Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bàn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức oda

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.34 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI: BÀN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
ODA
MỞ ĐẦU
Chương I: Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
1.1. Khái niệm chung về ODA
1.1.1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu
đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc,
các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB ) giành cho các
nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản
viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu
ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự
chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ
bên ngoài. ODA có các hình thức sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán ,tín dụng thương mại ,viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án )
chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng,hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc
tăng cường cơ sở lập kế hoạch.
1.1.2. Phân loại vốn ODA
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODAđược xem có mấy loại:
a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.
- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để
bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và mục
đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)


- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín
dụng thương mại theo các điều kiện của tổchức Hợp tác kinh tế và phát triển.
b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định
được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1 ) hay tổ chức khu vực
(ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ của một nước nào đó,
nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc) có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
c. Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại:
-Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ, thường
được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu
(viện trợ hàng hoá).
-Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều kiện ràng buộc.
-Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ kế hiệp định cho một
mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế
nào.
-Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA.
Điều kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các
hạng mục sẽ sử dụng ODA".
1.1.3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu
* Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và các tổ chức viện
trợ song phương.
* Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF),

Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO), Chương trình lương thực thế giới (WFP), Quĩ dân số
Liên Hiệp Quốc (UNFPA),Tổ chức y tế thế giới (WHO), Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên
Hiệp Quốc (UNIDO), Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
- Các tổ chức tài chính quốc tế:
Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
- Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
- Quĩ Cô - Oét.
* Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD).
- Các nước đang phát triển.
1.4. Quy trình thực hiện dự án ODA.
Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành nguồn vốn này. Dưới
đây là một số nội dung về quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến các vấn đề xung quanh các
hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
1. Quy hoạch ODA.
Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch tổng thể và kế
hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính
phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy hoạch
ODA và lập các danh mục chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODa trình Chính phủ phê duyệt.
2. Vận động ODA.
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử dụng ODA được Chính
phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt
động vận động ODA thông qua:
- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm.
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành.
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ.
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải trao đổi ý kiến với

Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của các nhà tài trợ liên quan.
3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA.
Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương trình, dự án cụ thể, Bộ Kế
hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án
ODA bao gồm lập đềán, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi
4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA.
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản
hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh vực này).
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế Bộ Kế hoạch - Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định. Trong quá trình thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của các bên cung cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số80/CT ngày 28/3/1991 của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ).
5. Đàm phán ký kết.
Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch -
Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng
nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan tiến hành đàm phán với bên nước ngoài. Trong trường
hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủtrì đàm phán với các bên nước ngoài thì cơ
quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế hoạch - Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài
chính về hạn mức và điều kiện vay trả (nếu là ODA hoàn lại). Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các
thoả thuận với bên nước ngoài thì cơ quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội
dung làm việc, kết quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan. Nếu văn bản ODA ký với bên
nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được
Thủ tướng Chính phủ chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự
định ký kết và các đề xuất người thay mặt Chính phủ ký các văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng
Chính phủ phải kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trường hợp cơ
quan khác trình Thủtướng Chính phủ), Bộ ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính. Trong trường hợp
Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác vềODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà
nước Công hoà xã hội chủnghĩa Việt Nam, Bộ Kế hoạch - Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ

chỉđịnh đàm phán) phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên
nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định ký kết,đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tại điều
6 khoản 3, điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ.
6. Quản lý thực hiện.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lập kế
hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách nhà nước và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết
tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và các quyết định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử
dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề
liên quan thuộc thẩm quyền trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và
quyết định các biện pháp xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng
vốn ODA. Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho "người vay" hoặc là Nhà nước hoặc
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều ước quốc tế cụ thể về ODA cho
vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp phát,
cho vay lại, thu hồi vốn ) đối với các chương trình, dự án ODA. Trong quá trình thực hiện, Ngân
hàng nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ
quyền thực hiện việc cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm điều khoản 3 điều 14 của Quy chế
về quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị định 87/CP ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu
hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài chính và cơ quan
liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán thông qua hệ thống tài khoản được mở tại ngân
hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA. Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án
ODA tùy theo quy định và thoả thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm
tổchức các cuộc kiểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
ngoại giao, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại các
cuộc kiểm điểm này. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các
chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng và hàng năm về tình hình thực hiện các chương trình và
dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại
giao, và Văn phòng Chính phủ.
7. Đánh giá.
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về tình hình thực hiện và có
phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch -

Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, và Văn phòng Chính phủ.
1.2. Đặc điểm và vai trò của vốn ODA
1.2.1 Đặc điểm của vốn ODA
Thứ nhất, tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi.
Hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại
đóng góp cho các tổ chức này. Đó là nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển dịch, tỉ trọng ODA song
phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi.
- Thứ hai, Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA. Trên thế giới, một số
nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra từ các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu
cầu lớn về vốn ODA. Số nước có nhu cầu tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các
nước ngày càng trở nên gay gắt.
- Thứ ba, sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng đều. Nguyên nhân
tạo nên sự khác biệt như vậy có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như mở rộng
quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ
quan của nhà tài trợ. Mặt khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những khác
biệt lớn trong quá trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các nước phát triển, hay những thành
tích trong phát triển đất nước hay cũng có thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai

- Thứ tư, Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan. Hiện nay các nước phát triển đang
có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như khủng hoảng nền kinh tế hay hàng
loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết
các vấn đề trong nước.
1.2.2 Vai trò của vốn ODA
ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa hai bên cung cấp và bên tiếp nhận. Tuy vậy, đối với mỗi
bên nó sẽ mang một ý nghĩa khác nhau.
a. Đối với nước xuất khẩu vốn.
Viện trợ song phương tạo điều kiện cho các công ty của bên cung cấp hoạt động thuận lợi hơn tại các
nước nhận viện trợ một cách gián tiếp. Cùng với sự gia tăng của vốn ODA, các dự án đầu tư của
những nước viện trợ cũng tăng theo với những điều kiện thuận lợi, đồng thời kéo theo sự gia tăng về
buôn bán giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về chính trị, ảnh

hưởng của họ về mặt kinh tế - văn hoá đối với nước nhận cũng sẽ tăng lên. Nguồn ODA đa phương
mặc dù cũng có ưu điểm giúp các nước tiếp nhận khôi phục và phát triển kinh tế, nhưng nó cũng có
mặt tiêu cực ở chỗ dễ tạo ra nạn tham nhũng trong các quan chức Chính phủ hoặc phân phối giàu
nghèo trong các tầng lớp dân chúng nếu không có những chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ
việc sử dụng nguồn vốn này trong nước. Điều nguy hiểm nhất có thể xảy ra của viện trợ ODA là các
nước cung cấp không nhằm cải tạo nền kinh tế - xã hội của nước đang phát triển mà nhằm vào các
mục đích quân sự.
b. Đối với các nước tiếp nhận:
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều
này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận ODA đã đạt được. Đầu tiên, trong
khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng nên thông qua ODA
song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn
lực cho đất nước.Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển
nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo
điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển. Tạo điều kiện để các nước
tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự
giúp đỡ của ODA. ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có thể
phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ chức tài chính quốc tế
mang lại. ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát
triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế. ODA tác
động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các
thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch,
bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước
có thêm vốn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui
mô doanh nghiệp. Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc
thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát triển. Thông
qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức
tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này. Bên cạnh những mặt tích
cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức

