Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9- 18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.96 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ có vai trò đối với sự phát triển tâm lý, nhân cách của trẻ em
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt trong xã hội loài người. Nhờ có ngôn ngữ mà con người
có thể phản ánh thế giới một cách lý tính, gián tiếp và khái quát như A.R.Luria đã so sánh: “Động vật có một
thế giới - thế giới của những vật thể và hoàn cảnh được tri giác một cách cảm tính; con người có hai thế
giới, trong đó có thế giới của những vật thể được tri giác một cách trực tiếp và thế giới của những hình ảnh,
vật thể, những quan hệ, những tính chất mà chúng được xác định bằng các từ.” . Cũng nhờ có ngôn ngữ mà
con người có thể giao tiếp với nhau một cách thuận lợi, dễ dàng nhất, làm cơ sở để liên kết và tổ chức xã hội
loài người. Vì vậy, Lê-nin cũng đã từng khẳng định “ngôn ngữ là công cụ giao tiếp trọng yếu nhất trong xã
hội loài người”.
Đối với trẻ em nói chung, và trẻ 9 - 18 tháng tuổi nói riêng, trước khi có ngôn ngữ, trẻ cũng đã
giao tiếp với người lớn nhưng chủ yếu thông qua các phương tiện phi ngôn ngữ và mang tính cảm xúc.
Khi lĩnh hội được ngôn ngữ, thì ngôn ngữ trở thành phương tiện giúp hoạt động giao tiếp của trẻ mang
tính mục đích, tính ý hướng rõ ràng hơn, truyền tải lượng thông tin phong phú, chính xác hơn. Hơn thế
nữa, ngôn ngữ giúp trẻ thúc đẩy được nhanh hơn, hiệu quả hơn quá trình xã hội hóa bản thân, để hòa
nhập vào xã hội loài người với tư cách là một thành viên thuộc xã hội đó.
1.2 Tương tác mẫu tính là một trong những nhân tố quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-
18 tháng tuổi.
Trong quá trình phát triển của nhân loại nói chung, và phát triển ngôn ngữ của con người nói
riêng, yếu tố di truyền hay yếu tố hoàn cảnh đóng vai trò quyết định trong sự phát triển ngôn ngữ của
con người nói chung và trẻ em nói riêng? Những câu hỏi này là đề tài tranh luận diễn ra trong nhiều thế
kỉ nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy việc lĩnh hội ngôn ngữ một phần phụ thuộc vào
năng lực bẩm sinh của trẻ nhưng hoàn cảnh cũng có những tác động không nhỏ thông qua các kiểu kinh
nghiệm ngôn ngữ mà trẻ có thể tiếp xúc. Như đã nêu, hoàn cảnh tác động không nhỏ tới sự lĩnh hội ngôn
ngữ của trẻ, nếu không giao tiếp bằng ngôn ngữ với những người xung quanh thì việc lĩnh hội ngôn từ cũng
trở nên khó khăn. Trong số các tác nhân bên ngoài ảnh hưởng tới sự lĩnh hội ngôn ngữ, tương tác mẫu tính
được xem là tác nhân đầu tiên và quan trọng nhất làm xuất hiện các mốc đánh dấu sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ từ giai đoạn tiền ngôn ngữ sang giai đoạn ngôn ngữ chính thức.
Tương tác mẫu tính có ảnh hưởng rất lớn như vậy, nhưng trên thực tế việc tìm hiểu, nghiên cứu


và đánh giá vai trò của kiểu tương tác này đối với sự phát triển nói chung và phát triển ngôn ngữ nói
riêng ở trẻ nhỏ ở nước ta vẫn còn một số hạn chế. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở nhà trường và
nhấn mạnh vai trò của giáo viên mầm non (GVMN), chưa quan tâm đúng mức tới mắt xích gia đình, đặc
biệt là những người đầu tiên tiếp xúc, trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ. Thực tế là chúng ta đã vô tình
quên mất rằng “lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo”, cho nên mảng đề tài nghiên cứu về vai trò, kiểu tương
tác mẫu tính đối với sự phát triển nhân cách, năng lực của trẻ vẫn còn tương đối mới mẻ ở nước ta.
Trong khi đó, trẻ ở giai đoạn tiền ngôn ngữ cũng như giai đoạn chuyển giao từ tiền ngôn ngữ sang
ngôn ngữ chính thức – 9-18 tháng tuổi chủ yếu được chăm sóc tại gia đình. Mặt khác, vì chưa
nghiên cứu những cách thức nuôi dạy, tương tác với trẻ tương đối hiệu quả của các bà mẹ trong mỗi gia
đình, nên chúng ta vô tình đã bỏ qua những bài học thực tiễn quí báu, bỏ qua cơ hội vận dụng chúng
2
trong quá trình đào tạo GVMN, để mỗi cô giáo được trau dồi thêm phẩm chất và năng lực mẫu tính
trong quá trình tương tác, giao tiếp với trẻ, để “khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”.
1.3 9-18 tháng tuổi là giai đoạn chịu ảnh hưởng sâu đậm của tương tác mẫu tính.
Đa số trẻ 9-18 tháng tuổi được chăm sóc, giáo dục tại gia đình, mẹ và những người thân chính là
người tạo ra mối quan hệ xã hội đầu tiên, chủ yếu cho trẻ, do vậy tương tác xã hội của trẻ chủ yếu là
tương tác mẫu tính. Điều đó cho thấy tương tác mẫu tính có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
trẻ, đặc biệt là đối với ngôn ngữ bởi đây là giai đoạn chuyển biến về chất trong sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ, từ việc phát ra những âm thanh vô nghĩa sang phát âm có nghĩa, từ giai đoạn tiền ngôn ngữ sang
giai đoạn ngôn ngữ. Vì vậy, sự tương tác ở giai đoạn này có ý nghĩa chuẩn bị quan trọng cho các bước
phát triển tâm lý-ngôn ngữ ở giai đoạn sau. Nói cách khác, việc quan tâm phát triển ngôn ngữ thông qua
tương tác mẫu tính chính là một lựa chọn hướng đến những nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất thuộc về
môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý - ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn 9-18 tháng. Thực hiện
tốt tương tác mẫu tính là cơ sở cho các hướng tác động cụ thể nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở giai
đoạn này cũng như giai đoạn kế tiếp.
1.4. Nghiên cứu ảnh hưởng tích cực của tương tác mẫu tính đối với sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm
non góp phần phát huy giáo dục gia đình đối với sự phát triển của trẻ
Giáo dục một con người toàn diện cần có sự phối hợp khăng khít giữa nhà trường, gia đình và xã
hội. Một trong những cách để hiện thực hóa được quan điểm trên là cần tăng cường hơn nữa các công
trình nghiên cứu về vai trò gia đình, vai trò của bà mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dạy con cái. Riêng đối

với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhỏ, vì xuất phát từ thực tế là hầu như trẻ đã nói được hoặc đã được
chuẩn bị để biết nói trước khi đến trường mầm non nên sự chuẩn bị đó phần lớn thuộc về gia đình, còn
trường mầm non là nơi tiếp tục duy trì, phát huy các năng lực ngôn ngữ đó cho trẻ.
Để quá trình đổi mới giáo dục hiệu quả hơn nữa, chúng ta cần cố gắng tham khảo và vận dụng
kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để nhìn nhận lại vấn đề tương tác mẫu tính ở góc độ lí luận
chứ không chỉ đánh giá nó ở góc độ kinh nghiệm, bản năng. Bởi lẽ kiểu chăm sóc giáo dục mầm non có
một đặc thù rất riêng, đó là “cô giáo như mẹ hiền”. Và làm thế nào để “cô giáo như mẹ hiền”, góp phần
phát huy tiềm năng vốn có ở trẻ, trong đó có tiềm năng ngôn ngữ, lại rất cần đến việc tìm hiểu một cách
hệ thống và khoa học về kiểu tương tác mẫu tính cũng như vai trò của nó trong việc chuẩn bị các tiền đề
giúp trẻ lĩnh hội ngôn ngữ. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần có những nghiên cứu khoa học tìm hiểu về
kiểu tương tác mẫu tính trong mối liên hệ với sự phát triển chung và phát triển ngôn ngữ nói riêng của
trẻ.
1.5 Thực tiễn nghiên cứu về ảnh hưởng của tương tác mẫu tính đối với sự phát triển ngôn ngữ tuổi
mầm non ở Việt Nam hiện nay còn hạn chế
Hiện nay, với những thay đổi về quan điểm giáo dục mầm non, những công trình nghiên cứu về
tương tác mẫu tính đã xuất hiện. Tuy nhiên, một mặt, trong số các nghiên cứu lý luận thì một số công
trình chưa được công bố rộng rãi, một số khác còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về các thuật ngữ
quốc tế nên có nhiều cách quan niệm khiến nội hàm khái niệm bị thu hẹp lại. Mặt khác, các công trình
nghiên cứu thực tiễn về vấn đề này còn đang rất ít. Thực trạng đó cũng đặt ra yêu cầu cần thiết phải
nghiên cứu cặn kẽ hơn về mối liên hệ giữa tương tác mẫu tính với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương
tác mẫu tính” để nghiên cứu trong luận án của mình.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án nhằm tìm hiểu thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ 9 - 18 tháng tuổi dưới tác động của
tương tác mẫu tính. Trên cơ sở đó, bước đầu đưa ra một số nội dung và biện pháp tương tác mẫu tính cụ thể
nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ - giao tiếp cho trẻ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu: khái niệm, nguồn gốc và đặc điểm của tương tác
mẫu tính.

3.2. Làm rõ thực trạng phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính.
3.3 Đề xuất nội dung và biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính.
3.4. Làm rõ tính khả thi của nội dung, biện pháp tác động được đề xuất để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 9-
18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9 - 18 tháng tuổi thông
qua tương tác mẫu tính.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính có thể triển khai theo nhiều
cách khác nhau. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu một nội dung như sau: chúng
tôi hệ thống hóa lí luận về vấn đề TTMT có ảnh hưởng đến sự PTTN tuổi mầm non, tìm hiểu thực trạng
PTNN ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua TTMT, đề xuất nội dung và biện pháp PTNN ở trẻ 9-18 tháng
tuổi thông qua TTMT. Chúng tôi tập trung vào giai đoạn 9-18 tháng tuổi vì đây là giai đoạn chuyển tiếp
từ giai đoạn tiền ngôn ngữ sang giai đoạn ngôn ngữ chính thức ở trẻ mầm non.
- Về địa bàn nghiên cứu: Chúng tôi mong muốn thực hiện quá trình nghiên cứu trên nhiều địa
bàn khác nhau trong cả nước, nhưng do đối tượng nghiên cứu có nhiều nét đặc biệt, nên chúng tôi lựa
chọn địa bàn Hà Nội để có thể kiểm soát được tính khách quan trong quá trình điều tra và thực nghiệm.
7. Các phương pháp nghiên cứu: chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận và phương pháp
nghiên cứu thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.
8. Đóng góp của luận án
Từ việc hệ thống hoá cơ sở lí luận về phát triển ngôn ngữ và tương tác mẫu tính trên thế giới và
ở Việt Nam, khảo sát thực trạng tương tác mẫu tính và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ 9-18 tháng tuổi, luận án có những đóng góp sau đây:
- Hệ thống được những vấn đề lý luận cơ bản về tương tác mẫu tính, ảnh hưởng của tương tác
mẫu tính đối với sự phát triển ngôn ngữ trẻ mầm non.
- Mô tả được thực trạng phát triển ngôn ngữ của trẻ 9 - 18 tháng tuổi qua tương tác mẫu tính.
- Đề xuất được một số nội dung và biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ của trẻ giai đoạn 9 - 18 tháng
tuổi thông qua tương tác mẫu tính.
- Đề xuất bộ công cụ đánh giá một số phương diện của sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9 - 24 tháng
tuổi.

