PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xác định được tầm quan trọng đặc điểm của giáo dục đối với sự phát triển của
đất nước, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm, chú trọng
đến giáo dục. Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu. Bên cạnh việc đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị xây dựng đội ngũ giáo viên cho các nhà trường,
vấn đề đổi mới nội dung chương trình và đổi mới phương pháp dạy học đã được xác
định là khâu then chốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Nghị quyết trung ương 4
khoá VII đã xác định phải "khuyến khích tự học"; phải "áp dụng những phương pháp
giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề".
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII tiếp tục khẳng định "phải đổi mới
phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học".
Định hướng trên dây đã được pháp chế hoá trong luật Giáo dục, Điều 24.2
"Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Đặc biệt từ năm học 2001 - 2002 đến nay: 2004 - 2005, SGK mới được đưa
vào giảng dạy đồng loạt tại các trường THCS trong toàn quốc càng đặt ra cho giáo
viên yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học cấp thiết hơn. Trong số các môn học ở
lớp 6 thì môn Sinh học là môn có nội dung thay đổi khá rõ rệt đó là: Sách không đi
cung cấp thông tin mà cung cấp những tình huống đòi hỏi giáo viên và học sinh phải
tìm hiểu, nghiên cứu. Vậy đòi hỏi phải thay đổi phương pháp của người dạy, người
học. Trong khi đó phương pháp giảng dạy theo phương pháp thông tin tri thức dẫn tới
chất lượng hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Chính vì thế rất
nhiều giáo viên gặp không ít khó khăn khi chuyển tư cách dạy một chiều sang cách
dạy theo quan điểm tích cực, tích hợp mà SGK mới yêu cầu.
Nhưng hiện nay, thực trạng ở các trường THCS, việc vận dụng đổi mới
phương pháp vào giảng dạy còn rất hạn chế. Đội ngũ giáo viên dạy chính ban đôi khi
còn thiếu, có khi giáo viên Văn - Toán lại tham gia dạy Sinh học sinh đôi khi chưa
chú ý đến lời dạy của thày, chưa yêu thích bộ môn này, hoặc do giáo viên chưa có
cách khơi nguồn hứng thú ở các em. Tình trạng này có rất nhiều và phổ biến làm ảnh
hưởng đến chất lượng và kết quả học tập không chỉ ở bộ môn Sinh mà ở tất cả các
môn khác nữa.
Xuất phát từ cơ sở lý luận, từ nhu cầu thực tiễn nêu trên, là một GV, qua quá
trình trực tiếp giảng dạy, qua việc dự giờ, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của đồng
nghiệp trong và ngoài nhà trường, đồng nghiệp huyện bạn, với mong muốn được
nghiên cứu khoa học, mở rộng hiểu biết về lý luận dạy học sinh học, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: "Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong việc
giảng dạy môn Sinh học 6".
B. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI.
Mục tiêu chính của đề tài là nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy của giáo
viên và chất lượng học của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học phải góp phần tích cực thực hiện mục tiêu đó
trên cơ sở tương hợp với một nội dung đào tạo được chọn lựa quán triệt mục tiêu.
Ở lứa tuổi học sinh THCS có những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành
khả năng tự điều chỉnh trong học tập, tích cực tham gia vào các hoạt động khác nhau
và nguyện vọng muốn có các hình thức học tập mang tính người lớn và cốt lõi của
việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS là giúp cho học sinh hướng tới
việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
Xuất phát từ mục đích trên nên chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài này.
C. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
+ Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng phương pháp phát huy tính tích cực học tập
của học sinh trong việc giảng dậy môn Sinh học 6.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Xác định những cơ sở, định hướng của việc đổi mới phương pháp dạy Sinh
học 6.
- Đề xuất một số phương pháp để dạy môn Sinh học 6.
D. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Việc tổng kết đề tài dựa trên các cơ sở nghiên cứu quan trọng đó là:
- Sự chỉ đạo của ngành trong việc đổi mới phương pháp.