ODA là các nước nếu muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ.
Mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều. Ngay ở trong một nước, tình trạng tập
trung ODA vào các thành phốtrọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của
quốcgia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt. Cho đến
nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo
đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên
truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới
thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế
để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) giữ một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của các nước đang và kém phát triển. Tuy nhiên, để thu hút và sử dụng ODA có hiệu
quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó có 5 nhân tố chủ yếu sau:
A. Nguồn cung cấp ODA
Hiện nay, trên thế giới có 2 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: các nhà tài trợ song phương (các nước
thành viên của Ủy ban Hỗ trợ Phát triển – DAC, Trung – Đông Âu, một số nước Ả Rập và một số
nước công nghiệp mới), các tổ chức tài trợ đa phương (chủ yếu WB, ADB, FDB, IMF), ngoài ra còn
có các khoản tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong số các nguồn này thì ODA từ các
nước thành viên của DAC là lớn nhất. Hàng năm, dòng vốn này trung bình đạt khoảng 50.000 triệu
USD, năm 1996 đạt 55.438 triệu USD, năm 1997 đạt 47.580 triệu USD, năm 1998 đạt 51.521 triệu
USD, năm 1999 đạt 56.526 triệu USD, năm 2000 đạt 53.700 triệu USD và lượng vốn này chiếm một
tỷ lệ đáng kể là từ GNP của các nước DAC.
Tuy nhiên, theo tính toán của UNDP, để thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, mỗi năm toàn thế
giới cần 96 – 116 tỷ USD. So với con số hỗ trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát
triển hiện nay là 54 tỷ USD thì khoản hỗ trợ này cần tăng gấp đôi và chiếm 0,5% GDP của các nước
thuộc DAC của OECD. Hiện tại, trong số 22 nước thành viên của DAC có tới 17 nước dành dưới
0,5% GDP cho viện trợ nước ngoài, 11 nước dành dưới 0,3% GDP.
Nhìn chung, trong những năm gần đây, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Song tại Hội nghị quốc tế về
tài trợ phát triển của UN diễn ra vào tháng 3/2002 tại Môngtơrây (Mehico) cho thấy, xu hướng này sẽ
thay đổi, một số nước đã cam kết mới về hỗ trợ, tổng ODA tính theo giá trị thực tế sẽ tăng thêm

khoảng 15 tỷ USD vào năm 2006. Trong đó, Mỹ tuyên bố trong 3 năm tài chính (2003 – 2005) sẽ tăng
dần viện trợ để từ năm thứ 3 trở đi, mỗi năm Mỹ sẽ dành thêm 5 tỷ USD cho viện trợ nước ngoài
(tăng 50% so với năm 2002), đưa tổng viện trợ nước ngoài của Mỹ lên 0,15% GNP. Các nước EU
cũng tuyên bố đến năm 2006 viện trợ nước ngoài sẽ chiếm 0,39% GNP. Như vậy, mỗi năm chi viện
cho viện trợ nước ngoài của EU sẽ tăng thêm 7 tỷ USD. Tại Hội nghị cao cấp các nước G8 (2005) đã
cam kết sẽ tăng gấp đôi giá trị các khoản viện trợ cho các nước nghèo và các nước đang phát triển từ
nay đến năm 2010. Nếu cam kết này được tuân thủ, các nước thế giới thứ ba sẽ nhận được một khoản
viện trợ khoảng 50 tỷ USD hàng năm, trong đó 50% sẽ được viện trợ cho các nước ở châu Phi.
b. Mục tiêu cung cấp ODA của các nhà tài trợ:
Mục tiêu về kinh tế
Nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế, ODA được sử dụng như là một trong những cầu nối để đưa ảnh
hưởng của nước cung cấp tới các nước đang phát triển. ODA được dùng để thiết lập các mối quan hệ
ngoại giao, kinh tế với các nước tiếp nhận. Mặt khác, trên một giác độ nhất định, các nước cung còn
sử dụng ODA để xuất khẩu tư bản, từ việc tạo ra các món nợ lớn dần cho đến việc các nước tiếp nhận
ODA phải sử dụng chuyên gia của họ, mua vật tư, thiết bị của họ với giá đắt, thậm chí cả các điều
kiện đấu thầu, giải ngân được đưa ra cũng là để làm sao với lãi suất thấp, có ưu đãi nhưng mà họ vẫn
đạt được các mục đích khác nhau một cách hiệu quả nhất.
Thực tế cho thấy, đi kèm với nguồn vốn ODA di chuyển từ các nước DAC tới các nước kém phát
triển (LDC) là dòng vốn đầu tư của tư nhân. Lượng vốn đầu tư tư nhân đi kèm gấp hơn 5 lần lượng
vốn ODA và trong đó có phần không nhỏ của việc di chuyển ODA ban đầu. Khi các nước LDC đã
tiếp nhận ODA thì có thể chấp nhận dễ dàng hơn các điều kiện cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
vào đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp; hệ thống cơ chế chính sách đảm bảo quyền lợi, lợi ích, nghĩa vụ
của các nhà đầu tư trong và ngoài nước từng bước được hình thành, trong đó chú ý tới việc tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư của các nước cung cấp ODA tham gia vào những lĩnh vực đầu tư có khả năng
sinh lời cao.
Ngoài ra, vốn ODA còn là phương tiện để giúp các nước cung cấp viện trợ thâm nhập thị trường các
nước đang phát triển một cách dễ dàng hơn và hàng hóa của nước ngoài có thể vào thị trường trong
nước thông qua việc nước tiếp nhận ODA có những thay đổi trong chính sách nhập khẩu. Như vậy,
khả năng cạnh tranh và xâm chiếm thị trường của hàng hóa các nước cung cấp ODA so với hàng hóa
trong nước tăng lên. Mặt khác, ODA được cung cấp không hoàn toàn bằng tiền mà bao gồm cả hàng

