điều đó chứng tỏ quá trình đi sâu nghiên cứu đề tài này là
hợp lý và phù hợp với lứa tuổi các em lớp 6.
Với mục đích đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
người học thì việc sử dụng trò chơi vận động mang đầy đủ các đặc điểm, tính
chất giúp các em phát huy hết khả năng vận động trong học chạy bền. Chúng
ta có thể sử dụng trò chơi vào các tiết học chạy bền.
Qua giảng dạy bộ môn và đi sâu nghiên cứu đề tài ''lựa chọn một số trò chơi
vận động phù hợp với học sinh khối 6 nhằm tạo hứng thú trong học nội dung chạy
bền'' tôi xin nêu lên những kinh nghiệm sau:
+ Để đề tài này thật sự có hiệu quả và đi sâu vào các trường học thì các giáo
viên cần phải tìm tòi thêm các trò chơi mới lạ phù hợp với cơ sở vật chất của
trường mình và cần phải chuẩn bị phương tiện phục vụ trò chơi chu đáo có
như vậy mới hấp dẫn lôi cuốn các em học sinh tham gia chơi. Không nên chơi
đi chơi lại một trò chơi hoặc đưa các trò chơi không hấp dẫn mà cần chú
trọng tìm tòi trò chơi mới lạ hấp dẫn.
+ Muốn giảng dạy có hiệu quả, chất lượng giảng dạy Thể dục cơ bản cho học sinh
THCS nói riêng ở các nội dung khác nhau và các đối tượng khác nói chung, giáo
viên phải không ngừng đầu tư trí tuệ, công sức vào việc đổi mới phương pháp dạy
học, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của học sinh trong tự học, tự tìm tòi.
+ Giáo viên phải nắm chắc nội dung phân phối chương trình, đối tượng giảng
dạy, phương pháp bộ môn.
+ Không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Cần dự giờ, trao
11
đổi kinh nghiệm, tham khảo các tài liệu chuyên ngành để rút kinh nghiệm, nâng
cao nghiệp vụ sư phạm.
+ Thường xuyên làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
+ Thực sự yêu thích bộ môn dạy học của mình, nghiêm túc và gần gủi với học
sinh.
+ Để đạt được kết quả cao trong nội dung trò chơi phát triển sức bền người giáo
viên cần tìm tòi, sưu tầm nhiều trò chơi mới là hấp dẫn lôi cuốn học sinh.
+ Cần phát huy tác dụng của các “hạt nhân” trong mỗi lớp học, giúp cho các em
có thói quen luyện tập theo nhóm – đội chơi.
+ Tạo ra không khí vui tươi trong giờ học, làm thay đổi trạng thái lao động, đồng
thời giáo dục cho các em tính tổ chức kỹ luật cao, tác phong nhanh nhẹn hoạt bát,
tinh thần tập thể. Từ đó giúp các em yêu trường, ham học, lôi cuốn các em hăng
say nỗ lực hơn trong các môn học văn hóa khác và phát triển toàn diện tố chất thể
lực.
+ Đối với nhà trường cần tạo mọi điều kiện để đảm bảo trang thiết bị, sân bãi,
môi trường, bóng mát. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình
rèn luyện thể chất học sinh trong nhà trường. Tham mưu tốt với Ban giám hiệu, để
tạo cơ sở vật chất tối thiểu phục vụ cho việc dạy học môn Thể dục nói chung và trò
chơi phát triển sức bền nói riêng.
Thể dục là một bộ môn đặc thù, nó vừa rèn luyện thể lực tăng cường sức khỏe
vừa trau dồi những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, nhằm tạo những lớp người mới phù
hợp với sự phát triển của xã hội. Vì thế trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần
vận dụng một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Thể dục.
Qua đó giáo dục các em có tính sáng tạo, chủ động, tự giác và ý chí luôn rèn luyện
thân thể khỏe mạnh.
Trong giảng dạy người thầy, người cô phải là người yêu nghề, mếm trẻ. Phải có
năng lực sáng tạo luôn có ý thức đổi mới các phương pháp dạy học phù hợp với
đối tượng, tạo một giờ học hứng thú, thuận lợi có lượng vận động thích hợp, hiệu
quả.
Những suy nghĩ trên đây của bản thân tôi chỉ là một khía cạnh và ở mức độ
nhất định với mong muốn đóng góp thêm tiếng nói của mình vào việc lựa chọn
một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 6 nhằm tạo hứng thú trong học
nội dung chạy bền để các giáo viên khác tham khảo và áp dụng. Trên đây chỉ là
những ý kiến chủ quan của bản thân tôi, nên đề tài chắc chắc chắn còn nhiều thiếu
sót hoặc có nhiều vấn đề chưa đề cập đến do vậy tôi kính mong các đồng nghiệp,
các cấp quản lí giáo dục tham khảo, góp ý để cùng nhau xây dựng, lựa chọn các trò
chơi vận động phù hợp nhằm tạo hứng thú trong học nội dung chạy bền để giảng
dạy nội dung chạy bền ngày một tốt hơn. Và đặc biệt là đưa vào áp dụng rộng rãi
trong các trường THCS.
12
• Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Đề tài này có tác dụng rất lớn trong việc giảng dạy nội dung Chạy bền cho học
sinh khối 6 do đó để đề tài được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp chân thành của đồng nghiệp.
Tôi mong mọi người giáo viên giảng dạy thể dục hãy xem đây như là cẩm nang,
tài liệu tham khảo thiết thực khi giảng dạy trò chơi bổ trợ sức bền cho học sinh.
Các cấp có thẩm quyền cũng như Ban giám hiệu các trường cần quan tâm nhiều
hơn nữa bộ môn Thể dục nói chung và nội dung trò chơi bổ trợ Chạy bền nói riêng
để luôn có những thế hệ học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt.
Xin chân thành cảm ơn !
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trong qua trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các tài liệu thamkhảo sau.
1, Bác Hồ với Thể thao Việt Nam
- Tác giả: PTS Lê Bửu
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
2, Lý luận và phương pháp Thể dục Thể thao
- Tác giả: Nguyễn Toán - Đăng Danh Tốn
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
3, Tâm lý học lứa tuổi
- Tác giả: Lê Ngọc Lan- Lê Văn Hồn - Nguyễn Văn Hùng
- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
4, Sách giáo viên thể Dục 6
- Tác giả: Trần Đồng Lâm – Vũ Học Hải – Vũ Bích Huệ
- Nhà xuất bản giáo dục
5, Trò chơi thi đua ngoài trời ( tập 2)
- Tác giả: Trần Phiên – Đài Trang – Duy Vũ
- Nhà xuất bản trẻ
6, Sách giáo viên thể Dục 9
- Tác giả: Trần Đồng Lâm – Vũ Học Hải – Vũ Bích Huệ
Nguyễn Hữu Bính - Đặng Ngọc Quang
- Nhà xuất bản giáo dục
7, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004 – 2007)
Môn Thể dục (quyển 1 và quyển 2)
- Tác giả: Đinh Mạnh Cường - Phạm Vĩnh Thông – Vũ Thị Thư
- Nhà xuất bản giáo dục
8, Báo Thể thao việt Nam
9, Các tài liệu trên mạng Internet.
14
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I: Đặt vấn đề 1-3
PHẦN II
: Nội dung 4 -10
I. Mục đích nghiên cứu: 4
II. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4
III. Phương pháp nghiên cứu 4
IV.Tổ chức nghiên cứu: 4
V. Thực trạng: 5-7
VII. Các giải pháp: 7-10
PHẦN III
: Kết luận: 13
Tài liệu tham khảo : 14
15