- Việc vận dụng đổi mới phương pháp của giáo viên dạy môn Sinh học 6
- Việc vận dụng phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh với
một số bài học cụ thể và khảo sát kết quả trong các giờ dạy đó.
E. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1 - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Nghiên cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về giáo dục, các
tài liệu, bài viết, báo cáo của Bộ giáo dục và Đào tạo, của Chính phủ, các bộ phận
liên quan về việc đổi mới chương trình và SGK phổ thông.
+ Nghiên cứu lý luận dạy học Sinh học.
+ Nghiên cứu các tài liệu, bài viết về phương pháp dạy học tích cực.
+ Nghiên cứu nội dung, cấu trúc chương trình SH6, SGK và SGV SH6
+ Nghiên cứu các tài liệu về thực vật học, vi sinh vật học, sinh thái học, trồng
trọt.
2 - Phương pháp điều tra cơ bản:
Điều tra tình hình dạy học SH6 ở trường THCS Long Sơn với SGK mới, về
phương pháp tổ chức dạy học bằng phương pháp phát huy trí lực của học sinh và
tham khảo ý kiến các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy SH6 tại trường THCS để tìm
hiểu những ưu điểm và hạn chế cua SGK, SH6, làm cơ sở thực tiễn cho đề tài.
3 - Thực nghiệm sư phạm:
+ Thực nghiệm khảo sát tình hình dạy học SH6 ở một số giờ dạy trên lớp với
SGK SH6 mới:
- Thăm dò bằng phiếu
- Dự giờ, thăm lớp, kiểm tra khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh lớp 6
- Toạ đàm với GV giảng dạy SH6 tại một số trường THCS.
+ Thực nghiệm chính thức:
- Giảng dạy một số giờ SH6 có áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực
học tập của học sinh.
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I/ QUAN NIỆM VỀ TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử xem tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con
người trong đời sống xã hội.
Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động, tính tích cực của trẻ
biểu hiện trong những dạng hoạt động khác nhau: học tập, lao động, thể dục thể thao,
vui chơi giải trí, hoạt động xã hội… Trong đó học tập là hoạt động chủ đạo của lứa
tuổi đi học.
"Tính tích cực là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự gắng sức cao về
nhiều mặt trong hoạt động học tập"
(L.V.Relrova, 1975)
Học tập là một trường hợp riêng của sự nhận thức "Một sự nhận thức đã được
làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự chỉ đạo của GV" (P.V.Erdơnier, 1974). Vì
vậy nói tới tính tích cực học tập, thực chất là nói tới tính tích cực nhận thức.
Tính tích cực biểu hiện trong hoạt động, nhưng đó phải là những hoạt động
chủ động của chủ đề. Vì vậy phương pháp dạy học tích cực là cách dạy hướng tới
việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.
II/ BẢN CHẤT CỦA TÍNH TÍCH CỰC.
Theo G.I.Snkina (1979) có thể nêu ra những dấu hiệu của tính tích cực học
tập như sau:
- Học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra…
- Học sinh hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề GV trình
bày chưa đủ rõ.
- HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận
thức các vấn đề mới.
- Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới
lấy từ những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
- Học sinh tập trung chú ý vào vấn đề đang học
- Học sinh kiên trì làm xong các bài tập.
- Học sinh không nản trước các tình huống khó khăn.
- Tỏ thái độ phản ứng khi trống báo hết tiết học: tiếc rẻ, cố làm cho xong,
hoặc vội vàng gấp vở, chờ được lệnh ra chơi.
- Có thể phân biệt 3 cấp độ biểu hiện tính tích cực học tập, từ thấp lên cao.
a) Bắt chước
b) Tìm tòi
c) Sáng tạo
- Để biểu hiện được tính tích cực, có tác giả dùng"phương pháp tích cực" đòi
hỏi phát huy tính tích cực của cả người dạy và người học mà như đã nói ở trên thực
chất phương pháp tích cực đòi hỏi người dạy phải phát huy tính tích cực chủ động
của người học.