hóa, thiết bị, máy móc do nước cung cấp sản xuất ra được quy đổi thành tiền; nghĩa là, ODA bao hàm
cả việc tạo ra môi trường cho các thị trường xuất khẩu.
ODA còn tạo ra sự ổn định về nguồn cung cấp nguyên, nhiên vật liệu cho các nước cung cấp ODA.
Thực tế cho thấy, các nước cung cấp ODA phụ thuộc vào các nước LCD về năng lượng (dầu lửa,
than, chất đốt), các nguyên liệu, khoáng sản và ODA trở thành phương tiện để các nước này giải
quyết được sự thiếu hụt các nguồn lực trên.
Có thể nói, mục tiêu kinh tế của các nước cung cấp ODA là khá rõ ràng, mục tiêu này trong mỗi giai
đoạn có thể khác nhau nên tiêu chí cung cấp ODA khác nhau. Tuy nhiên, những nước thiếu vốn, lạc
hậu về công nghệ và kinh nghiệm quản lý để tạo lập các tiền đề phát triển, các nước đang và chậm
phát triển vẫn cần nhận được sự hỗ trợ của các nước phát triển thông qua ODA, nhưng vấn đề mà các
nước tiếp nhận ODA cần quan tâm là biết sàng lọc để có được các nguồn vốn này và sử dụng cóhiệu
quả kinh tế cao nhất.
Mục tiêu chính trị
ODA không phải là sự giúp đỡ “hào hiệp, vô tư”, giúp xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và đáp
ứng các yêu cầu cơ bản nhất của con người ở các nước nhận viện trợ mà ODA được sử dụng như là
công cụ chính trị của các nước phát triển. Ví như Mỹ viện trợ cho nước ngoài được coi là “những
công cụ quan trọng thúc đẩy các mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Mỹ” và “viện trợ là một bộ
phận quan trọng của vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ”. Điều này lý giải tại sao ngày nay cơ quan viện
trợ phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) đang giảm sự tập trung trước đây vào vấn đề tăng trưởng kinh
tế và đang xúc tiến cải tổ cơ cấu.
Như vậy, ngoài tính chất trục lợi thì những toan tính chính trị cũng là tiêu chí cung cấp ODA của các
nhà tài trợ. Bởi vậy, việc tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả ODA là cả một vấn đề phức tạp, đã và
đang làm đau đầu các nhà lãnh đạo của các nước tiếp nhận ODA, tỏng đó có Việt Nam.
Mục tiêu nhân đạo
Trong các mục tiêu cung cấp ODA của các nhà tài trợ, mục tiêu vì các chương trình, dự án xóa đói,
giảm nghèo, y tế, giáo dục, bảo đảm bền vững về môi trường là một phần quan trọng của viện trợ.
Mục tiêu này được thể hiện khá đậm nét trong các chương trình viện trợ của Thụy Điển – một quốc
gia được đánh giá là có nguồn viện trợ mang ý tưởng nhân đạo tiến bộ đã góp phần không nhỏ vào
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các nước thế giới thứ ba. Bằng các chương trình hợp tác
và phát triển, viện trợ của Thụy Điển đã giúp Chính phủ các nước tiếp nhận viện trợ lựa chọn những

ưu tiên cần thiết trong việc thiết lập các thể chế tại chỗ và phát huy năng lực tại chỗ của các quốc gia
này. Đồng thời, viện trợ Thụy Điển cũng ủng hộ các cuộc cải cách thị trường và phát huy năng lực
nhà nước sở tại.
Với ý nghĩa đó, các chương trình ODA của Thụy Điển thường được hướng vào giải quyết các vấn đề
như: giảm nghèo, giới, môi trường và phát triển bền vững, dân chủ và nhân quyền; trong đó hướng tới
4 mục tiêu là tăng trưởng các nguồn lực, công bằng về kinh tế - xã hội, độc lập về kinh tế và chính trị,
phát triển dân chủ.
Một quốc gia khác được xếp vào diện những nhà tài trợ lớn của thế giới và cũng là nước luôn coi
trọng mục tiêu phát triển kinh tế đó là Nhật Bản. Trong các mục tiêu cung cấp ODA của nước này,
yếu tố nhân đạo cũng được thể hiện tương đối rõ nét, cụ thể: Bảo vệ môi trường và phát triển sẽ được
tôn trọng như nhau; không sử dụng ODA vào mục đích quân sự hoặc không làm trầm trọng thêm
những đối đầu quốc tế; nhằm duy trì và củng cố nền hòa bình và phát triển ổn định nền kinh tế - xã
hội của các nước nhận viện trợ; thúc đẩy dân chủ hóa bước đầu đi vào kinh tế thị trường, đảm bảo
quyền tự do và nhân quyền.
Trên bình diện quốc tế, ngay từ năm 1969 các tổ chức DAC và OECD đã xác định mục tiêu của các
nước này là dành 0,7% GDP của nước mình cho viện trợ phát triển ở nước ngoài. Đến năm 1992 tại
Hội nghị thượng đỉnh Rio De Zannezo một công ước quốc tế đã được thông qua, theo đó viện trợ cho
các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba cần phải chiếm ít nhất 0,7% tổng sản phẩm xã hội GDP của các
quốc gia công nghiệp phát triển.
Có thể nói, mặc dù các mục tiêu đưa ra mới thực hiện được một phần nhưng đã thể hiện được tinh
thần nhân đạo và trách nhiệm của các nước phát triển đối với các nước đang và kém phát triển.
c. Thay đổi trong chương trình nghị sự và những cải cách trong chính sách cung cấp ODA của
các nhà tài trợ.
Hơn 60 năm qua, viện trợ nước ngoài đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển chung của nhân loại
nhất là đối với các nước đang và kém phát triển. Tuy nhiên, cùng với những biến đổi về môi trường
kinh tế, chính trị toàn cầu, dòng vốn ODA cũng đang có những biến đổi với nhiều sắc thái mới. Trong
đó có nhiều vấn đề thực tế phải đặt ra những câu hỏi khác nhau liên quan tới viện trợ, rằng có cần
thiết tồn tại viện trợ hay không khi mà chiến tranh lạnh đã kết thúc và dòng vốn tư nhân đổ vào các
nước đang phát triển tăng mạnh; chất lượng phát triển phụ thuộc vào chất lượng chính sách, thể chế và
dịch vụ công hơn là thiếu vốn và thực tế đã chỉ ra thế nào là viện trợ có hiệu quả và không hiệu quả.

Với những thay đổi trong chương trình nghị sự, chính sách cung cấp ODA của các nhà tài trợ cũng đã
được cải cách, theo đó việc cung cấp ODA sẽ được tiến hành dựa trên các tiêu thức:
Một là, viện trợ tài chính sẽ được chú trọng một cách rõ rệt hơn tới những nước có thu nhập thấp mà
có cơ chế quản lý kinh tế tốt.
Hai là, viện trợ được dành cho những nước có chiến lược cải cách cụ thể và có tính thuyết phục.
Ba là, hoạt động viện trợ sẽ được thiết kế trên cơ sở các điều kiện của các quốc gia và ngành.
Bốn là, các dự án được tập trung vào việc tạo ra và chuyển giao kiến thức và năng lực.
Năm là, do các phương pháp truyền thống đã trở nên bất lực nên các cơ quan viện trợ phải tìm ra được
những phương thức thay thế để hỗ trợ cho những quốc gia có nền kinh tế bị bóp méo nghiêm trọng
bởi thể chế và chính sách yếu kém.
d. Chiến lược phát triển và thể chế của nước tiếp nhận:
Hầu hết các nước tiếp nhận ODA thường sử dụng nguồn vốn này để đầu tư vào các dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, tạo môi trường hạ tầng tốt để tiếp
tục thu hút vốn đầu tư.
Tuy nhiên, một trong những điều kiện để có được ODA là mục tiêu sử dụng vốn của nước tiếp nhận
phải phù hợp với hướng ưu tiên trong mối quan hệ giữa bên cấp ODA và bên nhận ODA. Do đó, để
thu hút được ODA phục vụ cho các quy hoạch phát triển quốc gia, ngoài việc là nước nghèo thuộc
diện được nhận ODA (nếu không phải là đồng minh chiến lược), các nước này cần phải có một chiến
lược phát triển đất nước có những điểm tương đồng với các chính sách ưu tiên của các bên cung cấp
ODA. Đồng thời, có một thể chế nhà nước đủ mạnh để có khả năng tiếp nhận, quản lý và sử dụng
hiệu quả lượng ODA được cung cấp.
Qua nghiên cứu hiệu quả viện trợ cho thấy, thất bại trong hoạch định chính sách, xây dựng thể chế và
cung cấp các dịch vụ công đã trở thành rào cản đối với phát triển còn trầm trọng hơn so với việc thiếu
vốn, từ đó đã chỉ ra cho các nhà tài trợ thấy rằng viện trợ phát triển nên chú trọng chủ yếu vào hỗ trợ
cho việc cải tổ thể chế và chính sách phù hợp chứ không phải để cấp vốn (một trọng tâm của cải cách
chính sách viện trợ). Vì vậy, ngày nay chiến lược phát triển thể chế của nước tiếp nhận đang được coi
là một trong những nhân tố cạnh tranh có ảnh hưởng tới khả năng thu hút cũng như hiệu quả sử dụng
viện trợ.
e. Chất lượng và hiệu quả sử dụng ODA của nước tiếp nhận
Thực tế, ODA vẫn là vốn vay, mà đã vay thì phải trả cả gốc lẫn lãi. Vì thế, nếu sử dụng không hiệu