Vì những đóng góp kể trên, luận án có thể làm tài liệu tham khảo giúp phụ huynh, GVMN trong việc
chăm sóc giáo dục nói chung và phát triển ngôn ngữ nói riêng ở trẻ mầm non.
9. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan nghiên cứu, phần nội dung gồm 3chương và cuối cùng là
phần kết luận, đề xuất.
4
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẦM NON
THÔNG QUA TƯƠNG TÁC MẪU TÍNH
1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
1.1. Những quan điểm cơ bản về sự phát triển ngôn ngữ
1.1.1 Thuyết bẩm sinh (Nativist Theories)
Nội dung của thuyết này cho rằng ngôn ngữ là năng lực bẩm sinh đặc thù của loài người, thể hiện
đặc biệt ở trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh lĩnh hội ngôn ngữ thông qua một chương trình di truyền học. Do đó sự
lĩnh hội ngôn ngữ khác với các quá trình nhận thức khác. Noam Chomsky, đại biểu của thuyết bẩm sinh đã
chỉ ra công cụ lĩnh hội ngôn ngữ (the language acquisition device –LAD[79]). Quan điểm này nhấn mạnh
trẻ em được sinh ra với sự hiểu biết cơ bản về ngôn ngữ và với một năng lực trí tuệ sẵn có để lĩnh hội ngôn
ngữ một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.1.2 Thuyết học tập (Learning Theories)
Thuyết học tập lại cho rằng năng lực ngôn ngữ là do học tập mà có được. Đại biểu của thuyết này là
Skinner, Pavlov,….Các nhà khoa học theo thuyết này cho rằng ngôn ngữ được lĩnh hội thông qua một quá
trình cơ bản như liên tưởng, củng cố và bắt chước (associations, reinforcement and imitation). Thuyết này
còn được gọi bởi một cái tên khác là Thuyết hành vi chủ nghĩa. Tuy vậy giới hạn của thuyết học tập là những
quá trình mà thuyết này đề ra chưa tính toán một cách đầy đủ đến các yếu tố liên quan tới quá trình phát triển
ngôn ngữ, bởi lẽ nó quá đơn giản để giải thích sự phức tạp của bản thân ngôn ngữ.
1.1.3 Thuyết nhận thức( Cognitive theory )
Thuyết nhận thức cho rằng sự phát triển của ngôn ngữ được sự phát triển nhận thức chuẩn bị và
hậu thuẫn. Piaget, J. và những nghiên cứu về phát triển nhận thức của ông có ảnh hưởng lớn nhất đến
thuyết nhận thức. Đối với Piaget, năng lực ngôn ngữ được xem là một phần năng lực biểu tượng phổ
thông nhất, phức hợp hơn cả so với trò chơi biểu tượng, sự mô phỏng trì hoãn (延滞模倣), vẽ v.v…Sự

xuất hiện của ngôn ngữ là vào cuối thời kì vận động trở đi, nhờ vào sự hậu thuẫn của năng lực biểu
tượng hay còn gọi là tư duy tượng trưng (là năng lực dùng một sự vật khác thay thế cho một sự vật ở
trong suy nghĩ, và dùng ngôn ngữ để biểu hiện, làm tái hiện được sự vật không có ở trước mắt).
1.1.4 Thuyết nhận thức xã hội (hay còn gọi là quan điểm tương tác xã hội )(Interactionist Theory)

Thuyết nhận thức xã hội cho rằng mặc dù bẩm sinh và học tập là rất quan trọng, nhưng sự tồn tại
của con người mang tính xã hội nên ngôn ngữ và tâm lí không đơn thuần là sản phẩm của cá nhân mà
còn là sản phẩm của quá trình giao tiếp với người khác. Kiểu tư duy này được gọi là chủ nghĩa cấu
thành xã hội. Người mở đầu cho quan điểm này trong tâm lý học phát triển là Vygosky, L. Vygosky đã
nhấn mạnh ngôn ngữ được sự hậu thuẫn bởi sự phát triển của tư duy, kí ức tùy theo sự vật hay công cụ
có tư cách là di sản văn hóa, mà được truyền lại từ sự tương tác và hỗ trợ của người lớn . Bruner, nhà lí
luận phát triển ngôn ngữ sẽ tiếp tục hướng tư duy trên.
Như vậy thông qua các thuyết về sự phát triển ngôn ngữ, ta thấy rõ ngôn ngữ rõ ràng là có liên
quan đến khía cạnh di truyền học. Trước hết ngôn ngữ chỉ xuất hiện trong thế giới loài người với một
phiên bản đầy đủ nhất, tức là ở dạng tín hiệu có sự tương ứng giữa một hình thức vật chất và một nội
dung ý nghĩa . Nhưng để có sự phát triển ngôn ngữ một cách thuận lợi nhất cần rất nhiều đến các yếu tố
có liên quan chặt chẽ với các yếu tố phát triển xã hội và nhận thức khác.
5
1.2 Nghiên cứu tương tác mẫu tính đối với sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ nhỏ
1.2.1 Nghiên cứu về tương tác mẫu tính
1.2.1.1 TTMT như một phẩm chất có nguồn gốc bẩm sinh, có liên quan tới thuyết Gắn bó (Attacment)
Mở đầu cho xu hướng nghiên cứu này về TTMT phải kể tới các nhà tâm lý học Ainsworth, M.
D., Bell, S.M., & Stayton. Tiếp tục cho xu hướng nghiên cứu này phải kể tới tên tuổi của John Bowlby
với các công trình nghiên cứu về Attachment (Sự gắn bó). Attachment được giới nghiên cứu giáo dục
Âu Mĩ bắt đầu từ những năm 1977 với đại biểu tiêu biểu là John Bowlby. Theo John Bowlby, sự gắn bó
có nghĩa là: “Là một hệ thống điều chỉnh sẵn có ở con người (do quá trình tiến hóa mang lại) để đảm
bảo sự sinh tồn và phát triển của loài người. Sự gắn bó này có thể thay thế cho mọi nỗ lực khác, nó bắt
đầu từ khi con người sinh ra cho đến khi chết đi. Đối với trẻ, đó là trạng thái gần gũi hoặc dễ dàng trò
chuyện, giao tiếp với một ai đó, và điều này giống như nền tảng có thể đảm bảo sự an toàn (đặc biệt là
về tinh thần) cho trẻ một cách tốt nhất.”

1.2.1.2 TTMT mang nhiều nét đặc thù như sự nhạy cảm, tính tự nhiên

Tương tác mẫu tính giữa người mẹ với trẻ khi được xét như là một quá trình thì đòi hỏi phải
mang những đặc tính nhất định phù hợp với trẻ mầm non. Những đặc tính này thể hiện ở chỗ người mẹ
thường xuyên kiểm soát, điều chỉnh được hướng nhìn và hành động của trẻ một cách gắn bó, thân thiết,
và sau đó phản ứng lại một cách tinh tế, nhạy bén, tự nhiên và phù hợp.
1.2.2 Nghiên cứu về những ảnh hưởng của tương tác mẫu tính đối với sự PTNN của trẻ mầm non
1.2.2.1 TTMT như là một cấu trúc xã hội tối ưu giữa mẹ - trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ
Hầu hết những mô tả về cấu trúc xã hội tối ưu giữa mẹ và trẻ đã đóng góp những giả thuyết quan
trọng cho rằng những đoạn cảnh đáp ứng qua lại ngẫu nhiên và manh tính xã hội giữa mẹ và trẻ là một
nhân tố thuận lợi cho quá trình phát triển của trẻ ở giai đoạn mầm non (Moore & Dunham, 1995). Theo
đó, với quan điểm thực tiễn-xã hội trong phát triển ngôn ngữ, trẻ lĩnh hội ngôn ngữ như một phần toàn
vẹn từ những tương tác xã hội với những người xung quanh (Bruner, 1983). Bruner cũng là một trong
những người đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu hành vi giao tiếp tiền ngôn ngữ để
hiểu về quá trình lĩnh hội ngôn ngữ, trong đó nhấn mạnh trẻ em đã nỗ lực để truyền đạt thông tin như
thế nào ở giai đoạn tiền ngôn ngữ.
1.2.2.2 TTMT là một nhân tố dự báo sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
Nhiều nghiên cứu của Barrett, Harris và Chasin, 1991]; D’Odorico, Salerni, Cassibba và Jacob,
1999; Menyuk, Liebergotts và Schultz, 1995, Snow, 1977 đã khẳng định những khía cạnh liên quan tới
sự tương tác mang tính xã hội có thể đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình chuyển đổi từ giai đoạn
tiền ngôn ngữ tới giai đoạn ngôn ngữ chính thức.
2 Những nghiên cứu ở Việt Nam
2.1 Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non
2.1.1 Nghiên cứu về đặc điểm phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non
Có thể thấy sự phát triển của bộ môn khoa học Phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non là một bộ
phận của bộ môn nghiên cứu Phương pháp dạy học Văn và Tiếng Việt ở các Khoa Ngữ văn. Có thể kể
ra đây các giáo trình, công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng cấu trúc của bộ môn khoa học Phương
pháp phát triển ngôn ngữ trẻ em: “Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ em”(Cao Đức
Tiến, Nguyễn Quang Ninh, Hồ Lam Hồng- Trung tâm nghiên cứu Đào tạo và Bồi dưỡng Giáo viên, Hà
Nội, 1993); …Bên cạnh phương diện cấu trúc, phát triển ngôn ngữ trẻ em còn được nhìn nhận ở phương

diện chỉnh thể, tức là việc trẻ sử dụng các phương tiện giao tiếp trong đó có ngôn ngữ trong giao tiếp xã
6
hội để xã hội hóa chính bản thân mình và phát tiển các khả năng, kĩ năng khác trong đó có khả năng, kĩ
năng ngôn ngữ. Việc nghiên cứu về giao tiếp của trẻ được nhìn nhận nhiều từ góc độ tâm lý học trẻ em,
nhưng chưa trở thành một hướng nghiên cứu giao tiếp – ngôn ngữ trẻ em với những công trình nghiên
cứu thuyết phục và có sức ảnh hưởng sâu rộng có thể làm thay đổi diện mạo của bộ môn Phát triển ngôn
ngữ tuổi mầm non.
2.1.2 Nghiên cứu về biện pháp phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non gắn
Ngay từ khi xuất hiện ở Việt Nam, ngành này đã có tên gọi Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo hoặc phương pháp phát triển lời nói trẻ em. Như vậy, từ trong tên gọi, đã thể hiện mối
gắn kết giữa khoa học phát triển ngôn ngữ với Giáo dục học mầm non theo mối quan hệ giữa cái riêng
và cái chung. Theo đó, các thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học non trẻ này tập trung một lượng
đáng kể vào việc tìm kiếm, đề xuất nội dung, biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Có thể kể
ra đây các công trình tiêu biểu cho xu hướng nghiên cứu này: “Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo” (Nguyễn Xuân Khoa, NXB ĐHQG HN, 1999), “Các biện pháp phát triển ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ mẫu giáo” (Nguyễn Thị Oanh),)…Như vậy, nếu như ở phương Tây, PTNN được xem
là một ngành khoa học gắn bó chặt chẽ với ngành tâm lý, ngôn ngữ (vì thế được gọi là tâm lý – ngôn
ngữ học hoặc tâm lý học phát triển) thì ở Việt Nam, PPDH Văn và Tiếng Việt nói chung và PTTN cho
trẻ mầm non nói riêng lại gắn bó thực tiễn với Giáo dục học, và có mã ngành đào tạo là Giáo dục học.
2.2 Nghiên cứu về PTNN cho trẻ mầm non thông qua tương tác mẫu tính ở Việt Nam
2.2.1 Nghiên cứu phát triển ngôn ngữ theo định hướng giao tiếp nói chung
2.2.1.1 Nghiên cứu về giao tiếp có ảnh hưởng tới nhân cách trẻ nói chung
Về giao tiếp nói chung vào những năm đầu của thập kỉ 80,“Giao tiếp” là đề tài được giới khoa
học xã hội quan tâm nghiên cứu. Cuối năm 1981, Ban Tâm lý thuộc Viện Triết học của Ủy ban Khoa
học xã hội tổ chức một hội nghị khoa học lớn để bàn về:“ Hoạt động và giao tiếp”. Sau đó, nhiều công
trình về giao tiếp cũng được nghiên cứu và công bố. Ngoài ra có một số công trình nghiên cứu lí luận và
thực tiễn về giao tiếp của trẻ mầm non: “ Giao tiếp và ứng xử của cô giáo với trẻ em” của Ngô Công
Hoàn, “ Giáo dục trẻ em trong nhóm bạn bè” của Nguyễn Ánh Tuyết, “ Một số đặc điểm giao tiếp của
trẻ mẫu giáo bé trong nhóm chơi không cùng độ tuổi”( Lê Xuân Hồng )…Những công trình này có đề cập
vai trò của giao tiếp với trẻ, nhưng chủ yếu là giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ mà chưa đề cập đến

kiểu giao tiếp mẫu tính đặc thù, một kiểu giao tiếp có xuất phát điểm từ giao tiếp mẫu tử.
2.2.1.2 Nghiên cứu về gia đình có ảnh hưởng tới phát triển ngôn ngữ của trẻ
Đã có những công trình bắt đầu nghiên cứu đến vai trò của gia đình đối với ngôn ngữ của trẻ
nhỏ như:“ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành, phát triển vốn từ ở trẻ 1-3 tuổi” của Lưu Thị Lan
(Nghiên cứu giáo dục, 1989, số 8, tr10), “ Vai trò của gia đình trong việc sửa tật ngôn ngữ cho trẻ” –
Lưu Thị Lan (Nghiên cứu giáo dục, 1986, số 3, tr8). Những nghiên cứu này tập trung vào vấn đề giao
tiếp của trẻ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo, vào quá trình phát sinh, phát triển giao tiếp của trẻ từ 0-6 tuổi, nghiên
cứu mối quan hệ qua lại giữa giao tiếp với các chức năng tâm lý… những vấn đề phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu cụ thể giao tiếp của trẻ em. Mặc dù vậy, các nghiên cứu trên cũng chưa đề cập
tới kiểu giao tiếp mẫu tính trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhỏ. Trong khi đó, tương tác mẫu tính
lại là tương tác xã hội đầu tiên của trẻ, tạo nên nền tảng tâm lý- nhân cách- ngôn ngữ cho các giai đoạn
phát triển tiếp sau của trẻ nhỏ.
7
2.2.2. Nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính
Tương tác là bản chất của giao tiếp do đó tương tác mẫu tính là một bộ phận của giao tiếp nói
chung, mặc dù vậy vấn đề PTNN thông qua tương tác mẫu tính hầu như chưa được đặt ra ở GDMN Việt
Nam.
Một số giáo trình tâm lý học trẻ em như giáo trình “Tâm lý học mầm non” (Nguyễn Ánh Tuyết,
NXB ĐHQGHN, 2003), giáo trình Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (Từ lọt lòng đến 6 tuổi),In lần
thứ 11, Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) có đề cập tới các kiểu quan hệ mẹ- con có ảnh hưởng tới sự phát
triển tâm lý, nhân cách của trẻ. Những nội dung lý thuyết đã được đề cập phần lớn là được kế thừa từ
tâm lý học phương tây, nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể nào ở Việt Nam để kiểm chứng hoặc để phát
huy vào các công trình mang tính ứng dụng khác. Vì lẽ đó hầu như chưa có một tường thuật đầy đủ nào
về Gắn bó mẹ - con, khái quát hơn là Gắn bó mẫu tính đối với người học về ngành mầm non. Do vậy
mà chưa có công trình nghiên cứu nào có tính chất kiểm chứng lại lý thuyết của Ainsworth, Bowlby,
Bruner ở Việt Nam và tiến tới vận dụng các lý thuyết này trong các công trình nghiên cứu ứng dụng
khác.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu việc nghiên cứu PTTN ở trẻ mầm non nói chung và trẻ 9-18 tháng
tuổi nói riêng ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy ở nước ta đã có những manh nha cho xu hướng nghiên
cứu này, chẳng hạn có đặt ra việc nghiên cứu ảnh hưởng của giao tiếp đối với sự phát triển nhân cách,