Có 4 dấu hiệu đặc trưng của các phương pháp tích cực là:
a) Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh: "Học để hành, học
và hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành
không trôi chảy" (Hồ Chí Minh).
b) Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tích cực: Desterwerg đã viết:
"Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý".
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác: phương pháp tích
cực đòi hỏi sự cố gắng trí tuệ và nghị lực
1
cao của mỗi HS trong quá trình tự lực
giành lấy kiến thức mới.
Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò; trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trong con đường đi tới những tri thức mới.
d) Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
1
III/ CÁC PHƯƠNG PHÁP - BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH.
1 - Vấn đề tìm tòi: Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó GV đặt ra
một hệ thống câu hỏi để HS lần lượt trả lời - hoặc có thể tranh luận với nhau và cả
với GV - dưới sự chỉ đạo của GV. Qua hệ thống hỏi - đáp, HS lĩnh hội được vận dụng
bài học.
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của HS, kết hợp mặt bên ngoài với
mặt bên trong của phương pháp dạy học, người ta phân biệt thành các loại:
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức
đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ.
- Vấn đáp - giải thích minh hoạ nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó;
GV lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp HS dễ
hiểu, dễ nhớ.
- Vấn đáp tìm tòi (vấn đáp phát hiện, đàm thoại ơrixtic): Giáo viên tổ chức sự
trao đổi ý kiến, kể cả tranh luận, giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, thông
qua đó HS nắm được tri thức mới.
Vấn đáp tìm tòi là phương pháp đang cần được phát triển rộng rãi.
2 - Dạy học đặt và giải quyết vấn đề:
Đã trở thành một mục tiêu giáo dục đào tạo, cần tập dượt cho HS biết phát
hiện vấn đề, tự mình đặt ra để giải quyết.
Trong dạy học đặt - giải quyết vấn đề, GV đưa HS vào tình huống có vấn đề
để rồi giúp HS giải quyết vấn đề đặt ra. Bằng cách đó, HS vừa nắm được tri thức mới,
vừa nắm được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy tích cực sáng
tạo và có tiềm năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, chuẩn bị năng lực
thích ứng với đời xã hội, phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh.
Dạy học đặt - giải quyết vấn đề không chỉ giới hạn ở phạm trù PPDH. Việc áp
dụng dạy học đặt - giải quyết vấn đề đòi hỏi cải tạo cả nội dung, đổi mới cách tổ chức
quá trình dạy học trong mối quan hệ thống nhất với PPDH.
3 - Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ:
Lớp học được chia thành những nhóm từ 4 đến 6 em. Tuỳ mục đích sư phạm
và yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ
định, được duy trì ổn định trong cả tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng
phần của tiết học, các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hoặc được giao những
nhiệm vụ khác nhau.
Nhóm tự bầu ra nhóm trưởng, nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho các
thành viên trong nhóm, các thành viên trong nhóm giúp nhau tìm hiểu vấn đề trong
không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp
vào kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước toàn lớp,
nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc có thể phân công mỗi thành viên trình bày một
phần nếu nhiệm vụ được giao là khá phức tạp.
* Kết luận:
Đổi mới PPDH theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của HS là một quá trình
lâu dài. Không thể ngày một ngày hai mà đông đảo GV tự bỏ được kiểu dạy truyền
thụ kiến thức, tiếp thu thụ động đã quen thuộc từ lâu. Việc phát triển các phương
pháp tích cực đòi hỏi một số điều hiện, trong đó quan trọng nhất là bồi dưỡng giáo
viên, đổi mới khâu đánh gía học sinh và giáo viên.
Yêu cầu đào tạo lớp người năng động sáng tạo, đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi đội ngũ giáo viên chúng ta phải quyết tâm
nhanh chóng đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, không thể chậm chạp như mấy
thập kỷ vừa qua. Hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học bình thường ở trường THCS của
chúng ta được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và
quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường chủ động chiếm lĩnh nội dung
học tập.
Chương II
BÁO CÁO KHẢO SÁT VÀ CƠ SỞ THỰC TẾ
Bắt đầu từ năm học 2002-2003, SGK SH 6 mới được đưa vào giảng dạy đại
trà tại tất cả các trường THCS trong cả nước.