quả thì nợ nần là điều khó tránh khỏi. Do đó, việc thu hút ODA sẽ phải xem xét lại trong các chương
trình nghị sự của nước tiếp nhận không chỉ dưới giác độ chiến lược, thể chế mà cả trên giác độ chất
lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Vì ODA là một hình thức của xuất khẩu tư bản, nếu nước tiếp nhận sử dụng ODA không hiệu quả ở
bất kể phương diện nào cũng sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của các bên cung cấp và như vậy, cam kết
ODA của các nhà tài trợ sẽ được cân nhắc lại, điều đó đồng nghĩa với việc nước tiếp nhận sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hút nguồn vốn này để phục vụ các mục tiêu phát triển của mình.
Chương II: Những khó khăn và thuận lợi trong công tác huy động và tiếp nhận
ODA ở Việt Nam
2.1 Những thuận lợi trong công tác huy động và tiếp nhận nguồn vốn ODA ở Việt Nam
2.1.1 Trong công tác huy động
- Bối cảnh quốc tế tạo ra những quan điểm mới tích cực hơn về việc nước giàu hỗ trợ vốn cho phát
triển của các nước nghèo.
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nước diễn biến theo chiều hướng khả quan khiến các nhà
tài trợ tin tưởng vào sự đổi mới của Việt Nam, đó là một trong những điều kiện tiên quyết để giúp
chúng ta huy động vốn thuận lợi hơn.
2.1.2 Trong công tác tiếp nhận
Quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA đã diễn ra ở nhiều nơi trên thếgiới và cả ở Việt Nam từ
nhiều năm trước, giúp các nhà hoạch định chiến lược có thêm điều kiện nghiên cứu, rút ra những bài
học kinh nghiệm về thành công và vướng mắc khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA, từ đó kịp
thời điều chỉnh để có kế hoạch tiếp nhận sát thực và hữu hiệu hơn.
2.2. Những khó khăn trong quá trình huy động và sử dụng vốn ODA
2.2.1 Trong công tác huy động.
- Diễn biến nền kinh tế toàn cầu có những tác động xấu đến nguồn hỗ trợmà các nhà tài trợ dành cho
các nước nghèo.
- Quá trình lập kế hoạch để xin hỗ trợ ở Việt Nam đôi khi soạn thảo thiếu chi tiết, tính thuyết phục
chưa cao nên mức độ huy động không phù hợp với yêu cầu thực hiện nay ở Việt Nam.
- Cạnh tranh với các nước trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong khi Việt
Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc xin hỗ trợ nguồn vốn ODA.
2.2.2 Trong công tác tiếp nhận

- Mặc dù Việt Nam đã được nhận ODA từ những năm 50, nhưng chỉ bắt đầu từ năm 1993 nó mới thực
sự phát huy tác dụng, vì vậy chúng ta còn phải từng bước vừa làm vừa tự tìm ra lối đi thích hợp cho
mình, nền thời gian rút vốn thường bị kéo dài, tốc độ giải ngân chậm so với các nước khác trên thế
giới.
- Khó khăn trong việc tiếp nhận ODA một phần xuất phát từ bên cung cấp viện trợ:
+ Đôi khi nhà tài trợ đặt ra những yêu cầu rất chi tiết và chuẩn mực trong khi Việt Nam chưa có đủ
kinh nghiệm tiếp nhận và kĩ thuật cần thiết để đáp ứng những nhu cầu đó.
+ Thủ tục giải ngân do các nhà tài trợ đề ra khá phức tạp.
+ Một số dự án do các nhà tài trợ thiết kế không sát với tình hình thực tiễn ở Việt Nam nên phía Việt
Nam lại mất thời gian để điều chỉnh cho phù hợp hơn.
Chương III: Một kiến nghị về công tác huy động và sử dụng vốn ODA ở Việt
Nam
3.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu huy động vốn ODA của Việt Nam
3.1.1. Quan điểm
- ODA - chất xúc tác khơi thông vốn đầu tư
Sẽ có sự thay đổi đáng kể về đối tượng và cách thức sử dụng vốn ODA trong giai đoạn 2011-2015.
Đó là Việt Nam sẽ ưu tiên sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi cho các dự án quan trọng khó có khả
năng thu hút các nguồn vốn thương mại hoặc đầu tư tư nhân. Sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi như
chất xúc tác để khơi thông nguồn vốn đầu tư tư nhân thông qua mô hình hợp tác công - tư (PPP) hoặc
tạo sự lan tỏa thúc đẩy thương mại, đầu tư, chuyển dịch kinh tế của các vùng, các địa phương.
Có cơ chế để khu vực tư nhân có thể tiếp cận vốn ODA. Với cơ chế mới, đối tượng tiếp cận vốn ODA
sẽ được mở rộng, không phân biệt thành phần kinh tế và khi ấy, ODA sẽ giống như một nguồn “vốn
mồi” để khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư phát triển các dự án hạ tầng kinh tế và xã hội trong bối
cảnh nguồn vốn ngân sách và trái phiếu chính phủ giai đoạn tới sẽ được thu hẹp đáng kể.
Một định hướng thu hút và sử dụng vốn ODA trong giai đoạn tiếp theo là cần thiết, nhất là trong bối
cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình, do vậy, tính chất,
quy mô và các điều kiện cung cấp ODA cho Việt Nam sẽ có những thay đổi nhất định. Nhưng vấn đề
quan trọng không hẳn chỉ là thu hút được bao nhiêu và giải ngân thế nào, mà là làm sao để vốn ODA
phục vụ tốt hơn cho mục tiêu phát triển?
Theo Dự thảo Đề án Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay

ưu đãi khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011 - 2015, thì một trong những định hướng quan trọng trong
sử dụng vốn ODA giai đoạn tới là sẽ hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện
đại. Cụ thể, vốn ODA sẽ được dành để phát triển các tuyến đường cao tốc, các cảng biển, sân bay
quốc tế, một số tuyến đường sắt, hệ thống nguồn và truyền tải điện, nâng cấp và xây mới một số tuyến
đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị, kể cả metro ở một số thành phố lớn
Các lĩnh vực dự kiến ưu tiên thu hút và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ thời kỳ
2011-2015
Hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại;
Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, bao gồm y tế, giáo dục và đào tạo, an sinh xã hội;
Tăng cường nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng những yêu cầu phát
triển trong thời kỳ mới;
Phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo;
Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và thể chế đồng bộ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa;
Hỗ trợ bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; phát
triển bền vững và tăng trưởng xanh;
Hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, thương mại và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh;
Hỗ trợ theo địa bàn lãnh thổ.
+ Tiếp tục hoàn thiện khung chính sách cho ODA
Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần có những thay đổi phù hợp.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh kinh tế - chính trị toàn cầu đang có nhiều biến
động, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường kinh tế của các nhà tài trợ, cùng với việc Việt Nam trở
thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, dự kiến khối lượng và loại hình viện trợ dành cho
Việt Nam cũng sẽ thay đổi đáng kể. Thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006-2010 Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (MIC) và theo tập
quán tài trợ quốc tế, Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay.
Đồng thời, các khoản viện trợ không hoàn lại và hỗ trợ kỹ thuật có khuynh hướng giảm. Mặt khác nợ
công có xu hướng tăng lên (nợ Chính phủ ở mức 44,5% GDP trong năm 2010). Trong bối cảnh kinh
tế - chính trị toàn cầu có nhiều biến động, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường kinh tế của các nhà
tài trợ, cùng với việc Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, dự kiến khối

lượng và loại hình viện trợ dành cho Việt Nam cũng sẽ thay đổi đáng kể. Chính vì vậy, Việt Nam cần
có những chính sách nâng cao hiệu quả cho các khoản viện trợ ODA nhằm tận dụng triệt để những lợi
thế sẵn có.
Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra là cần phải có chính sách mới về thu hút và sử dụng ODA cũng như
các văn bản quy phạm pháp luật mới phù hợp với tính chất nguồn vốn ODA có nhiều thay đổi trong
thời gian sắp tới. Một hệ thống thể chế quản lý và sử dụng ODA được phát triển đồng bộ song hành
với đội ngũ cán bộ quản lý dự án được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp là cơ sở chắc chắn bảo đảm
việc quản lý và sử dụng ODA có hiệu quả và nhìn về lâu dài đây là một bài tập có giá trị để góp phần
hoàn thiện quản lý các nguồn vốn đầu tư công là một trong những trọng trách của Chính phủ.
Cùng với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và Kế hoạch 5 năm, việc hoàn thiện chính
sách, thể chế về ODA thông qua việc xây dựng Đề án Định hướng thu hút sử dụng, quản lý nguồn vốn
ODA và các khoản vay ưu đãi khác của nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015 cũng như nghiên cứu thay thế
Nghị định 131/2006/NĐ-CP về quản lý, sử dụng ODA là yêu cầu bức thiết. Để tối đa hóa các lợi ích
của các nguồn lực, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ KH-ĐT xây dựng đề án định hướng thu hút, sử dụng và
quản lý nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011 - 2015 (gọi tắt
là đề án ODA 2011 - 2015), đồng thời nghiên cứu thay thế Nghị định 131 về quản lý và sử dụng
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), trình Thủ tướng Chính phủ vào quý IV năm nay. Theo đó,
phạm vi của Đề án ODA 2011 - 2015 sẽ được mở rộng hơn so với Đề án ODA giai đoạn 2006 – 2010
theo hướng không chỉ bao gồm nguồn vốn ODA (viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi) mà bao gồm
cả các khoản vay kém ưu đãi của các nhà tài trợ. Để đảm bảo tính khả thi, Đề án ODA 2011 – 2015
được xây dựng theo hướng đảm bảo cân đối giữa “cung và cầu” về ODA và các khoản vay kém ưu
đãi của các nhà tài trợ trong 5 năm tới. Đối với nhu cầu, sẽ xác định các ngành, lĩnh vực ưu tiên, nhu
cầu sử dụng nguồn vốn theo nguyên tắc mang lại hiệu quả sử dụng cao nhất. Đối với nguồn cung, sẽ
phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ để xác định khả năng cung cấp các nguồn vay này và lĩnh vực
các nhà tài trợ quan tâm. Xác định Đề án là một phần không tách rời của Kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội 5 năm 2011 – 2015, nội dung Đề án cũng sẽ đưa ra các nguyên tắc về phân bổ các nguồn lực
sao cho hiệu quả nhất thông qua sự phân công lao động và bổ trợ dựa trên lợi thế so sánh giữa các
nguồn vốn (ODA, vay kém ưu đãi, INGO, đầu tư từ ngân sách nhà nước, đầu tư từ khu vực tư
nhân…).
Riêng đối với khu vực kinh tế tư nhân, Đề án sẽ tạo cơ chế, chính sách thuận lợi để khu vực này được

tiếp cận nguồn vốn ODA nhiều hơn, đặc biệt là thông qua hình thức hợp tác công – tư, để cùng chia sẻ
lợi ích và rủi ro với Chính phủ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ưu tiên. Bên
cạnh đó, các nguyên tắc, định hướng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và
sử dụng ODA trong thời kỳ phát triển mới cũng được quan tâm và đưa vào Đề án. Các nguyên tắc này
sẽ được thể hiện trong Nghị định thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP, cụ thể là: Mở rộng phạm vi
các khoản vay và tài trợ; Xác lập đầy đủ khuôn khổ thể chế và quản lý đối với các mô hình viện trợ
như tiếp cận theo ngành, theo chương trình, hỗ trợ ngân sách chung, hỗ trợ ngân sách có mục tiêu; Cải
tiến quy trình xây dựng, tổng hợp và phê duyệt Danh mục yêu cầu tài trợ đảm bảo tính khả thi cao và
tránh tình trạng phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt lại do có những thay đổi trong quá trình
xây dựng, thẩm định và phê duyệt dự án; Chú trọng đến vai trò của khu vực tư nhân; Tinh giản quy
trình, thủ tục đối với những chương trình, dự án ODA có thay đổi dẫn đến thay đổi các Điều ước quốc
tế cụ thể về ODA đã ký kết.
Chủ dự án là người quản lý trực tiếp
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên tắc quản lý và sử dụng ODA được xây dựng trên cơ sở Chính
phủ thống nhất quản lý ODA thông qua các cơ quan đầu mối với sự tham gia của các cơ quan quản lý
nhà nước theo sự phân công, phân cấp gắn với quyền hạn và trách nhiệm, đảm bảo quản lý, kiểm tra
và giám sát trong quá trình sử dụng ODA theo chức năng được giao.
Việc thu hút ODA phải đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng và đảm bảo khả năng trả nợ, phù hợp
với năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA, phải đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và nhất quán với sự
tham gia rộng rãi của các bên liên quan.
Việc hướng dẫn thi hành Nghị định về quản lý ODA ban hành lần này có một thông tư liên tịch chung
thay vì từng cơ quan chức năng ban hành một thông tư riêng như trước đây. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cho biết, Dự thảo lần này thể hiện rất rõ chủ trương phân cấp quản lý ODA thông qua việc hoàn thiện
các quy định liên quan tới công tác chuẩn bị, thẩm tra, thẩm định, phê duyệt nội dung chương trình,
dự án ODA.
Cụ thể, Nghị định đã xác định rõ về chủ chương trình dự án và điều kiện để làm chủ chương trình, dự
án. Theo đó, chủ dự án đầu tư phải là người trực tiếp quản lý, khai thác sử dụng kết quả đầu tư của dự
án, trực tiếp quản lý, duy tu, bảo dưỡng, khai thác sử dụng công trình và hoàn trả vốn vay ODA. Chủ
đầu tư phải có năng lực chuyên môn và các điều kiện pháp lý về sở hữu và quản lý vốn theo quy định
hiện hành.