phát triển ngôn ngữ của trẻ, có đặt ra việc nghiên cứu vai trò của gia đình đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ. Tuy nhiên, một cách chính thức thì vấn đề phát triển ngôn ngữ của trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua
tương tác mẫu tính vẫn chưa hề được đặt ra. Vì thế chúng tôi mạnh dạn theo đuổi một hướng nghiên cứu
ứng dụng tương đối mới mẻ ở Việt Nam : “Phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương
tác mẫu tính”.
Chương 1
TƯƠNG TÁC MẪU TÍNH
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TUỔI MẦM NON
1.1 Quan niệm về sự “ phát triển” và “ phát triển ngôn ngữ”
Quan điểm của chúng tôi là, “ phát triển ngôn ngữ” được hiểu theo cả hai nghĩa danh từ và động
từ, tức là quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Chúng tôi cho rằng, xuất
phát từ việc cố gắng hiểu thấu các cơ chế phát triển ngôn ngữ của con người nói chung, trẻ nhỏ nói riêng
các nhà tâm lý – ngôn ngữ, giáo dục học sẽ đưa ra các phương pháp, biện pháp nhằm can thiệp sớm hoặc
hỗ trợ cải thiện chất lượng lĩnh hội và phát triển ngôn ngữ ở giai đoạn tuổi mầm non; đồng thời đưa ra các
tiêu chí phổ quát đánh giá các mốc phát triển ngôn ngữ cần đạt của trẻ ở mỗi một độ tuổi nhất định của tất
cả các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.
1.2 Tương tác mẫu tính và sự phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Sự tương tác mẫu tính được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh là maternal interaction, theo nghĩa hẹp
đó là hành vi phản ứng, tương tác giữa người mẹ và trẻ nhỏ. Hành vi tương tác mẫu tính đặc trưng cho
năng lực và kĩ năng giao tiếp của mẹ và trẻ ,bao gồm nhiều dạng tương tác như tương tác thể chất, tương
tác ngôn ngữ v.v…TTMT được xem là những điều kiện quan trọng để phát triển nhận thức – trí tuệ,
phát triển tình cảm- xã hội, phát triển ngôn ngữ của trẻ. Theo nghĩa rộng, hành vi tương tác mẫu tính
cũng là hành vi của người lớn trong trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Do công việc chăm
8
sóc trẻ trước tuổi học đường có nhiều nét đặc thù nên giáo viên mầm non cũng cần có những phẩm chất
và năng lực của một người mẹ.
1.21.2 Phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính
Phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính là việc thực hiện các tương tác mẫu tính nhằm
hỗ trợ trẻ đạt được các quá trình tâm lý liên quan đến giao tiếp, lĩnh hội các phương tiện giao tiếp, lĩnh

hội và rèn luyện các kĩ năng giao tiếp để hoạt động giao tiếp nói chung và hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ nói riêng, vận dụng những kĩ năng giao tiếp vào hoạt động giao tiếp để đạt được hiệu quả hơn.
Các khái niệm được lý thuyết Sự gắn bó xây dựng là các khái niệm maternal attachment,
maternal responsive, maternal interaction, maternal sensitive…Trong số những khái niệm này chúng tôi
lựa chọn khái niệm maternal interaction làm cơ sở lí luận cho đề tài của luận án bởi lẽ bản thân nội hàm
của nó có sự liên hệ trực tiếp tới các phương tiện giao tiếp nói chung và phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
nói riêng. Việc Việt hóa khái niệm này cần có những cân nhắc cụ thể. Quan điểm của luận án là
“maternal” không chỉ có nội hàm là một kiểu quan hệ mà hơn thế nữa còn có nội hàm gắn với một phẩm
chất. Do đó, chúng tôi không dịch là phản ứng bà mẹ hay tương tác bà mẹ, mà dịch là phản ứng mẫu
tính và tương tác mẫu tính. “Mẫu tính” về mặt từ loại cũng là tính từ, tức là từ loại tương ứng với từ
“maternal”.Với cách dịch của luận án, chúng tôi có thể vận dụng và phát triển những thành tựu nghiên
cứu trên không chỉ vào việc tư vấn cho các bà mẹ mà còn vào việc tư vấn cho những người khác tham
gia vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt hơn cả vào việc đào tạo đội ngũ GVMN, phát triển khả
năng tương tác mẫu tính không chỉ là phẩm chất cần thiết của một người mẹ mà còn là một phẩm chất,
kĩ năng quan trọng của một GVMN. Tuy nhiên, để kết quả nghiên cứu được nhất quán và thể hiện rõ nét
nhất, chúng tôi vẫn tiến hành chỉ quan sát và tiến hành thực nghiệm trong quá trình tương tác, giao tiếp
giữa mẹ và bé, tức là quá trình tương tác của một kiểu quan hệ điển hình nhất – quan hệ mẫu tử.
1.2.2 Đặc trưng của tương tác mẫu tính
1.2.2.1Tương tác mẫu tính có nguồn gốc từ tự nhiên, mang tính bẩm sinh
Có thể nói, tương tác mẫu tính có nguồn gốc từ những đặc điểm sinh học độc đáo của con người.
Những tiến hóa về hình thái cơ thể và sự phát triển về đại não ở trên đã cho thấy con người tiến hóa hơn hẳn
các loài động vật có vú bậc cao khác. Tuy nhiên, sự tiến hóa đó cũng chứa đựng một mâu thuẫn: một em bé
được sinh ra thì hệ vận động chưa phát triển mà chỉ có các giác quan phát triển. Chính điều đó em bé mới
cần sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ, và quá trình chăm sóc ấy đòi hỏi sự tương tác, giao tiếp mẫu tử.
Giao tiếp trở thành tình cảm bẩm sinh sinh tồn của con người. Đó chính là sự gắn bó giữa mẹ và bé. Như
vậy, mâu thuẫn của sự tiến hóa cũng cho ta thấy được nhu cầu giao tiếp của loài người ngay khi vừa mới
chào đời. Có thể thấy, tương tác mẫu tính trước hết ra đời từ những nhân tố tự nhiên, bẩm sinh của con
người. Đến lượt mình, tương tác mẫu tính lại trở thành một trong những nhân tố tự nhiên – xã hội để nhằm
hình thành ngôn ngữ mang bản chất tín hiệu ở loài người.
1.2.2.2 Tương tác mẫu tính có nền tảng từ sự nhạy cảm mẫu tính (maternal sensitive)

Sự nhạy cảm (sensitive) được xem như một trong những yếu tố then chốt trong thuyết Sự gắn bó
(Attachment Theory, Bowlby 1969, 1973, 1980) và cũng là nền tảng của sự tương tác mẫu tính. Và Tóm
lại, sự nhạy cảm chính là khả năng của người mẹ trong việc cảm nhận chính xác những tín hiệu trên cơ
sở cân nhắc quan điểm của trẻ và đáp ứng lại những tín hiệu đó một cách tinh tế, tự nhiên và phù hợp.
9
1.2.2.3 Tương tác mẫu tính thông qua phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ (Maternal nonverbal) và
ngôn ngữ mẫu tính (child-directed speech–CDS).
Gogate và những nhà nghiên cứu khác phát hiện ra rằng những bà mẹ có con ở giai đoạn tiền
ngôn ngữ sẽ sử dụng từ đồng thời với cử chỉ điệu bộ hơn là những bà mẹ có con ở giai đoạn lĩnh hội từ
vựng. Tương tác mẫu tính phi ngôn ngữ giúp trẻ hình thành các công cụ giao tiếp sơ khai như ánh mắt,
cử chỉ, điệu bộ và phát âm. Dần dần, trong suốt quá trình tương tác hai chiều đó, trẻ trở nên chủ động và
linh hoạt hơn trong việc chuyển đổi ánh nhìn của mình từ kích thích này sang một kích thích khác.
(McConnell & Bryson ,2005. Sau đó, trong sự phát triển của mình, ở trẻ sơ sinh bắt đầu dõi theo sự chú
ý của người khác trong khi cùng chia sẻ kinh nghiệm về thế giới xung quanh với họ bằng cách xen cái
nhìn của mình vào giữa đối tượng xã hội cùng tương tác và đối tượng vật thể quan tâm.
Tương tác mẫu tính còn được thể thiện một cách rộng rãi bởi các dạng thức khác nhau của ngôn
ngữ trực tiếp với trẻ (child-directed speech–CDS). Đây là một vấn đề có tính chất độc đáo và giữ một
vai trò quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ trẻ nhỏ. Harris (1996) đã chỉ ra những phát hiện đầu
tiên về ngôn ngữ mà người lớn nói với trẻ - hay đặc biệt hơn là ngôn ngữ mẫu tính (maternal speech)
khá là nhất quán. CDS có xu hướng có cao độ cao và có kiểu ngữ điệu cường điệu và tốc độ hội thoại thì
chậm hơn so với sự hội thoại giữa người lớn với người lớn. Clark (2003) đã chứng tỏ rằng những điều
chỉnh đó sẽ giúp người mẹ và những bảo mẫu khác gây được và duy trì được sự chú ý của trẻ. Tóm lại,
tương tự với những phương diện có liên quan tới tương tác xã hội nói chung, lời nói mẫu tính (maternal
speech) có thể sẽ có ảnh hưởng tới trẻ nhiều hơn cho tới khi trẻ bắt đầu nói những từ đầu tiên so với giai
đoạn phát triển ngôn ngữ về sau này.
1.2.3.4 Tương tác mẫu tính là sự điều chỉnh tích cực, năng động qua lại giữa mẹ và trẻ
TTMT không chỉ đơn thuần là sự tác động từ mẹ đến trẻ, mà ngược lại còn là quá trình điều chỉnh
ngược lại giữa trẻ đối với mẹ. Khi chúng ta nói chuyện với trẻ, trẻ thường sẽ tham gia và đáp lại bằng một
cách nào đó. Các biểu hiện đáp lại của trẻ hướng tới giao tiếp sẽ cho chúng ta biết những phản hồi quan
trọng mà trẻ dành cho người lớn. Việc người lớn sử dụng ngôn ngữ mẫu tính CDS cũng không đơn thuần chỉ