Để đánh giá về hiệu quả của SGKSH6 mới và áp dụng đổi mới phương pháp
giảng dạy, nhất là phương pháp phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh với
môn SH6, làm cơ sở thực tiễn cho đề tài, tôi đã tiến hành điều tra tình hình dạy học
với SGK SH6 mới trong 6 tuần học của học kỳ I năm học 2004-2005 của giáo viên và
học sinh trường THCS Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Thông qua dự
giờ thăm lớp kết hợp với sử dụng 125 phiếu điều tra (2 cho giáo viên và 123 phiếu
cho học sinh). Đồng thời tiến hành kiểm tra chất lượng lĩnh hội kiến thức của học
sinh ở một số bài học, chúng tôi thu được kết quả như sau :
1- Đánh giá của các giáo viên về chương trình và SGKSH6 mới :
- 100% giáo viên nhất trí với nội dung chương trình mới.
- 100% ý kiến đồng ý với cách thức biên soạn SGK mới. Theo các giáo viên,
SGK mới với hệ thống các kiến thức, bài tập tình huống được biên soạn đã hỗ trợ
hiệu quả cho việc đổi mới phương pháp dạy học tạo nên hứng thú học tập cho học
sinh và góp phần làm tăng chất lượng dạy học.
2- Những ý kiến của học sinh về SGK SH6 :
+ Về hình thức :
Trình bày đẹp, rõ ràng, có nhiều tranh ảnh hấp dẫn,100% học sinh đồng ý.
+ Về kiến thức :
- Khó : 14,4% (18/124 học sinh)
- Vừa sức với các em : 72% (90/124 học sinh)
- 13,6% ý kiến học sinh cho rằng kiến thức không khó nhưng có một số ví dụ
còn khó hiểu và các em ít gặp trong thực tế như cây bèo vảy ốc, cây thiên tuế, cây tra
làm điếu
+ Về các bài tập cần thực hiện trên lớp ;
- Khó : 20% (25/124 HS)
- Vừa sức : 70,4% (87/124 HS)
- Dễ : 9,6% (12/124 HS)
+ Về thái độ đối với môn học :
- Yêu thích : 72% (89/124 HS)
- Không thích lắp : 28% (35/124 HS)
- Hoàn toàn không thích : 0%
3- Việc đổi mới phương thức dạy học của GV và kết quả học tập của
học sinh.
a) Phương pháp dạy học của GV :
Qua dự giờ, thăm lớp và trao đổi với các GV, tôi nhận thấy trong việc đổi mới
phương pháp dạy học của GV diễn ra ở những mức độ khác nhau, song nhìn chung,
với cách thức biên soạn của SGKSH6 mới, các giờ giảng của GV đã hạn chế phương
pháp thuyết trình để HS nghe và thụ động ghi chép. SGK được sử dụng thường xuyên
trong tất cả các giờ học. Nhiều giáo viên có cách thức tổ chức cho học sinh làm việc
thông qua hệ thống các bài tập tình huống, các câu hỏi phát huy trí lực của học sinh
trong SGK rất hiệu quả.
b- Đồ dùng.
Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc sử dụng đồ dùng
dạy học trong các giờ lên lớp của giáo viên là rất quan trọng.
SGK in phần lớn là kênh hình, học sinh quan sát sơ đồ, hình vẽ (SGK) đã
được phóng to để phát hiện kiến thức.
7
Phương tiện giảng dạy còn là mô hình, mẫu vật thật kích thích sự tìm tòi,
hứng thú học tập của các em, nhất là kiến thức Sinh học 6 hầu hết liên quan đến các
loài TV có trong thực tế.
c- Kết quả:
Kết quả kiểm tra khảo sát chất lượng lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát chất lượng lĩnh hội kiến thức của học
sinh tại trường THCS Nham Sơn ở một số bài học có áp dụng đổi mới phương pháp dạy
học phát huy tính tích cực học tập của học sinh (Đề kiểm tra được in ở phần phụ lục).