Các cơ quan hành chính nhà nước như bộ, cơ quan ngang bộ và UBND các cấp chỉ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về đầu tư, không được làm chủ đầu tư các dự án từ nguồn vốn ODA mà phải
giao cho đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng khai thác dự án lâu dài làm chủ đầu tư. Trong những trường
hợp đặc thù khác cơ quan chủ quản phải trình Thủ tướng quyết định.
Việc thành lập ban quản lý dự án cũng có sự thay đổi về nguyên tắc, thay vì cơ quan chủ quản ra
quyết định thành lâp ban quản lý dự án, trong dự thảo chủ đầu tư các dự án đầu tư và cơ quan chủ
quản trong các dự án hỗ trợ kỹ thuật ra quyết định thành lập.
Đồng thời, rút kinh nghiệm từ vụ tiêu cực ở PMU 18, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ có một thông tư
hướng dẫn về cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động của Ban quản lý dự án.
Thường xuyên theo dõi, đánh giá dự án
Dự thảo lần này cũng thể hiện rất rõ ràng sự phân cấp trong thẩm tra thẩm định và phê duyêt chương
trình dự án có sử dụng ODA.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư đối với các chương trình dự án quan trọng quốc gia,
cho phép đầu tư và cho phép thực hiện đối với các dự án nhóm A, các chương trình hỗ trợ kỹ thuật
trong các lĩnh vực an ninh quốc phòng và các chương trình chính sách gắn với khung chính sách mà
chính phủ ta cam kết với nhà tài trợ. Cơ quan chủ quản được giao quyền thẩm tra, thẩm định và quyết
định đầu tư đối với các chương trình, dự án ODA không thuộc thẩm quyền Thủ tướng.
Một trong những nội dung mới nữa là, việc đánh giá dự án được yêu cầu phải là một hoạt động định
kỳ, xem xét toàn diện và có hệ thống, khách quan về tính phù hợp và hiệu quả dự án. Có thể đưa ra
những điều chỉnh cần thiết, rút ra bài học cho các dự án tiếp theo. Công tác đánh giá được tiến hành
định kỳ và đột xuất.
Riêng việc đánh giá định kỳ được chia làm 4 giai đoạn. Đánh giá ban đầu được tiến hành ngay sau khi
chương trình, dự án bắt đầu nhằm xem xét tình hình thực tế so với văn bản đã được phê duyệt để có
biện pháp xử lý ngay từ khâu thiết kế kỹ thuật và lập kế hoạch thực hiện chi tiết. Đánh giá giữa kỳ,
tiến hành vào thời gian thực hiện chương trình nhằm xem xét quá trình thực hiện từ khi bắt đầu và đề
xuất các điều chỉnh cần thiết.
Đánh giá kết thúc tiến hành sau khi dự án kết thúc nhằm xem xét các kết quả đạt được và tổng kết
toàn bộ quá trình thực hiện, rút ra nhưng kinh nghiệm, làm cơ sở lập báo cáo kết thúc dự án. Đánh giá
tác động tiến hành vào thời điểm thích hợp trong vòng 3 năm kể từ ngày đưa chương trình dự án vào
sử dụng để nhìn nhận về tác động kinh tế- xã hội của chương trình so với mục tiêu ban đầu đề ra.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định rõ trách nhiệm theo dõi, đánh giá chương trình của từng đơn vị từ
ban quản lý dự án, chủ dự án, cơ quan chủ quản cho tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các ngành liên
quan.
Vai trò quản lý nhà nước về ODA đã được đề cao hơn trong dự thảo lần này. Trong đó, Chính phủ
điều hành công tác vĩ mô về chiến lược, chính sách thu hút, quản lý và sử dụng ODA. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư là cơ quan đầu mối trong thu hút điều phối ODA, soạn thảo các văn bản về quản lý và sử dụng
ODA, cùng Bộ Tài chính lập kế hoạch về giải ngân, bố trí vốn cho các dự án.
Đặc biệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm theo dõi đánh giá tình hình quản lý và thực hiện các
chương trình dự án, làm đầu mối xử lý các vấn đề liên quan đến nhiều bộ ngành. Chịu trách nhiệm
báo cáo về tình hình thu hút, quản lý và sử dụng ODA.
Bộ Tài chính với vai trò đại diện chính thức cho "người vay" là Nhà nước, Chính phủ trong các điều
ước cụ thể về ODA có trách nhiệm chuẩn bị các nội dunng đàm phán các chương trình dự án với các
nhà tài trợ. Đặc biệt, Bộ Tài chính có trách nhiệm quản lý tài chính đối với các chương trình dự án,
theo dõi, kiểm tra công tác quản lý tài chính trong việc sử dụng vốn ODA.
Các bộ ngành khác như Ngân hàng, Tư pháp, Ngoại giao đều được quy định nhiệm vụ cụ thể theo
chức năng của mình
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quy chế này đang được các cơ quan quản lý trong nước và các nhà tài
trợ mong đợi nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ODA, khắc phục những yếu kém và phòng chống tham
nhũng trong sử dụng nguồn lực công.
Hy vọng rằng, với những quan điểm đổi mới, quy định cụ thể và chặt chẽ, quy chế sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả nguồn lực công cho phát triển đất nước.
3.1.2. Mục tiêu
Theo Vụ Kinh tế đối ngoại, thời kỳ 2011-2015, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, đảm
bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6-6,5%/năm, Việt Nam cần huy động 250-260 tỉ USD tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, các nguồn vốn ngoài nước chiếm 20-25% tổng nguồn vốn đầu tư huy động.
Dự kiến, thời kỳ 2011-2015, tổng vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ đạt khoảng 32-34 tỉ USD,
tổng vốn giải ngân khoảng 14-16 tỉ USD. Theo nội dung đề án, một số lĩnh vực được ưu tiên sử dụng
vốn ODA như: xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển nguồn nhân lực; phát triển nông
nghiệp nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường; hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, thương mại và một số lĩnh vực sản xuất

kinh doanh
Hiện nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương với những chính sách, quy mô, quy
định và thủ tục tài trợ khác nhau.
3.1.3. Định hướng
a.Định hướng cơ cấu thu hút và sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực kinh tế
Phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói, giảm nghèo:
Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để thực hiện các chương trình và dự án nhằm tăng năng suất
nông nghiệp; phát triển hạ tầng nông thôn quy mô nhỏ thiết yếu cho người; phát triển các công trình
thủy lợi kết hợp phòng chống, giảm nhẹ thiên tai; tăng cường quản lý tài nguyên rừng và các nguồn
tài nguyên thiên nhiên khác một cách bền vững; tạo việc làm kết hợp với xoá đói, giảm nghèo; tăng
cường năng lực cán bộ quản lý các cấp, nhất là ở cấp huyện, xã và thôn bản.
b. Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại:
Về điện : ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để tiếp tục phát triển ngành điện, đặc biệt là phát triển lưới
điện và trạm phân phối, nhất là phát triển lưới điện nông thôn. Phát triển các nguồn năng lượng tái tạo
như thuỷ điện quy mô nhỏ, điện mặt trời, điện gió, địa nhiệt tại các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo,
nơi phát triển lưới điện quốc gia không kinh tế. Việc sử dụng ODA cho một số chương trình, dự án có
tính chất sản xuất công nghiệp phải được tính toán kỹ hiệu quả và thực hiện nguyên tắc tự vay tự trả.
Về giao thông, ưu tiên thu hút và sử dụng ODA cho các lĩnh vực sau:
- Phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế; ưu
tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long; phát
triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm
- Nâng cấp, xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội - thành
phố Hồ Chí Minh; tăng cường năng lực quản lý và điều hành ngành đường sắt;
- Xây dựng một số cảng nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong – Khánh Hoà và cảng Lạch
Huyện - Hải Phòng, cảng trung chuyển;
- Xây dựng một số sân bay quốc tế ở một số tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển
hệ thống các sân bay của cả nước; .
Về bưu chính, viễn thông: Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA hỗ trợ đầu tư phát triển một số cơ sở hạ
tầng kỹ thuật bưu chính viễn thông có ý nghĩa quốc gia, phục vụ nhu cầu khai thác chung của mọi
thành phần kinh tế, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp và lợi ích của người sử