là người lớn thích làm điều đó, mà chính là do sự “yêu cầu, điều chỉnh” từ phía trẻ. Cha mẹ và những người
lớn khác, kể cả trẻ em lớn đều sử dụng một loại ngôn ngữ đặc biệt khi nói chuyện với trẻ.
1.2.3 Tương tác mẫu tính có vai trò quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ từ giai đoạn
tiền ngôn ngữ đến giai đoạn đầu của giao tiếp ngôn ngữ
1.2.3.1 Tương tác mẫu tính giúp trẻ phát triển các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Tương tác mẫu tính, đặc biệt là trong giai đoạn ngôn ngữ sớm, việc sử dụng những cử chỉ điệu
bộ thích hợp kết hợp với ngôn ngữ miêu tả có thể sẽ giúp trẻ tập trung được chú ý vào vật, việc và vật
chất thay vì chỉ thuần túy khuyến khích bằng lời hướng sự chú ý trong các hành vi mẫu tính cũng có tác
dụng tăng cường phát triển ngôn ngữ một cách gián tiếp (Gogate, Bahrick & Watson 2000, Karrass,
Braungart-Rieker, Mullins & Lefever 2002, Schmidt & Lawson 2002, và xem Masur, 2005. Tương tác
mẫu tính còn giúp trẻ phát triển được hành động trỏ tay với tư cách là khởi nguồn của ngôn ngữ. Thông
qua tương tác mẫu tính ở giai đoạn 3-4 tháng tuổi trở đi, trẻ được tiếp xúc và làm quen với hành động
trỏ tay. Từ đó trẻ cũng học cách định hướng sự chú ý của người đối diện bằng hành động trỏ tay.
1.2.3.2 Tương tác mẫu tính giúp trẻ phát triển tư duy tượng trưng (năng lực biểu tượng)- nền tảng của
việc lĩnh hội ngôn ngữ
Lyytinen, Eklund và Lyytinen (2003) phát hiện ra rằng những lời nói mẫu tính trong quá trình
tương tác mẫu tính chính là một gợi ý giúp trẻ tiếp cận trò chơi biểu tượng (symbolic play), và khi trẻ
10
được 14 tháng tuổi- ở vào giai đoạn nghe hiểu ngôn ngữ, lời mẹ nói sẽ giúp trẻ những bài học vỡ lòng
về trò chơi biểu tượng.
1.2.3.3 Tương tác mẫu tính giúp trẻ phát triển phương tiện giao tiếp ngôn ngữ và thói quen giao tiếp
ngôn ngữ
Trên thực tế, nhìn chung ngôn ngữ đầu vào (in put language) có đặc điểm tự nhiên và được đơn
giản hóa (Snow 1995). Cả hai loại điều chỉnh này có lẽ khá quan trọng để tạo thuận lợi cho phát triển
ngôn ngữ một cách hiệu quả, ít nhất là trong một vài cách cụ thể ở những giai đoạn nhất định trong phát
triển ngôn ngữ (cf. Tamis-LeMonda và cộng sự 2001). Một tỉ lệ lớn những lời nói mẫu tính là để phản
ứng lại lời hay hành động của trẻ (Snow 1977, 1986)Điều này chứng tỏ rằng mẹ nói không đơn thuần
chỉ là cung cấp thông tin tới cho trẻ mà còn để khuyến khích trẻ giao tiếp ngôn ngữ. Do đó, một vài đặc
điểm của ngôn ngữ mẫu tính là chỉ có thể giải thích trong một khung tương tác nhất định của mẹ (bảo
mẫu) và trẻ. Chẳng hạn như một tỉ lệ lớn những câu hỏi trong lời nói mẫu tính được xem như là một

cách đẩy lượt thoại tiếp theo tới trẻ. Để xây dựng một cuộc thoại đảm bảo cấu trúc lượt lời luân phiên
với trẻ nhỏ, người mẹ (bảo mẫu) phải phản ứng tương tác bằng cách vừa phát ra câu hỏi (chủ yếu là câu
hỏi có/không) lại vừa tự trả lời cho lượt thoại tiếp theo.
Rất nhiều khía cạnh khác liên quan đến chất lượng và bản năng giao tiếp mẹ - bé đã được chứng
minh là có ảnh hưởng rõ rệt đến việc lĩnh hội các kĩ năng giao tiếp và ngôn ngữ của trẻ nhỏ như Bloom
1998, Bruner 1983, Dunham & Moore 1995, Landry, Smith, Miller-Loncar & Swank 1997, Tomasello
1995, Vygotsky, 1978). Chẳng hạn như, Landry và các đồng nghiệp (1997) đã nhận ra rằng những hành
vi mẫu tính mà nhạy cảm trước mối quan tâm của trẻ và không kiểm soát hay giới hạn các hoạt động
của trẻ đều có tác dụng phát triển ở trẻ cả về nhận thức-ngôn ngữ lẫn tính xã hội. Như một tồn tại của
thực tế, trong những ghi chép mang tính kinh nghiệm, những đặc điểm khá giống nhau giữa những kiểu
giao tiếp mẫu tính là thường thể hiện sự gắn bó giữa Sự gắn bó (attachment) và ngôn ngữ.
1.2.3.4 Tương tác mẫu tính ở giai đoạn trước có chức năng dự báo sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở các
giai đoạn sau
Cho đến nay, những tổng kết từ các nghiên cứu đã chỉ ra một số khía cạnh hành vi tương tác/
giao tiếp của bà mẹ có thể đóng góp vào tiến bộ của trẻ em trong kỹ năng giao tiếp và ngôn ngữ - đặc
biệt là trong giai đoạn đầu phát triển. Kỹ năng giai đoạn đầu của trẻ có thể tự nó có giá trị tiên đoán về
các kết quả ngôn ngữ ở giai đoạn sau này. Bởi vì hiện tại các nghiên cứu cho thấy rằng tất cả những
quan hệ tiên đoán trên thường là những biểu hiện có tính cụ thể hơn là toàn cục, một cách tiếp cận hữu
ích để tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực này có thể là việc tìm hiểu mối liên quan giữa một số lượng
hợp lý các khía cạnh của người chăm sóc tương tác - giao tiếp ứng xử và các kĩ năng tiền ngôn ngữ và
ngôn ngữ giai đoạn đầu của trẻ sơ sinh cũng như khả năng tiên đoán của chúng với các kết quả ngôn
ngữ ở giai đoạn sau.
1.3 Đặc điểm tâm sinh lý và ngôn ngữ của trẻ 9-18 tháng tuổi và tương tác mẫu tính
1.3.1 Đặc điểm sinh lý
Sự hoạt động của cơ thể trẻ cũng như cơ thể của người lớn không phải là gồm những hoạt động
riêng lẻ của từng hệ cơ quan, mà các cơ quan trong cơ thể đều hoạt động trong một hệ thống hoàn chỉnh.
Não bộ, cơ quan phát âm và thính giác là những cơ quan có liên hệ trực tiếp đến hoạt động lĩnh hội ngôn
ngữ. Những cơ quan này ở trẻ đều chưa hoàn thiện cả về cấu tạo và chức năng. Vì vậy giai đoạn 9-18
tháng tuổi là giai đoạn hoàn thiện dần ở cả hai phương diện kể trên.
11

1.3.2 Đặc điểm tâm lý
Giai đoạn từ 9-15 tháng tuổi được gọi là giai đoạn cuối của tuổi hài nhi. Ở trẻ đã xuất hiện hiện
tượng biết phân biệt lạ quen rõ rệt: trẻ thường tỏ ra sợ hãi và từ chối giao tiếp với người lạ. Chính điều
này là một biểu hiện tích cực trong năng lực giao tiếp của trẻ. Cũng ở tuổi này trẻ xuất hiện nhu cầu cầm
nắm, sờ mó các đồ vật, theo đó, nhu cầu giao tiếp trực tiếp với người lớn ở giai đoạn trước được chuyển
sang giao tiếp với đồ vật, giao tiếp với người lớn để được tiếp xúc với đồ vật, từ đó mối quan hệ ba
chiều (trẻ - người lớn- đồ vật) cũng được hình thành.
15-18 tháng tuổi là giai đoạn đầu của tuổi ấu nhi. Khi bước vào tuổi ấu nhi, mối quan hệ giữa trẻ
với thế giới đồ vật được thay đổi đáng kể. Ở trẻ ấu nhi, hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo. Trẻ
khám phá thế giới đồ vật không chỉ để chơi, nghịch mà còn để tìm hiểu chức năng và cách thức sử dụng
chúng. Thông qua giao tiếp với người lớn, những kinh nghiệm lịch sử-xã hội vốn có ở trong các đồ vật
được trẻ lĩnh hội. Nhờ vậy mà tâm lý của trẻ phát triển mạnh, đặc biệt là trí tuệ. Thế giới chủ quan được
tạo thành sẽ tạo ra động lực giao lưu, giao tiếp, cộng tác xã hội của trẻ đối với những khách thể xung
quanh mình, và đây sẽ là một động lực quan trọng nhất thúc đẩy trẻ lĩnh hội ngôn ngữ.
1.3.3 Đặc điểm ngôn ngữ
Trẻ ở giai đoạn cuối hài nhi và giai đoạn đầu của tuổi ấu nhi (9-18 tháng tuổi) phát triển mạnh
mẽ nhu cầu giao tiếp với người lớn và nhu cầu khám phá môi trường xung quanh. Chính điều này đã
làm tăng khả năng lĩnh hội ngôn ngữ ở trẻ.Tóm lại, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 9-18 tháng tuổi diễn
ra theo các hướng: sự tích lũy các đơn vị ngôn ngữ làm nền tảng cho khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và
duy trì và phát triển nhu cầu giao tiếp với người lớn, tạo nên động cơ để phát triển ngôn ngữ tích cực
của trẻ tại thời điểm này cũng như ở các giai đoạn về sau.
1.3.4 Tương tác mẫu tính ở độ tuổi 9-18 tháng
Qua tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, ngôn ngữ của trẻ 9-18 tháng tuổi, ta thấy rõ rang trẻ ở giai
đoạn này có một sự gắn bó tự nhiên và mật thiết với người mẹ . Sang tới giai đoạn 9-18 tháng tuổi
TTMT giữa mẹ và trẻ có nhiều bước phát triển mới, trực tiếp đặt nền tảng cho sự phát triển nhân cách,
tâm lý và ngôn ngữ cho trẻ ở các giai đoạn sau. Trước hết là tương tác phi ngôn ngữ: tương tác phi ngôn
ngữ giai đoạn này đạt tới một chất lượng mới. Về tương tác ngôn ngữ, ở giai đoạn 9-18 tháng tuổi,
không chỉ mẹ sử dụng ngôn ngữ mẫu tính mà trẻ cũng bắt đầu xuất hiện khả năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ. Khoảng thời gian từ 9-18 tháng tuổi là khoảng thời gian người lớn quan sát được sự tiến bộ rõ rệt
về chất trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ: trẻ chuyển từ những âm bập bẹ vô nghĩa sang những từ

đúng đầu tiên, từ chỗ chỉ có một vài từ trẻ bước vào giai đoạn tăng tốc đột biến về số lượng từ, và trẻ bắt
đầu xuất hiện khả năng ngữ pháp khi nói được những câu 2 từ trở lên…Có thể nói 9-18 tháng tuổi đánh
dấu bước chuyển ngoạn mục của trẻ từ giai đoạn tiền ngôn ngữ sang giai đoạn ngôn ngữ chính thức, làm
tăng vọt chất lượng tương tác mẫu tính giữa mẹ và trẻ. Ngôn ngữ của trẻ phát triển khiến cho ngôn ngữ
mẫu tính của mẹ cũng tăng dần độ phức tạp về nội dung ngữ nghĩa cũng như về cấu trúc ngữ pháp.
Tiểu kết chương 1
Chuẩn bị cho trẻ mầm non nói chung, trẻ từ 9 – 18 tháng tuổi nói riêng khả năng giao tiếp và
giao tiếp ngôn ngữ là một công việc rất cần thiết và mang lại hiểu quả tốt cho trẻ trong cuộc sống hiện
tại cũng như sau này. Tìm hiểu tương tác mẫu tính và phát triển ngôn ngữ qua tương tác mẫu tính từ góc
độ lí luận đã góp phần nêu rõ các khái niệm công cụ như phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non và tương tác
mẫu tính, phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu tính.
12
Chương 2
THỰC TRẠNG, NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ Ở TRẺ 9-18 THÁNG TUỔI
THÔNG QUA TƯƠNG TÁC MẪU TÍNH
2.1 Thực trạng về phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính
Chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng tương tác mẫu tính đối với sự phát triển sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ thông qua tương tác mẫu tính của trẻ 9-18 tháng tuổi ở một số gia đình. Nội dung điều tra
chủ yếu là vấn đề nhận thức, thói quen và biện pháp phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua
tương tác mẫu tính của một số các bà mẹ. Kết quả điều tra được thể hiện qua 7 bảng số liệu (xem toàn
văn). Trên cơ sở các bảng số liệu chúng tôi có rút ra một số nhận xét như sau:
Về phương pháp, biện pháp tương tác của người mẹ
Những kết quả thống kê được từ việc điều tra thực trạng nhận thức, sự hiểu biết của cha mẹ đối
với việc phát triển khả năng giao tiếp, ngôn ngữ cho trẻ 9 – 18 tháng tuổi đã cho chúng ta thấy được
phần nào nhu cầu của người làm cha mẹ luôn mong muốn con mình phát triển tốt nhất, việc phát triển
khả năng giao tiếp, giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ sẽ làm tăng mối quan hệ tình cảm
giữa trẻ với mọi người, sự vật xung quanh, đặc biệt là sự gắn bó với người mẹ. Những cách làm hay
những biện pháp mà các bà mẹ đã sử dụng trong quá trình nuôi dạy cũng như giúp con học nói rất đa
dạng. Điều này cũng chứng mình rằng họ luôn có ý thức đối với việc dạy con nhưng bên cạnh đó vẫn có