Kết quả thu được từ 123 bài kiểm tra như sau:
Giỏi : 17,0% (21/123 HS).
Khá : 33,3% (41/123 HS)
Trung bình : 47,4% (58/123 HS).
Yếu kém : 2,4% (3/123 HS).
Các kết quả chúng tôi thu được đã khẳng định: Chương trình SGK SH 6 mới,
việc áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong các giờ
lên lớp đã có hiệu quả tốt tới chất lượng giảng dậy của giáo viên và học tập của học
sinh. Tuy nhiên, sự đổi mới trong phương pháp dạy của giáo viên và học của học sinh
cũng cần phải luôn luôn được trau dồi và củng cố để chất lượng dạy và học ngày càng
được nâng cao - đáp ứng nhu cầu, tiến bộ của khoa học, thời đại.
Chương III
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG VIỆC GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC 6.
* Để thấy được những kết quả như trên, chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng
những phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh
ở cả 3 lớp 6. Tôi xác định:
Một bài học áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh
có hiệu quả cần phải thoả mãn các yêu cầu sau:
+ Phải đáp ứng được mục tiêu của bài học.
+ Phải chứa đựng các hoạt động nhận thức mà học sinh cần thực hiện.
+ Phải phù hợp với năng lực, trình độ nhận thức của học sinh, câu hỏi không
vượt quá sức học sinh mà phải gây cho họ niềm tin có thể nhận thức được.
+ Phải kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, sao cho khi giải
quyết, họ không phải chỉ cần huy động nguồn kiến thức cũ đã có mà phải thực hiện
một phép suy luận.
+ Các câu hỏi dữ kiện đưa ra trong bài học phải diễn đạt chính xác về ngữ
pháp và nội dung khoa học. Câu hỏi phải diễn đạt chính xác điều cần hỏi.
+ Phải gây được sự hào hứng, tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu của
học sinh.
* Tổ chức thực hiện:
a- Hình thức thứ nhất:
Ở phần này, tôi đưa ra những gợi ý về các bước mà giáo viên cần tiến hành
trên lớp để tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề sao cho hiệu quả. Đây không phải
là một giáo án cụ thể mà của cả bài học, mà chỉ bao gồm những hoạt động chính của
giáo viên và học sinh trong quá trình giải quyết một vấn đề nào đó của bài học bằng
phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Vì vậy, tôi không tiến hành
soạn giáo án của cả bài học, và cũng không tuân thủ theo đầy đủ các bước của một
giáo án.
b- Hình thức thứ hai:
Áp dụng phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh với một bài
cụ thể.
Phần kiểm tra, đánh giá sẽ được đề cấp tới trong phần phụ lục.
* Một số ví dụ minh hoạ:
Ví dụ 1: Bài 9: Các loại rễ, các miền của rễ (dạy lớp: 6C)
* Mục tiêu bài học:
+ Kiến thức:
- Học sinh nhận biết và phân biệt được 2 loại rễ chính: Rễ cọc và rễ chùm.
- Phân biệt được cấu tạo và chức năng các miền của rễ, sự phù hợp về cấu tạo
và chức năng ở mỗi miền.
+ Kỹ năng: Quan sát, so sánh, suy luận.
+ Thái độ: Có ý thức bảo vệ thực vật.
Mục 2: Các miền của rễ.
* Mục tiêu: - Học sinh phân biệt được cấu tạo và chức năng 4 miền của rễ.
- Rèn kỹ năng quan sát, suy luận.
* Lý do cần đổi mới phương pháp:
Để học sinh phân biệt được cấu tạo và chức năng các miền của rễ, SGK Sinh
học 6 sử dụng 2 nguồn thông tin:
- Hình 9.3: Các miền của rễ.
- Bảng hệ thống cấu tạo và chức năng mỗi miền.
Nhiệm vụ mà bài tập đặt ra cho học sinh là: đối chiếu hình 9.3 với thông tin
trong bảng để ghi nhớ vị trí, cấu tạo, chức năng của từng miền.