dụng; phát triển điện thoại nông thôn.
Về cấp, thoát nước và phát triển đô thị: Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để hỗ trợ xây dựng đồng
bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, hoàn thiện hệ thống cấp nước sinh hoạt,
cung cấp đủ nước sạch cho các đô thị và khu công nghiệp;
+ Đối với phát triển đô thị, ODA được ưu tiên để giải quyết các vấn đề giao thông đô thị, đặc
biệt là đối với một số thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phát triển hệ thống
đường vành đai tại các đô thị lớn, đường nội đô, từng bước phát triển mạng lưới giao thông bánh sắt
khối lượng lớn; hỗ trợ phát triển chính sách, thể chế trong lĩnh vực quản lý xã hội
c. Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội
Về y tế, dân số và phát triển: Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để hỗ trợ nâng cấp và tăng cường
trang thiết bị y tế cho các bệnh viện; hỗ trợ thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs)
trong lĩnh vực y tế
Về giáo dục và đào tạo: Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để hỗ trợ thực hiện các Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ (MDGs) trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; cải thiện chất lượng và phổ cập giáo dục;
cải thiện công tác dạy nghề; xây dựng và hiện đại hoá một số trường đại học và ngành nghề đào tạo
trọng điểm, xây dựng một số phòng thí nghiệm kết hợp nghiên cứu và đào tạo; phát triển giáo dục tại
các vùng khó khăn; đào tạo cán bộ, đặc biệt cấp cơ sở và ở các vùng nông thôn, miền núi; hỗ trợ xây
dựng và thực hiện chính sách, phát triển thể chế và tăng cường năng lực quản lý ngành.
d. Về môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên:
Ưu tiên thu hút và sử dụng ODA để hỗ trợ thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội về môi trường, bao gồm thực hiện các quy hoạch về quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững; hỗ
trợ thực hiện Chương trình nghị sự về phát triển bền vững; hỗ trợ thực hiện các mục tiêu quốc tế về
môi trường và giảm ô nhiễm; cải thiện môi trường đô thị; tăng cường khả năng phòng, chống và khắc
phục hậu quả thiên tai;
e. Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ,
nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai:
Về tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực: ưu tiên thu hút và sử dụng ODA
vào các lĩnh vực; xây dựng và thực hiện chính sách quản lý kinh tế, cải cách hệ thống tài chính, ngân
hàng; đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế đi đôi với tăng cường năng lực ở cơ sở;
Về khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai: Ưu tiên thu hút và sử

dụng ODA để hỗ trợ xây dựng, nâng cấp các viện nghiên cứu, trường đại học trọng điểm để đầu tư đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực; thông qua các chương trình, dự án ODA tranh thủ thu hút những
thành tựu mới nhất về khoa học và công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh; hiện đại hoá và nâng cao
chất lượng dự báo khí tượng thuỷ văn.
f. Việc làm và an sinh xã hội: Thực hiện bình đẳng giới, bảo vệ quyền lợi của trẻ em; phát triển
thanh niên Việt Nam; phòng chống tệ nạn xã hội; đảm bảo quyền cho trẻ em; giảm khả năng dễ bị tổn
thương và phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người nghèo; xây
dựng chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
1.2. Định hướng tổng quát thu hút và sử dụng ODA sau năm 2010
Trong thời kỳ 2011 - 2015, chủ trương thu hút và sử dụng ODA là tiếp tục tranh thủ đi đôi với
việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực
hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Chính sách thu hút và quản lý
ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự
án ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng ODA.
-Trong bối cảnh trên, chính sách thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam phải có những điều
chỉnh phù hợp, chú trọng nhiều hơn nữa đến hiệu quả sử dụng viện trợ, với mục tiêu tối đa hóa sự hỗ
trợ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế dành cho Việt Nam để phát triển hạ tầng kinh tế và xã hội,
xóa đói giảm nghèo, góp phần đạt được các mục tiêu Thiên niên kỷ vào năm 2015 và tạo tiền cho Việt
Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
1.3. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư phát triển thời kỳ 2011 - 2015:
1.3.1. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển
Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5-8%/năm và tạo bước đột phá về phát triển
cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, tổng vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt khoảng 300 tỷ USD (chiếm tối
thiểu 41,5% GDP), trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 70% và nguồn vốn nước ngoài
chiếm khoảng 30%. Trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư huy động từ bên ngoài, vốn đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI) và vốn ODA vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng.
1.3.2. Nhu cầu huy động vốn ODA
Để đáp ứng nhu cầu nguồn vốn đầu tư huy động từ bên ngoài, trong 5 năm 2011 - 2015 cần
thực hiện được khoảng 14-16 tỷ USD vốn ODA. Để thực hiện được nguồn vốn ODA nêu trên, cần

phải có vốn ODA cam kết khoảng 30 - 32 tỷ USD.
- Về quan hệ hợp tác phát triển: Khi Việt Nam trở thành quốc gia đang phát triển có mức thu
nhập trung bình thấp (MIC), tính chất, quy mô và các điều kiện cung cấp ODA cho Việt Nam sẽ có
những thay đổi nhất định. Một số nhiều nhà tài trợ sẽ có những điều chỉnh chính sách trong quan hệ
hợp tác phát triển với Việt Nam. Các khoản viện trợ không hoàn lại sẽ tập trung nhiều hợp vào hỗ trợ
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực, đồng thời xuất hiện thêm nhiều kênh tín dụng
mới kém ưu đãi hơn,…Ngoài ra, phương thức cung cấp viện trợ cũng có những thay đổi nhất định
như áp dụng nhiều hơn phương pháp tiếp cận theo chương trình, ngành, hỗ trợ ngân sách chung và hỗ
trợ ngân sách có mục tiêu,
Trong bối cảnh trên, chính sách thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam phải có những điều
chỉnh phù hợp, chú trọng nhiều hơn nữa đến hiệu quả sử dụng viện trợ, với mục tiêu tối đa hóa sự hỗ
trợ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế dành cho Việt Nam để phát triển hạ tầng kinh tế và xã hội,
xóa đói giảm nghèo, góp phần đạt được các mục tiêu Thiên niên kỷ vào năm 2015 và tạo tiền cho Việt
Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Về công tác huy động vốn
5 năm không phải là thời gian quá ngắn nhưng cũng chưa đủ để chúng ta có thể rút ra đầy đủ những
kinh nghiệm cũng như hoàn chỉnh các biện pháp thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hoàn
hảo, mà Chính phủ còn phải tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp cải cách hơn nữa nhằm tranh thủ nhiều
hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Trong tình hình cả 2 bên - các nhà tài trợ và Chính phủ Việt
Nam - cùng tiến hành nhiều biện pháp nhằm phối hợp chặt chẽ để đưa ra những thủ tục hợp lí, thoả
mãn yêu cầu của bên cung cấp và bên tiếp nhận. Sau đây em xin nêu một số giải pháp tăng cường thu
hút và sử dụng nguồn vốn ODA như sau:
1. Về thu hút vốn:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí và điều hành công tác tiếp nhận ODA.
- Tăng cường công tác cán bộ, đầu tư đào tạo để nâng cao năng lực cho những cán bộ thuộc bộ phận
liên quan đến việc xác định nhu cầu đàm phán, kí kết những hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm
nâng cao hơn nữa cả về số luợng và chất lượng của nguồn vốn thu hút được.
- Mở lớp đào tạo ngắn về những kiến thức có liên quan đến ODA, tập huấn về những quy định và thủ
tục, điều kiện cung cấp ODA của các nhà tài trợ.