những hạn chế, có những biện pháp chưa thực sự đúng đắn đối với sự phát triển của trẻ.
Tìm hiểu nguyên nhân thực trạng
Xuất phát từ kết quả thực trạng, ta thấy tương tác mẫu tính giữa mẹ và trẻ 9 – 18 tháng tuổi còn
nhiều bất cập. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng sau quá trình điều tra, chúng tôi
đã tìm hiểu một số nguyên nhân khách quan như sau:
- Nguyên nhân khách quan:
Một trong những nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ chính là yếu tố
môi trường xã hội. Sự thay đổi của mô hình gia đình truyền thống chuyển sang mô hình gia đình hạt
nhân dẫn đến những thay đổi trong sinh hoạt gia đình, đến thói quen chăm sóc và giáo dục con cái như
giao phó con cái cho người giúp việc hoặc dùng ti vi để trông trẻ. Những điều này chính là các nguy cơ
dẫn đến tình trạng chậm giao tiếp ngôn ngữ ở trẻ.
- Nguyên nhân chủ quan:
+Về phía cha mẹ:
Trong quá trình tìm hiểu sơ bộ thực tế về nhận thức và việc chuẩn bị cũng như cách mà cha mẹ giúp
trẻ 9 – 18 tháng tuổi phát triển khả năng giao tiếp và ngôn ngữ ở một số gia đình hiện nay, chúng tôi nhận
thấy rằng: việc phát triển khả năng giao tiếp và ngôn ngữ cho trẻ nhỏ cũng được các cha mẹ quan tâm nhưng
họ chưa có những biện pháp tác động đến trẻ một cách phù hợp. Vì vậy, cần giúp cho cha mẹ nhận thức rõ
được khả năng của trẻ trong giai đoạn này và đề ra những biện pháp giúp trẻ phát triển được khả năng giao
tiếp. Cũng còn một số bà mẹ cho rằng trẻ còn quá nhỏ vì vậy sẽ không ảnh hưởng gi đến sự phát triển
của trẻ, chỉ cần chăm sóc trẻ đầy đủ về mặt vật chất- dinh dưỡng, dẫn đến sự xem nhẹ vai trò của quá
trình tương tác xã hội, tương tác mẫu tính đối với trẻ nhỏ.
Qua quá trình quan sát các phương pháp, biện pháp mà các bà mẹ sử dụng trong quá trình trò
chuyện với con nhằm phát triển khả năng giao tiếp của trẻ, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: những
biện pháp mà các bà mẹ sử dụng hầu như chỉ mang tính bản năng, họ cho rằng trò chuyện với trẻ nhất là
13
trẻ từ 9 -18 tháng là độ tuổi quá nhỏ, trẻ không biết nói nên chỉ cần bập bẹ hay nói u ơ theo chúng là
được, nhưng như vậy là chưa đủ.
+Về phía trẻ:
Khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ nhỏ cũng phụ thuộc vào đặc điểm của từng cá nhân trẻ như
khí chất, sự phát triển về nhận thức không trẻ nào giống trẻ nào. Có những trẻ chậm ngôn ngữ do bẩm

sinh trẻ mắc một loại bệnh nào đó những những trẻ khác phát triển bình thường cũng có thể chậm nói
hơn so với mức độ phát triển trung bình.
2.2 Nội dung phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính
9-18 tháng tuổi là giai đoạn phát triển có tính chất chuyển giao trên nhiều phương diện: thể chất
vận động, tâm sinh lý, ngôn ngữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đề xuất nội dung phát triển ngôn ngữ ở
trẻ 9-18 tháng tuổi như sau:
2.2.1 Phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi theo phương diện cấu trúc
Khi đánh giá về sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non, ta thấy trước hết là có xu hướng đánh giá
xem trẻ phát âm được bao nhiêu âm, bắt đầu là âm vô nghĩa tiến tới là âm có nghĩa, trẻ sẽ nói được bao
nhiêu từ, nói được câu ngắn hay câu dài; nói được nhiều câu cùng một lúc để diễn tả về cùng một vấn
đề nào đó hay không. Xu hướng này đã xem xét sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở phương diện cấu trúc,
xét theo tiêu chí về các đơn vị của một ngôn ngữ. Nhìn nhận phát triển ngôn ngữ của trẻ theo hướng cấu
trúc tức là quan sát, đánh giá và hỗ trợ trẻ lĩnh hội các đơn vị trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ như ngữ
âm, từ vựng và các đơn vị ngữ pháp như cụm từ và câu, tức là hỗ trợ năng lực ngôn ngữ của trẻ.
Việc lĩnh hội được ngôn ngữ có nghĩa, cái mà được đánh giá bằng những mốc cụ thể sau: những
sự bắt chước đầu tiên, những từ mang tính tự phát, vốn từ được khoảng 50 từ, sự liên kết từ-từ, và việc sử
dụng ngôn ngữ để nói về quá khứ. Từng mốc kể trên được xem như là những chỉ số phát triển quan trọng
trong năng lực giao tiếp và nhận thức của trẻ. Dựa vào các mốc phát triển ngôn ngữ theo hướng cấu trúc
trong giai đoạn từ 9-18 tháng tuổi, chúng tôi đề xuất nội dung phát triển ngôn ngữ theo hướng chỉnh thể
theo hai khía cạnh như sau: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
2.2.2 Phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi theo phương diện chỉnh thể
Bên cạnh xu hướng coi trọng việc xem xét trẻ lĩnh hội các đơn vị ngôn ngữ như thế nào còn có
một xu hướng khác quan tâm tới việc trẻ sẽ sử dụng vốn liếng các phương tiện giao tiếp (bao gồm cả
phương tiên phi ngôn ngữ và ngôn ngữ) như thế nào trong việc giao tiếp với người thân và mọi người
xung quanh. Xu hướng này đã quan tâm tới việc phát triển ngôn ngữ trong việc hành chức của nó là giao
tiếp.
Dựa vào các mốc phát triển ngôn ngữ theo hướng chỉnh thể trong giai đoạn từ 9-18 tháng tuổi,
chúng tôi đề xuất nội dung phát triển ngôn ngữ theo hướng chỉnh thể theo hai khía cạnh như sau: phát
triển tư duy ngôn ngữ- năng lực biểu tượng, phát triển giao tiếp ngôn ngữ (phát triển tính chủ đích
trong giao tiếp ngôn ngữ và phát triển các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và ngôn ngữ)

2.3 Biện pháp phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính
Việc đề xuất biện pháp phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính cần đảm
bảo các yêu cầu như: coi trọng tính tích cực chủ động của trẻ trong quá trình lĩnh hội phát triển ngôn
ngữ, phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ tiếng Việt, cũng như cần hướng vào hoạt động giao tiếp ngôn ngữ
và phù hợp với văn hóa người Việt.
2.3.1 Sử dụng hát ru
14
Việc sử dụng hát ru rất phù hợp với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 9-18 tháng tuổi thông qua
tương tác mẫu tính. Có thể xem đây là biện pháp thể hiện đậm nét bản chất mẫu tính, vừa thắt chặt củng
cố tình mẫu tử vừa có tác dụng định hướng trẻ một cách hiệu quả tới ngôn ngữ, mở đầu cho một chuỗi
các biện pháp tương tác mẫu tính. Các bà mẹ Việt Nam có thể tùy theo vùng miền mà có thể lựa chọn
cho mình những bài hát ru phù hợp. Người mẹ cần lựa chọn những bài hát ru có nội dung phù hợp với
độ tuổi của trẻ và phù hợp với không gian sinh hoạt văn hóa của đứa trẻ cùng với mọi người xung
quanh. Khi hát ru, người mẹ có thể sử dụng kèm theo những động tác, cử chỉ vỗ về phi ngôn ngữ, để trẻ
cảm nhận thấy được dường như có mối dây liên hệ giữa âm thanh với sự chuyển động của cơ thể.
2.3.2 Tăng cường sử dụng ngôn ngữ mẫu tính (CDS) khi tương tác ngôn ngữ với trẻ
Biện pháp này được đề ra nhằm hình thành ở trẻ các quá trình tâm lý –ngôn ngữ như:
- Giúp trẻ tập trung chú ý vào ngôn từ
- Hình thành mối quan hệ hai chiều: trẻ và người lớn, để thực hiện các quy tắc giao tiếp như quy
tắc cộng tác, quy tắc luân phiên lượt lời.
- Hình thành ở trẻ các quy luật tâm lý như: nhìn cùng hướng, chú ý cùng hướng, tham chiếu xã
hội và mối quan hệ ba chiều …
2.3.2.3 Tăng cường phản hồi bằng lời trước sự chú ý của trẻ
Biện pháp này được đề ra nhằm hình thành ở trẻ các quá trình tâm lý giữ vai trò quan trọng nhất
là nền tảng của sự phát triển tâm lý – ngôn ngữ của trẻ đó chính là quy luật chú ý cùng hướng (joint
attention). Khi có sự giao lưu ngôn ngữ, nhân vật giao tiếp cùng hướng về một sự vật, sự việc thì được
gọi là sự chú ý cùng hướng (joint attention). Sự chú ý cùng hướng là một điều kiện căn bản để thiết
lập giao tiếp của con người. Nhìn cùng hướng góp phần hình thành không gian chung, tiếng nói chung
giữa trẻ và người lớn, tạo nên điều kiện không thể thiếu được của giao tiếp. Mặt khác, bên cạnh việc
hình thành không gian chung, nhìn cùng hướng, nhìn cùng hướng tạo nên chú ý cùng hướng còn hình

thành thế giới chủ quan của bên trong, từ đó xuất hiện nhu cầu truyền đạt và chia sẻ giữa các bên có
cùng chung tiếng nói.
2.3.4 Sử dụng vật trung gian trong quá trình tương tác mẫu tính
Cùng với sự giao tiếp trực tiếp với người lớn, dần dần trẻ xuất hiện nhu cầu sờ, cầm nắm các đồ
vật. Từ đó, nhu cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao tiếp với người khác thông qua đồ vật. Đối
với trẻ nhỏ, thường thường trẻ muốn cầm nắm, sờ những đồ vật khi người lớn mang đến cho. Lúc này,
đồ vật trở thành khâu trung gian giữa trẻ và người lớn, sự giao tiếp này dần dần trở thành một hoạt động
phối hợp giữa người lớn với trẻ tạo nên mối quan hệ 3 chiều là nền tảng của sự phát triển ngôn ngữ.
2.3.5. Tổ chức các góc giao tiếp mẹ-bé trong không gian gia đình
Biện pháp tổ chức các góc giao tiếp này nhằm tạo không gian tương tác ngôn ngữ riêng cho trẻ
trong các gia đình. Đó có thể là các góc chơi nhỏ mà chúng ta thường thấy tại các trường mầm non
nhưng tại gia đình, các góc chơi ấy sẽ được lựa chọn, bố trí, sắp xếp phù hợp với trẻ hơn hoặc chính là
các góc sinh hoạt thực tiễn trong mỗi gia đình như phòng bếp, phòng khách, phòng ngủ, phòng đọc
sách Chính biện pháp này là sự hiện thực hóa của việc tạo ra các “bối cảnh xã hội” theo quan điểm của
J. Bruner, một nhà tâm lý – ngôn ngữ học theo thuyết tương tác xã hội.
2.3.2.6. Thực hiện các hoạt động tương tác luân phiên
Hoạt động luân phiên sẽ giúp xây dựng những cuộc hội thoại giữa người lớn và trẻ, và sau này
giữa các trẻ đồng lứa với nhau. Vì một trong các nguyên tắc quan trọng nhất trong hội thoại chính là
nguyên tắc hai chiều và nguyên tắc luân phiên lượt lời.
15
Tiểu kết chương 2
Kết quả khảo sát thực trạng nhận thức của phụ huynh về vấn đề phát triển khả năng ngôn ngữ và
giao tiếp cho trẻ từ 9 -18 tháng tuổi cho thấy rằng: nhận thức của phụ huynh chưa thật sự đầy đủ đối với
việc hỗ trợ quá trình phát triển khả năng ngôn ngữ và giao tiếp ở 9-18 tháng tuổi. Do đó việc sử dụng
các biện pháp, phương tiện nhằm phát triển ngôn ngữ chưa phù hợp để phát triển ngôn ngữ ở trẻ 9-18
tháng tuổi. Phát triển khả năng ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ thông qua tương tác mẫu tính bao gồm phát
triển về mặt năng lực ngôn ngữ theo hướng cấu trúc và năng lực giao tiếp ngôn ngữ theo hướng chỉnh
thể. Dựa vào kết quả khảo sát ở trên cũng như vào các nội dung phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác
mẫu tính chúng tôi đã đề xuất những biện pháp phát triển khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ từ 9
-18 tháng tuổi, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển ngôn ngữ và giao tiếp sau này của trẻ.

Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1 Thực nghiệm sư phạm
3.1.1 Đối tượng thực nghiệm
Đối tượng thực nghiêm chúng tôi chọn chính là 130 cặp mẹ - bé trong số các bà mẹ mà chúng tôi đã khảo
sát điều tra bằng phiếu anket vào thời gian 3/2011.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bằng việc yêu cầu các bà mẹ sử dụng các biện pháp luận án đã đề xuất
và sử dụng các phiếu đánh giá ngôn ngữ và thông qua việc quan sát quá trình trẻ giao tiếp với mẹ tại các gia đình.
3.1.2 Thời gian thực nghiệm
Thực nghiệm được tiến hành từ tháng 4 năm 2011đến tháng 7 năm 2011
3.1.3 Mục đích thực nghiệm
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tổ chức thực nghiệm đề
kiểm tra hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất trong việc phát triển ngôn ngữ thông qua tương tác mẫu
tính.
3.1.4 Nội dung thực nghiệm
− Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến sự phát triển giao tiếp và giao tiếp của trẻ từ 9- 18 tháng tuổi
đến 12-21 tháng tuổi thông qua tương tác mẫu tính.
− Tiến hành thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất trên Nhóm TN gồm các cặp mẹ - bé 9-18
tháng tuổi.
− Đánh giá mức độ hiệu quả của các biện pháp được đề xuất đối với việc phát triển ngôn ngữ và giao
tiếp khi bé 12-21 tháng tuổi tức là sau 3 tháng kể từ khi áp dụng các biện pháp.
3.2 Tiêu chí đánh giá ngôn ngữ, giao tiếp của trẻ 9-24 tháng tuổi
3.2.1 Xây dựng phiếu đánh giá về ngôn ngữ của trẻ 9-24tháng tuổi
Mặc dù, đối tượng thực nghiệm chỉ từ 9-21 tháng tuổi nhưng chúng tôi quyết định xây dựng
phiếu đánh giá ngôn ngữ của trẻ từ 9-24 tháng tuổi trên cơ sở vận dụng quan điểm “Vùng phát triển gần
nhất” của Vư-gôt-xki. Cấu tạo của bài trắc nghiệm này kiểm tra về năng lực ngôn ngữ, được chia làm 3
phần: Sự phân giải âm tiết, phát âm, từ vựng và thêm một bộ phận để kiểm tra khả năng ngữ pháp.
Phiếu đánh giá năng lực phát triển ngôn ngữ:
(I) Kiểm tra từ vựng thông qua 1 bảng từ vựng gồm có 50 từ (xem toàn văn)
Mỗi một từ mà trẻ hiểu đúng nghĩa được tính là 01 điểm. Tổng điểm là 50điểm/ 50 từ .
16

Thang đánh giá như sau: (chỉ áp dụng với tổng số trẻ của mỗi nhóm): Từ 0 -12 điểm: thấp; từ
13 – 25 điểm: trung bình; từ 26 – 38 điểm: khá cao; từ 39 – 50 điểm: rất cao.
(II) Kiểm tra phát âm bằng 1 bảng bao gồm 15 từ, trong đó có 4 từ 2 âm tiết, tổng cộng là có 19
âm tiết (xem bảng âm tiết ở toàn văn, trang 161.)
Ở độ tuổi này, hầu hết trẻ đều phát âm ngọng, do vậy các lỗi ngọng về thanh điệu, âm đầu, âm
đệm, âm chính, âm cuối đều sẽ không bị trừ điểm. Chỉ cần trẻ có biểu hiện phát âm gần giống một cách
có ý thức, đều có thể tính mỗi âm tiết phát ra tương ứng với 01 điểm. Tổng điểm: 19điểm/ 19 âm tiết (11
từ đơn âm và 4 từ đa âm tiết ). Thang đánh giá như sau: Từ 0 -4 điểm: thấp; từ 5 – 9 điểm: trung bình; từ
10- 14 điểm: khá cao; từ 15 – 19 điểm: Cao
(III) Kiểm tra ngữ pháp (xem bảng về nội dung kiểm tra ngữ pháp162)
- Kiểm tra khả năng thực hiện các yêu cầu bằng ngôn ngữ
- Kiểm tra khả năng hiểu được ngữ điệu khen chê/cấm đoán
- Kiểm tra khả năng đưa ra yêu cầu bằng ngôn ngữ của trẻ
- Kiểm tra khả năng sử dụng câu hỏi ai/ cái gì
- Khảo sát những hư từ có thể xuất hiện ở giai đoạn 9-18 tháng
Cụ thể như sau: Tổng điểm: 34/17 nội dung. Thang đánh giá: (chỉ áp dụng với tổng số trẻ của
mỗi nhóm): Từ 0- 8 điểm: thấp; từ 9 -17 điểm: trung bình; từ 18 – 25 điểm: Khá cao; từ 26 – 34
điểm: Cao
3.2.2 Xây dựng tiêu chí đánh giá giao tiếp của trẻ 9-24 tháng tuổi
Để khảo xát mức độ khả năng ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ 9-18 tháng tuổi và 12 -21tháng tuổi,
chúng tôi đã xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ khả năng giao tiếp ở độ tuổi này. Việc xây dựng
tiêu chí được tiến hành theo các bước sau:
3.2.2.1 Bước 1: Xác định căn cứ
Căn cứ 1: Cơ sở ý luận về phát triển giao tiếp và ngôn ngữ cho trẻ mầm non thông qua tương tác
mẫu tính ( đã trình bày ở chương 1 của luận án)
Căn cứ 2: Nội dung về giao tiếp và giao tiếp ngôn ngữ tuổi nhà trẻ (đã trình bày ở chương 2 của
luận án).
Căn cứ 3: Mục tiêu giáo dục của việc phát triển ngôn ngữ trẻ nhà trẻ
Theo chương trình giáo dục nhà trẻ, mục tiêu của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau:
− Nghe hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói

− Biết hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản bằng lời nói, cử chỉ.
− Sử dụng lời nói để giao tiếp, diễn đạt nhu cầu.
− Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của câu thơ và ngữ điệu của lời nói.
− Hồn nhiên trong giao tiếp.
Căn cứ 4: Thực tế sự cần thiết của giao tiếp đối với trẻ và nhu cầu của phụ huynh mong muốn
con mình có thể khả năng giao tiếp tốt với mọi người xung quanh đặc biệt là giao tiếp bằng ngôn ngữ
càng sớm càng tốt.
3.2.2.2. Bước 2: Xây dựng một số tiêu chí đánh giá mức độ khả năng giao tiếp của trẻ (xem bảng trang 164)
Tổng điểm nội dung giao tiếp: 60/29 nội dung, với thang điểm đánh giá như sau: từ 0 – 15điểm: thấp;
từ 16 – 29 điểm: trung bình; từ 30 – 44 điểm: khá cao; từ 45 – 60 điểm: cao.
17
Tổng kết cả phần đánh giá năng lực ngôn ngữ và giao tiếp ta sẽ có tổng điểm như sau:
Tổng điểm : 163/4 nhóm nội dung. Thang đánh giá: Mức độ thấp: từ 0 – 39; Mức độ trung bình: 40 –
80; Mức độ khá cao: 81- 121; Mức độ cao: 122 – 163.
3.2.3 Tiến hành thực nghiệm
Trước khi thực nghiệm, chúng tôi tiến hành trao đổi với các bà mẹ về mục đích yêu cầu của việc tiến
hành thực nghiệm. Cung cấp cho các bà mẹ được thực nghiệm những tài liệu về cơ sở lý luận, cách tiến hành
những biện pháp mà chúng tôi đã đề xuất để họ có thể vận dụng vào các hoạt động thực nghiệm.
3.2.3 .1 Bước 1: Chọn mẫu thực nghiệm và đối chứng.
- Nhóm thực nghiệm: 66 trẻ
- Nhóm đối chứng: 64 trẻ
Chia các đối tượng mẹ và trẻ trong độ tuổi từ 9-18 tháng tuổi thành 2 nhóm: nhóm thực nghiệm
là 66 trẻ và nhóm đối chứng là 64 trẻ để tiến hành đánh giá năng lực ngôn ngữ và giao tiếp đầu vào. Sau
03 tháng tiến hành các biện pháp đã đề xuất ở chương 2, chúng tôi tiếp tục đánh giá năng lực ngôn ngữ
và giao tiếp của chính 2 nhóm trẻ trên từ đó rút ra kết luận về hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.
Trong mỗi nhóm lại chia thành 04 nhóm nhỏ hơn là: nhóm 9 tháng tuổi (9 trẻ), nhóm 10-12
tháng tuổi (14 trẻ ), nhóm 13-15 tháng tuổi (18 trẻ ) và nhóm 16-18 tháng tuổi (22-23 trẻ) để đảm bảo sự
tương ứng về trình độ ngôn ngữ và giao tiếp giữa 2 nhóm.
Cũng để đánh giá chính xác hơn nữa hiệu quả của các biện pháp, chúng tôi cũng tính đến tỉ lệ
cân bằng giới tính giữa nhóm ĐC và nhóm TN trong quá trình thực nghiệm.

Tóm lại, để đảm bảo tính khách quan của kết quả thực nghiệm, chúng tôi đã cố gắng lựa chọn
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng tương đương nhau về mọi mặt.
3.2.3 .2 Bước 2: Khảo sát đầu vào của nhóm thực nghiệm và đối chứng
Để làm cơ sở xác định tính khả thi cho luận án chúng tôi đã tiến hành đánh giá mức độ khả năng
giao tiếp của trẻ khi trẻ 9 – 18 tháng tuổi tại các gia đình ở cả nhóm đối chứng và thực nghiệm đã được
xác định.
3.2.3 .3 Bước 3: Chuẩn bị các điều kiện thực nghiệm.
Trao đổi với các gia đình, đặc biệt là các bà mẹ có con trong độ tuổi 9 – 18 tháng tuổi được thực
nghiệm về mục đích, nội dung và kế hoạch thực nghiệm biện pháp giúp phát triển khả năng giao tiếp
của trẻ 9 -18 tháng tuổi. Trao đổi, phối hợp với các bà mẹ về thời gian thực hiện các biện pháp và địa
điểm thực hiện.
Xen kẽ luân phiên các biện pháp thực hiện trong vòng 03 tháng.
3.2.3 .4 Bước 4:Tiến hành tổ chức thực nghiệm các biện pháp
Các bà mẹ sẽ tổ chức, bố trí và hướng dẫn trẻ thực hiện theo các biện pháp đã đề ra trong vòng
03 tháng từ 4/2011 đến 7/2011.
Các hành động, lời nói của trẻ phát ra trong khi sử dụng các biện pháp, - kết quả thực nghiệm sẽ
được góp ý, hỗ trợ người mẹ điều chỉnh cho phù hợp với mục đích thực nghiệm.
( Đối với nhóm đối chứng, các biện pháp được sử dụng nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông
qua tương tác mẫu tính ở đề tài này không được sử dụng cho nhóm trẻ đối chứng)
3.3 Kết quả về mức độ hiệu quả của các biện pháp được đề xuất
3.3.1 So sánh kết quả về mức độ của các nhóm trước và sau thực nghiệm
Qua Bảng 8 và Biểu 1 (xem toàn văn,trang 168), ta thấy, nhóm ĐC trước và sau thực nghiệm
cũng có sự thay đổi: sau thực nghiệm, nhóm trẻ đạt mức độ “thấp” có giảm đi từ 7,69% xuống còn
18
3,08%, nhóm đạt mức độ “trung bình” có tăng lên từ 56,92% lên 61,54%, còn nhóm “khá cao” và “cao”
vẫn giữ nguyên tỉ lệ và số lượng. Có thể là do không được áp dụng bất cứ một biện pháp hỗ trợ nào, nên
sự thay đổi này là do sự phát triển tự nhiên của lứa tuổi, và chưa có mấy sự khác biệt đáng kể nào giữa
trước và sau thực nghiệm. Ở phần sau, chúng tôi sẽ tiến hành kiểm định để đánh giá sự chênh lệch trước
và sau thực nghiệm này có phải là sự khác biệt có ý nghĩa hay không.
Nhìn vào Bảng 9 và Biểu 2 (xem toàn văn, trang 169), ta thấy, nhóm TN trước và sau thực

nghiệm cũng có sự thay đổi rõ rệt: sau thực nghiệm, nhóm trẻ đạt mức độ “thấp” có giảm hẳn từ 4,62%
xuống còn 0,00%, nhóm đạt mức độ “trung bình” có tăng rõ rệt từ 58,46% lên 63,08%, còn nhóm “khá
cao” lại giảm xuống từ 36,92% xuống còn 33,85% và bù lại, nhóm “cao” tăng từ 0,00% lên 3,08%.
Bước đầu, chúng ta có thể nhận thấy là nhờ áp dụng các một biện pháp hỗ trợ, nên sự thay đổi này là dự
báo sự khác biệt đáng kể nào giữa trước và sau thực nghiệm. Ở phần sau, chúng tôi sẽ tiến hành kiểm
định để đánh giá sự chênh lệch trước và sau thực nghiệm này có phải là sự khác biệt có ý nghĩa hay
không.
Nếu tính gộp cả nhóm ĐC và nhóm TN lại, ta tiến hành lập bảng và biểu so sánh kết quả của
130 trẻ trước và sau TN. Nhìn chung, các mức độ đều có sự thay đổi: mức độ “thấp” có sự giảm đi
từ 6,15% xuống còn 1,54%, mức độ “trung bình” tăng từ 57,69% lên 62,31% và mức độ “cao” có
tăng nhẹ từ 0,00% lên 1,54%, chỉ riêng mức độ “khá cao” thì giảm 36,15 xuống 34,62%. Ta thấy rõ
xu thế thay đổi kể trên là do sự thay đổi của nhóm TN chi phối sự thay đổi chung của hai nhóm ĐC
và TN. Tuy nhiên sự chênh lệch trước và sau TN của tổng số trẻ cả hai nhóm có phải là sự khác biệt
có ý nghĩa hay không, chúng tôi sẽ tiến hành làm kiểm định hiệu quả thực nghiệm ở phần sau. Cũng
ở bảng 12 và biểu 5 ta thấy, nhìn chung ở độ tuổi từ 9-18 tháng tuổi, kể cả hai nhóm ĐC cũng như TN,
thì năng lực ngôn ngữ và giao tiếp đạt điểm trung bình là chiếm một tỉ lệ đa số 60% – 80% , còn lại là
khoảng 40% đạt điểm khá cao, chỉ một số ít phần trăm là rơi vào vùng điểm thấp hoặc là đạt điểm cao.
3.3.2 Kiểm định hiệu quả thực nghiệm theo các mức độ thấp, trung bình, khá cao và cao
Bảng 11 . Kiểm định hiệu quả thực nghiệm nhóm ĐC1 và TN1 (trước và sau TN)
Nhóm 9 tháng tuổi (Nhóm
1)
ĐC1 TTN ĐC1 STN
TN1
TTN
TN1
STN
Giá trị trung bình 39.889 42.556 40.889 52.111
Độ lệch chuẩn 4.167 4.586 3.371
Giá trị p 0.607 0.0002
Có ý nghĩa (p≤0,05) Không có ý nghĩa Có ý nghĩa

Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác
động của hai nhóm ĐC1 là 0.607và TN1 là 0.0002. Điều này có nghĩa là chênh lệch trước tác động ít có
khả năng xảy ra ngẫu nhiên cao. Do vậy, chênh lệch này là không có ý nghĩa. Còn chênh lệch giá trị
trung bình sau thực nghiệm của hai nhóm là 0.0002, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng ta
coi chênh lệch này là có ý nghĩa. Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả đối
với nhóm thực nghiệm 1.
19
Bảng 12 Kiểm định hiệu quả thực nghiệm nhóm ĐC2 và TN2 (trước và sau TN)
Nhóm 10 - 12 tháng tuổi
(Nhóm 2)
ĐC2 TTN ĐC2 STN
TN2
TTN
TN2
STN
Giá trị TB 57.071 60.786 56.400 64.733
Độ lệch chuẩn 2.369 1.968 3.066 3.081
Giá trị p 0.514 0.0004
Có ý nghĩa (p≤0,05) Không có ý nghĩa Có ý nghĩa
Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác
động của hai nhóm ĐC2 là 0.514 và TN2 là 0.0004. Điều này có nghĩa là chênh lệch trước tác động ít có
khả năng xảy ra ngẫu nhiên cao. Do vậy, chênh lệch này là không có ý nghĩa. Còn chênh lệch giá trị
trung bình sau thực nghiệm của hai nhóm là 0,004, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng ta coi
chênh lệch này là có ý nghĩa.
Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả đối với nhóm thực nghiệm 2.
Bảng 13 Kiểm định hiệu quả thực nghiệm nhóm ĐC3 và TN3 (trước và sau TN)
Nhóm 13- 15 tháng
tuổi (Nhóm3)
ĐC3
TTN

ĐC
3STN
TN3TTN TN3STN
Giá trị trung bình 68.861 69.361 68.944 74.667
Độ lệch chuẩn 3.757 3.780 3.091 2.995
Giá trị p 0.943 0.0001
Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác
động của hai nhóm ĐC3 là 0.943 và TN3 là 0.0001. Điều này có nghĩa là chênh lệch trước tác động ít có
khả năng xảy ra ngẫu nhiên cao. Do vậy, chênh lệch này là không có ý nghĩa. Còn chênh lệch giá trị
trung bình sau thực nghiệm của hai nhóm là 0,0001, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng ta
coi chênh lệch này là có ý nghĩa.Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả đối
với nhóm thực nghiệm 3.
Bảng 14 Kiểm định hiệu quả thực nghiệm nhóm ĐC4 và TN4 (trước và sau TN)
Nhóm 16- 18 tháng
tuổi (Nhóm 4)
ĐC4 TTN ĐC4 STN TN4TTN TN4STN
Giá trị TB 100.935 102.196 100.208 114.458
Độ lệch chuẩn 2.225 2.409 4.544 4.859
Giá trị p 0.496 0.0000
Có ý nghĩa (p≤0,05) Không có ý nghĩa Có ý nghĩa
Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác
động của hai nhóm ĐC4 là 0.496 và TN4 là 0.0000. Điều này có nghĩa là chênh lệch trước tác động ít có
khả năng xảy ra ngẫu nhiên cao. Do vậy, chênh lệch này là không có ý nghĩa. Còn chênh lệch giá trị
trung bình sau thực nghiệm của hai nhóm là 0.0000, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng ta
coi chênh lệch này là có ý nghĩa. Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả đối
với nhóm thực nghiệm 4.
20
Bảng 15 a. Kiểm định nhóm ĐC và TN trước và sau TN theo các mức độ
Kiểm đinh DC và TN trước TN Giá trị P 0.98 Không có ý nghĩa
Kiểm đinh DC VA TN sau TN Giá trị P 0.04 Có ý nghĩa (P<0,05)

Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác động
của nhóm đối chứng 0.98và thực nghiệm là 0.04. Điều này có nghĩa là chênh lệch trước tác động ít có khả
năng xảy ra ngẫu nhiên cao. Do vậy, chênh lệch này là không có ý nghĩa. Còn chênh lệch giá trị trung bình
sau thực nghiệm của nhóm TN so với trước TN là 0.04, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng ta
coi chênh lệch này là có ý nghĩa.
Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả đối với nhóm thực nghiệm.
Bảng 15b. Kiểm định nhóm tổng nhóm ĐC và TN trước và sau TN
Nhóm ĐC và TN ĐC và TN TTN ĐC và TNSTN
Giá trị trung bình 73.636 83.803
Độ lệch chuẩn 22.306 24.642
Giá trị p 0.014
Có ý nghĩa (p≤0,05) Có ý nghĩa
Gía trị p trong phép kiểm chứng t-test độc lập cho thấy chênh lệch giá trị trung bình trước tác
động của nhóm đối chứng và thực nghiệm là 0.014 .Như vậy chênh lệch giá trị trung bình sau thực
nghiệm của nhóm ĐC và TN so với trước TN là 0.014, nghĩa là có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Chúng
ta coi chênh lệch này là có ý nghĩa. Như vậy, các biện pháp mà chúng tôi đề xuất đã mang lại kết quả
tổng gộp của cả ĐC và TN sau TN. Điều này cho thấy, sự khác biệt có ý nghĩa của nhóm TN sau TN đã
chi phối kết quả chung của tổng điểm ĐC và TN gộp lại.
3.3.3 Kiểm định sự thay đổi của các nhóm trong từng lĩnh vực ngôn ngữ sau thực nghiệm
Xét theo từng lĩnh vực cụ thể của sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp, có thể thấy nổi lên một số đặc điểm sau:
Về mặt từ vựng:
So sánh giứa ĐC trước và sau 3 tháng không tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi thì vốn từ
vựng có tăng nhẹ. Tuy nhiên với các trị số p lần lượt là: 0.014, 0.000, 0.324 và 0,125 thì chỉ có 2 trị số p
đầu tiên là thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa còn 2 trị số p sau là những sự khác biệt không có ý nghĩa.
Qua trị số p ta thấy, mặc dù không được tác động thực nghiệm nhưng nhóm ĐC 1 và ĐC 2 vẫn có sự
thay đổi nổi bật do đây là đặc trưng của giai đoạn tuổi 9 – 12 tháng tuổi là tuổi xuất hiện những từ đầu
tiên. Do vậy đây là sự tăng tự nhiên theo quy luật mà chưa cần đến những tác động của thực nghiệm.
Nhưng do không được tác động thực nghiệm nên ở nhóm ĐC 3 và ĐC 4 đã không duy trì được mức
tăng như trước nữa, dẫn đến trị số p đã thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa.
So sánh giứa TN trước và sau 3 tháng tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi thì vốn từ vựng có

tăng với 4 trị số p đều là 0.000 và đó là những sự khác biệt có ý nghiĩa. Như vậy, nhờ có sự tác động
thực nghiệm mà trị số p của nhóm TN thấp hơn nhiều so với trị số p của nhóm ĐC. Và sự khác biệt có ý
nghĩa của sự tăng trưởng từ vựng được duy trì trong suốt 4 độ tuổi của nhóm TN.
Về mặt phát âm
So sánh giứa ĐC trước và sau 3 tháng không tác động thực nghiệm ở cả 3 độ tuổi sau thì điểm
số của phát âm có xu hướng giảm nhẹ, riêng độ tuổi 9 tháng thì điểm phát âm giữ nguyên. Các trị số p
lần lượt là:0.179, 0.076, 0.785 và 0.540, tất cả đều là những sự khác biệt không có ý nghĩa.
So sánh giứa TN trước và sau 3 tháng tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi thì điểm số phát âm có tăng với các
21
trị số p lần lượt là:.0.000, 0.001,0.003 và 0.000. và đều thể hiện các sự khác biệt có ý nghĩa rõ rệt. Như vậy, các biện
pháp thực nghiệm mang bản chất tương tác mẫu tính có sự cải thiện rõ rệt về mặt phát âm cho trẻ ở nhóm TN.
Về mặt ngữ pháp
So sánh nhóm ĐC trước và sau 3 tháng không tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi, ta thấy điểm
ngữ pháp của nhóm ĐC 1 giữ nguyên, ĐC 2 và 3 giảm nhẹ và ĐC 4 tăng nhẹ. Như vậy, điểm số ngữ
pháp của nhóm ĐC khi không nhận được tác động thực nghiệm có biểu hiện tăng giảm không ổn định.
Trị số p của 4 độ tuổi ở nhóm ĐC lần lượt là 0.058, 0.025, 0.840 và 0.255. Riêng trị số p của nhóm ĐC
2 không phải biểu diễn sự khác biệt có ý nghĩa của sự tăng trưởng về ngữ pháp mà biểu diễn sự khác
biệt có ý nghĩa của sự giảm điểm về ngữ pháp sau 3 tháng không thực nghiệm tác động. Đây cũng là
những biểu hiện bình thường của giai đoạn hoán chuyển từ giao tiếp phi ngôn ngữ sang giai đoạn giao
tiếp ngôn ngữ.
So sánh giứa TN trước và sau 3 tháng tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi thì điểm số ngữ pháp có
tăng với các trị số p lần lượt là:0.000, 0.000, 0.015 và 0.000 đều thể hiện những sự khác biệt có ý nghĩa ở
mức độ cao. Các biện pháp tương tác mẫu tính đã góp phần duy trì sự ổn định ở mức độ cao trong sự phát
triển ngữ pháp của trẻ.
Về mặt giao tiếp
So sánh nhóm ĐC trước và sau 3 tháng không tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi, ta thấy
điểm ngữ pháp của nhóm ĐC 1, 3 tăng nhẹ, ĐC 2 và 4 giảm nhẹ. Các trị số p lần lượt là: 0.841,
0.014, 1.000 và 0.076 đều thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa. Như vậy, điểm số giao tiếp của
nhóm ĐC khi không nhận được tác động thực nghiệm có biểu hiện tăng giảm không ổn định. Đây
cũng là những biểu hiện bình thường của giai đoạn hoán chuyển từ giao tiếp phi ngôn ngữ sang giai

đoạn giao tiếp ngôn ngữ.
So sánh giứa TN trước và sau 3 tháng tác động thực nghiệm ở cả 4 độ tuổi thì điểm số giao tiếp có
tăng với các trị số p lần lượt là: 0.029, 0.000, 0.000 và 0.000, đều là là sự khác biệt có ý nghĩa rõ rệt. Có thể
thấy, về phương diện giao tiếp, các biện pháp tương tác mẫu tính đã thể hiện hiệu quả tác động rõ rệt lên
nhóm TN để duy trì sự phát triển cao, ổn định trong khi đó nhóm ĐC lại không duy trì được sự phát triển cao
và ổn định tương tự như vậy.
Có thể thấy sự thay đổi của nhóm TN sau tác động thực nghiệm xét theo 4 lĩnh vực từ vựng,
phát âm, ngữ pháp và giao tiếp, lĩnh vực giao tiếp, ngữ pháp và ngữ âm có sự khác biệt có ý nghĩa rõ rệt
hơn cả (tham khảo các trị số p ở các bảng 16 – bảng 20). Mặt khác, nhờ vào các biện pháp thực nghiệm
tương tác mẫu tính được tiến hành đồng bộ, tích cực nên góp phần duy trì sự ổn định trong sự phát triển
ngôn ngữ và giao tiếp của nhóm TN, trong khi đó nhóm ĐC sau 3 tháng không tác động, các lĩnh vực có
sự tăng, giảm không đều, trước cao, sau lại thấp đi, bộc lộ nét không ổn định trong quá trình phát triển
ngôn ngữ ở giai đoạn đầu của trẻ mầm non.
Quan sát tổng thể bảng 20, ta thấy trong các nội dung từ vựng, phát âm, ngữ pháp, giao tiếp, thì
nhóm ĐC và TN trước thực nghiệm đều không có sự khác biệt có ý nghĩa với trị số p lần lượt là 0.791,
0.872, 0.990, 0.806. Trong khi đó, khi so sánh nhóm ĐC và TN sau tác động thực nghiệm thì các nội
dung phát âm, ngữ pháp và giao tiếp đều có sự khác biệt có ý nghĩa với trị số p lần lượt là 0.031, 0.032,
và 0.031; chỉ riêng trị số p = 0.107của nội dung từ vựng ở nhóm TN là không có sự khác biệt có ý nghĩa
trước và sau TN. Điều này có thể giải thích như sau, tăng trưởng về mặt từ vựng là ưu thế của độ tuổi
này, còn các mặt phát âm, ngữ pháp và giao tiếp thì không phải là ưu thế. Từ vựng dù là ở nhóm ĐC hay
nhóm TN, trước và sau TN đều duy trì sự phát triển khác biệt so với 3 tháng trước. Chỉ có các phương
22
diện khác như phát âm, ngữ pháp, giao tiếp là phát triển chậm và thiếu ổn định hơn. Tuy nhiên nhờ tác
động thực nghiệm mang bản chất tương tác mẫu tính, nên những mặt vừa kể trên được thúc đẩy và phát
triển ở nhóm TN, nên tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa.
Trên đây là những nhận xét được rút ra từ việc định lượng. Tuy nhiên trong quá trình thực
nghiệm, còn có thể nhận thấy một vài điểm được rút ra từ những quan sát mang tính định tính.
Trước hết là qua quan sát việc đánh giá năng lực phát âm của trẻ, ta thấy trẻ bị ngọng hầu hết
các bộ phận của âm tiết tiếng Việt như bộ phận âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Ví
dụ trẻ phát âm “Cua” thành “Cu”, “khỉ” thành “hị”. Cũng có trẻ chưa phân biệt rõ nét âm /a/ và /ă/, nên