Theo tôi, thay cho việc yêu cầu học sinh ghi nhớ những thông tin có sẵn trong
bảng, có thể cải tiến bảng đã cho thành một bài tập đòi hỏi học sinh phải lựa chọn
những mục tương ứng giữa chức năng và cấu tạo mỗi miền của rễ dựa trên sự phân
tích về mối liên hệ của chúng, thì hiệu quả học tập sẽ được tăng cường vì nó yêu cầu
học sinh phải tích cực, chủ động hơn để thực hiện nhiệm vụ bài tập đề ra.
* Bài tập được đổi mới như sau:
- Hình 9.3 minh hoạ các miền của rễ.
Em hãy quan sát và đọc các thông tin trong bảng dưới đây rồi lựa chọn những
mục tương ứng giữa cấu tạo và chức năng mỗi miền của rễ.
IV- KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ: PHIẾU HỌC TẬP.
1- Hãy đánh dấu √ vào cho ý trả lời đúng nhất của câu sau: (thời gian làm
bài 2 phút).
Thân dài ra do:
a) Sự lớn lên và phân chia tế bào.
b) Chồi ngọn.
c) Mô phân chia ngọn.
d) Sự phân chia tế bào ở mô phần sinh ngọn.
2- Hãy đánh dấu (x) vào những cây được sử dụng biện pháp bấm ngọn:
a) Rau muống c) Đu đủ e) Hoa hồng
b) Rau cải d) Ổi g) Mướp
Đáp án: Câu 1: Phần d
Câu 2: Phần a, e, g.
V- HƯỚNG DẪN:
Học sinh đọc mục "em có biết"?
Làm bài tập.
Xem lại phần cấu tạo trong của rễ.
Chuẩn bị trước bài mới.
* Kết quả thực nghiệm:
Một trong những đặc điểm của bài học là cố gắng tăng cường phát huy sự tích
cực tham gia của học sinh và hoạt động học, sự phát triển năng lực tư duy trong quá
trình giải quyết những nhiệm vụ của bài học trên lớp. ở mỗi bài học, tôi đã hạn chế
việc cung cấp nguồn thông tin có sẵn mà buộc học sinh phải khai thác thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau (qua thí nghiệm, qua nghiên cứu tư liệu SGK, qua tái hiện các
kiến thức đã biết ) và xử lý thông tin (phân tích tổng hợp, so sánh ) để tự tìm ra
kiến thức bài học dưới sự định hướng của giáo viên. Vì vậy so với lớp đối chứng
(6B), kết quả các bài kiểm tra của học sinh lớp 6C, 6A đã chứng tỏ sự vượt trội về
mức độ hiểu và khả năng ghi nhớ những kiến thức cơ bản của bài học ngay trên lớp
cũng như độ bền kiến thức của học sinh.
Kết quả thu được như sau:
Phần III
KẾT LUẬN
GS.TS Nguyễn Khắc Phi đã khẳng định: "Không có phương pháp nào được
coi là tối ưu trong việc giảng dạy, cũng không thể thiết kế những giáo án mẫu và
phương pháp mẫu cho tất cả các giáo viên lên lớp". Việc đổi mới phương pháp chỉ
thực sự đem lại kết quả khi mỗi giáo viên giảng dạy, luôn ý thức được yêu cầu đổi
mới là quy luật tất yếu của ngành giáo dục. Người giáo viên nắm chắc các phương
pháp và vận dụng khéo léo, linh hoạt, sáng tạo ở mỗi đơn vị kiến thức cho phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dậy, trong những năm học vừa qua tôi cũng
đã cố gắng thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy và chú trọng nhất là:
Phương pháp phát huy tính tích cực học tập của học sinh ở môn sinh học 6 và
rút ra vài kinh nghiệm như trên.
Dù đã cố gắng rất nhiều xong bài tập nghiên cứu mà chúng tôi đưa ra đây,
chắc không tránh khỏi những sơ xuất. Mong sự đóng góp ý kiến của cấp lãnh đạo để
tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài này ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Long Sơn 2, tháng 10 năm 2004
Người viết
Trần Trung Sơn