phát âm nhầm lẫn âm tiết “tai” và “tay”, hoặc nhầm lẫn nguyên âm đôi thành nguyên âm đơn, chẳng hạn
“Thìa”(/ie/) thành “thì” (/i/) Có những mẫu ngữ liệu là 2 âm tiết, nhưng khi phát âm, trẻ chỉ phát âm
được 1 âm tiết, ví dụ như “con cá” thành “cá”, “Quả bóng” thành “bóng”, “bông hoa” chỉ là “hoa”.
Về mặt từ vựng, chúng tôi sử dụng bộ tranh lô tô có hình ảnh sự vật tham chiếu nghĩa với từ mà
chúng tôi dự định kiểm tra xem trẻ có hiểu nghĩa và phát ra được các từ đó hay không. Nhưng trong
thực tế kiểm tra, đối với những trẻ tháng tuổi càng nhỏ, thì việc nhìn tranh vẽ để trắc nghiệm khả năng
hiểu nghĩa từ là một việc làm ít đạt hiệu quả. Vì ở giai đoạn này, trẻ có thể hiểu từ nhưng chỉ ở mức độ
biểu vật và biểu niệm hạn hẹp, gắn với những sự vật, những con người mà trẻ thực sự có mối liên hệ
hàng ngày, còn những sự vật, hiện tượng trong tranh vẽ có thể vẽ về một sự vật, hiện tượng cùng loại
nhưng trẻ vẫn không xem đó là nghĩa của từ mà trẻ phần nào đã hiểu nghĩa. Đây là hiện tượng tham
chiếu nghĩa hẹp mà chúng tôi đã có lần bàn tới ở các phần trước của luận án. Với những trường hợp từ
chối sự vật và hiện tượng tham chiếu nghĩa ở trong tranh, chúng tôi buộc phải sử dụng sự vật, con người
thật gắn bó với trẻ để thay thế và chấp nhận mức độ hiểu nghĩa theo phạm vi hẹp của những trẻ đó.
Quan sát quá trình tích lũy và phát triển vốn từ của nhóm trẻ TN so với nhóm trẻ ĐC, chúng tôi nhận thấy trẻ
TN có lẽ được tương tác với người lớn nhiều thông qua các biện pháp thực nghiệm nên có cơ hội phát triển
về các từ phản ánh sự vật, hiện tượng phong phú hơn và không nhất thiết phải thân thuộc trong đời sống
hàng ngày của trẻ như các từ “voi”, “cua”, “khỉ”, “mưa”, “nắng”. Bên cạnh đó, trẻ TN còn phát triển được
các từ có nội dung phản sánh sự vật khái quát như “cây xanh”, “quả”, “hoa” Những từ có hình thức ngữ âm
khó như “giường”, “Khăn”, “nắng”, “quạt”, “quần” cũng được trẻ ở nhóm TN có xu hướng tích lũy nhiều
hơn nhóm ĐC.
Mặt khác, về mặt ngữ pháp, trẻ TN cũng có sự nổi trội hơn trẻ ĐC sau quá trình TN ở các nội
dung liên quan tới các nội dung liên quan tới việc hiểu và sử dụng câu hỏi với từ ai/cái gì và xuất hiện
một số ít những hư từ như nữa, rồi, cũng. Mặt khác tác động thực nghiệm cũng làm cho độ dài trung
bình câu của nhóm TN (chủ yếu là nhóm TN 4) tăng lên.
Về phương diện giao tiếp, nhóm trẻ TN cũng có những sự khác biệt đáng kể so với nhóm ĐC,
đặc biệt ở các nội dung về khả năng phản hồi và trả lời tương ứng với các phát ngôn, câu hỏi của người
lớn trong tình huống quen thuộc; trẻ chủ động biết lôi kéo và định hướng người lớn vào vật, việc mà trẻ
chú ý. Mặt khác trẻ TN còn phát huy được khả năng tích cực hưởng ứng chủ đề giao tiếp nên thường
duy trì được độ dài tương tác với số lượng lượt lời 2-3 lượt lời, thậm chí có trẻ lên tới 4-5 lượt lời. Vì
luôn tích cực, chủ động trong giao tiếp nên trẻ TN thường có biểu hiện rõ rệt trong khả năng lựa chọn

chủ đề với đặc điểm nổi bật là có chủ đề yêu thích trong một giai đoạn nhất định.
23
3.3.4 Đánh giá chung về kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm tác động chứng tỏ giả thuyết của luận án là đúng. Năng lực ngôn ngữ và giao
tiếp của trẻ 9- 18 tháng tuổi được cải thiện rõ rệt khi có tác động của các biện pháp thực nghiệm liên quan
đến việc thay đổi phụ huynh trong quá trình tương tác mẫu tính cùng trẻ nhỏ. Kết quả ngôn ngữ và giao
tiếp của các trẻ trong nhóm đối chứng, sau 3 tháng, thì hầu như không có sự phát triển đáng kể nào so với
kết quả ngôn ngữ và giao tiếp đầu vào. Trong khi đó, trẻ ở nhóm thực nghiệm, sau 3 tháng thực nghiệm
tác động đã có sự phát triển khác biệt cả về từ vựng, phát âm, ngữ pháp cũng như có những biểu hiện đầy
đủ, phong phú trong kỹ năng tương tác với người lớn trong các tình huống giao tiếp thử nghiệm.
Tiểu kết chương 3
Quá trình thực nghiệm là sự kiểm chứng tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã được đề xuất,
tính khả thi của các biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ cụ thể qua các cách thức tiếp cận và khơi dậy ngôn
ngữ của trẻ nhỏ. Kết quả thực nghiệm đã khẳng định hướng đi đúng đắn cũng như tính khoa học, khả thi
của quá trình nghiên cứu vấn đề “Sự tương tác mẫu tính ảnh hưởng tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
nhỏ từ giai đoạn tiền ngôn ngữ sang giai đầu của sự phát triển ngôn ngữ ”
KẾT LUẬN
KẾT LUẬN
1.1 Nghiên cứu lý luận cho thấy, tương tác mẫu tính là một hoạt động chủ đạo trong suốt những
năm đầu đời của trẻ, giúp kiến tạo những nền tảng tâm lý để phát triển nhân cách trẻ. Trong đó, thông
qua tương tác mẫu tính, đặc biệt là tương tác mẫu tính trong giai đoạn 2 năm đầu đời của trẻ, các bậc
cha mẹ nói riêng và người lớn nói chung có thể hỗ trợ hiệu quả quá trình phát triển ngôn ngữ và giao
tiếp tuổi mầm non.
Một số biện pháp thể hiện bản chất tương tác mẫu tính có tác dụng hỗ trợ phát triển ngôn ngữ và
giao tiếp cũng được đề xuất. Trên cơ sở kết quả khảo sát cũng như dựa vào các nguyên tắc đề xuất biện
pháp phát triển ngôn ngữ và giao tiếp thông qua tương tác mẫu tính, chúng tôi đã đề xuất được 5 biện
pháp sau: 1. Sử dụng hát ru; 2. Tăng cường sử dụng ngôn ngữ baby talk (Child-directed speech) khi
tương tác với trẻ nhỏ trong giai đoạn tiền ngôn ngữ; 3. Tăng cường phản hồi bằng lời trước sự chú ý của
trẻ; 4. Sử dụng vật trung gian trong quá trình tương tác với con; 5. Tổ chức các góc giao tiếp mẹ - bé
trong không gian gia đình;6. Thực hiện các hoạt động tương tác luân phiên.

1.2 Nghiên cứu và khảo sát thực trạng tương tác mẫu tính nhằm phát triển ngôn ngữ và giao tiếp
tuổi mầm non ở các gia đình cho thấy, nhìn chung, phụ huynh cũng thể hiện tương đối đầy đủ năng lực
cũng như kỹ năng tương tác mẫu tính nhưng vẫn còn một số hạn chế.
1.3 Chương trình thực nghiệm nâng cao năng lực và kỹ năng tương tác mẫu tính giúp trẻ 9-18
tháng tuổi phát huy một cách hiệu quả tiềm năng phát triển ngôn ngữ và giao tiếp được thực hiện bằng
các biện pháp đồng bộ và tích cực: nâng cao nhận thức về Sự gắn bó mẫu tử, về tương tác mẫu tính, về
sự phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non cũng như về sự ảnh hưởng của tương tác mẫu tính đến sự phát
triển ngôn ngữ và giao tiếp của lứa tuổi này; thay đổi thói quen và hành vi tương tác mẫu tính đã đem lại
những thay đổi mạnh mẽ trong tất cả những biểu hiện của sự phát triển ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ
thuộc nhóm TN.
Có thể thấy, kết quả nghiên cứu của luận án đã khẳng định được giả thuyết nghiên cứu và giải
quyết được các nhiệm vụ mà nghiên cứu đã đề ra.
24
ĐỀ XUẤT
2.1.Đề xuất về các điều kiện khách quan
Nghiên cứu cho thấy hạn chế trong một số yếu tố khách quan ảnh hưởng tới quá trình tương tác
mẫu tính trong quá trình hình thành phát triển nhân cách trẻ nói chung và ngôn ngữ, giao tiếp tuổi mầm
non nói riêng. Vì vậy chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất sau:
a.Đối với các cơ quan chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em, các tổ chức liên quan tới phụ nữ
Các cơ quan chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em cần có những nghiên cứu nghiêm túc, cụ thể các
tài liệu lý thuyết mới về sự gắn bó mẫu tử, về quá trình tương tác mẫu tính trong và ngoài nước và tổ
chức được các lớp tập huấn cho các bà mẹ về các cách thức tương tác mẫu tính thông minh hơn để con
trẻ của chúng ta có một tuổi thơ hạnh phúc, tự tin, độc lập và sáng tạo trong các tình huống cuộc sống.
b.Đối với các phương tiện truyền thông như truyền hình, báo chí
Đây cũng là một kênh thông tin thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Do vậy nếu được
định hướng tốt, những nội dung thông tin về tương tác mẫu tính trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ sẽ
được đăng tải có hệ thống trên các kênh truyền hình cũng như các tờ báo, tạp chí gắn liên quan tới phụ
nữ và trẻ em.
2.2 Đề xuất tiếp tục phát huy những điểm mạnh trong quá trình tương tác mẫu tính của các
bà mẹ Việt

a.Đối với các cơ quan chăm sóc và bảo vệ bà mẹ trẻ em, các tổ chức liên quan tới phụ nữ
Cần tiếp tục duy trì những nội dung tương tác mẫu tính truyền thống như hát ru đã mang lại
hiệu quả cho quá trình tương tác mẫu tính nhằm phát triển tình cảm, thể chất, cũng như ngôn ngữ cho trẻ
sơ sinh. Bên cạnh đó cũng cần tiếp tục duy trì giáo dục năng lực tương tác mẫu tính theo phương pháp
lưu truyền thế hệ từ bà sang mẹ, từ mẹ sang con gái. Bởi lẽ, từ xưa tới nay gia đình vẫn là cái nôi đầu
tiên “đào tạo” bà mẹ cho xã hội con người nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng. Nhất là khi, ở
trường phổ thông, đại học Việt Nam chưa hề có một khóa học trong chương trình cũng như ngoại khóa
giúp các trẻ em gái hình thành năng lực và kỹ năng tương tác mẫu tính một cách khoa học.
b.Đối với các phương tiện truyền thông như truyền hình, báo chí
Cần tiếp tục củng cố các nội dung tương tác mẫu tính truyền thống có tác động tích cực đến phát
triển nhân cách nói chung và ngôn ngữ, giao tiếp nói riêng của trẻ mầm non. Những thói quen tương tác
mẫu tính truyền thống sẽ là nền tảng để giúp các bà mẹ có cơ hội hấp thụ những quan điểm giáo dục trẻ
em hiện đại, góp phần tạo nên một thế hệ tương lai vừa thuần Việt vừa năng động, hiện đại để hội nhập
toàn cầu.
2.3 Đề xuất về ứng dụng tương tác mẫu tính trong giáo dục mầm non ở học đường
Đặt vấn đề tìm hiểu sự tương tác mẫu tính có tác động như thế nào đối với sự phát triển ngôn
ngữ trẻ nhỏ là một hướng đi mới về lý luận và ứng dụng vào thực tiễn đời sống văn hóa và đổi mới
phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã có
những đề xuất tới các cơ sở đào tạo GVMN ở Việt Nam một số điều nên lưu ý trong quá trình xây dựng
chương trình đào tạo, về nội dung, phương pháp cũng như đội ngũ giảng viên.

×