- Những ngành và địa phương có nhu cầu về cung cấp vốn ODA cần nghiên cứu kĩ những chính sách
ưu tiên của các đối tác nước ngoài cũng như quy chế quản lí và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt
Nam để tranh thủ sự giúp đỡ của Chính phủ và các cơ quan có liên quan trong việc lập hồ sơ dự án và
các thủ tục xin viện trợ phù hợp với đối tượng ưu tiên.
3.2.2. Về sử dụng vốn:
Việt Nam là một nước đang phát triển do đó nguồn vốn ODA có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Đây sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu để Chính phủ đầu tư tái thiết
cơ sở hạ tầng đang trên đà xuống cấp, lạc hậu nghiêm trọng và cần được khẩn trương nâng cấp, đổi
mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và mở rộng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài nói riêng. ODA cũng là nguồn tài trợcần thiết cho các hoạt động nghiên cứu, khảo sát,
đánh giá tiềm năng của các nguồn tài nguyên, thực trạng kinh tế xã hội, tình hình của các ngành, lãnh
vực trong nền kinh tế quốc dân, những thông tin thu thập, được sẽ là căn cứ xác đáng cho quản lý vĩ
mô. Nhận thức được vai trò của nguồn vốn ODA đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, chúng ta đã có một số thành công lớn trong công tác vận động đầu tư và là dấu hiệu chứng tỏ
sự ủng hộ của quốc tế đối với công cuộc cải cách kinh tế xã hội đang được thực hiện có kết quả tại
Việt Nam. Tuy nhiên có được nguồn vốn mới chỉ là tiền đề, điều quan trọng hơn hết là làm thế nào để
hấp thụ, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nói trên. Để góp phần xử lí vấn đề này cần phải thực hiện cho
được những biện pháp sau:
Thứ nhất, cần thay đổi nhận thức về vai trò và bản chất của viện trợ nước ngoài. Tính chất ưu đãi của
nguồn vốn ODA (thời gian, lãi suất ) thường làm cho các cơ quan trong nước (quản lí tiếp nhận) có
quan niệm hết sức dễ dãi và chủ quan về sự phân phối và sử dụng nguồn vốn này. Họ không chú ý
đến yêu cầu hiệu quả, bỏ qua yếu tố chi phí thời cơ trong thẩm định, đánh giá dự án, chưa quan tâm
đầy đủ đến việc xác định các ưu tiên đầu tư, vẫn còn dựa dẫm chủ yếu vào nguồn vốn nước ngoài và
xem nhẹ sự đối ứng của nguồn vốn trong nước, triển khai dự án chậm có khi còn lãng phí. Những
quan niệm sai lầm trên cần sớm được chấn chỉnh, luôn luôn lưu ý rằng đây là nguồn vốn phải hoàn trả
vốn gốc và lãi vì vậy nếu sử dụng kém hiệu qủa vẫn có thể rơi vào khủng hoảng nợ nần như đã xảy
ra ở nhiều nước.
- Thứ hai, thiết lập các định hướng ưu tiên đầu tư và tiến hành nghiên cứu khả thi từng dự án chặt chẽ.
Cần tránh xu hướng dàn trải viện trợ nước ngoài trên một diện rộng bao quát nhiều lãnh vực, ngành
hay địa phương. Trong điều kiện nguồn vốn hạn chế, để nguồn vốn phát huy hiệu quả nhanh và rộng,

nên tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực, vùng lãnh thổ có lợi thế tương đối và có khả năng gây tác
động phát triển lớn.
- Thứ ba: tăng cường nguồn lực đối ứng trong nước. Khả năng hấp thụ viện trợ tuỳ thuộc vào mức độ
đáp ứng của nguồn lực trong nước. Nếu các nguồn lực trong nước quá yếu kém (được thể hiện qua
nguồn vốn trong nước nhỏ bé, năng lực cán bộ hạn chế, các yếu tố đầu vào thiếu thốn, hệ thống pháp
lý không rõ ràng, chặt chẽ ) thì sẽ phát sinh hiện tượng viện trợ nước ngoài quá tải và không được
sử dụng một cách có hiệu quả. Để hấp thụ hoàn toàn và có hiệu quả nguồn ODA mà cộng đồng quốc
tế đã cam kết cần sớm khắc phục và cải thiện những vấn đề còn tồn tại nêu trên.
- Thứ tư: Cải tiến cơ chế quản lý và điều phối viện trợ.
Viện trợ nước ngoài có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng ở trong nước kể từ lúc vận động kinh
tài trợ cho đến khi hoàn tất cam kết hoàn trả cho nên thiết lập một cơ chế nhằm đảm bảo sự phối hợp
nhịp nhàng , thông suốt của cả một hệ thống tổ chức có liên quan đến việc trợ là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng. Ngoài ra còn phải xác định khả năng trả nợ cả gốc và lãi trong tương lai để xây dựng kế
hoạch trả nợ, cập nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự biến động của các nhân tố có khả năng
tác động đến nguồn vốn vay để xử lý kịp thời và có những quyết định đúng đắn tránh tình trạng lỗ do
những tác động của những nhân tố khách quan khi dự án đã đi vào hoạt động.
KẾT LUẬN
Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói
riêng có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Để phát triển kinh tế
với tốc độ nhanh trong khi quy mô nền kinh tế nhỏđang thiếu vốn nghiêm trọng và tiết kiệm trong
nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung vốn đầu tư bằng khối lượng lớn nguồn vốn nước ngoài rất cần
thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển để hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thì
chúng ta cần phải tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA. Muốn vậy Nhà nước ta
cần có các chính sách phù hợp để thu hút và sử dụng nguồn ODA có hiệu quả hơn và có những biện
pháp thực hiện các chính sách đó một cách triệt để và hợp lí. Có như vậy chúng ta mới sử dụng và
quản lí có hiệu quả nguồn vốn này, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đi lên theo định hướng
XHCN mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã vạch ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) . Những hiểu biết căn bản và thực tiễn ở Việt Nam - NXB giáo
dục năm 1998 tác giả Hà Thị Ngọc Danh.

2. Tạp chí phát triển kinh tế
3. Thời báo kinh tế Việt Nam.
4. Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2000 bằng nguồn vốn ODA - Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Hà Nội tháng 11/1996.
5. Nghị định của Chính phủ ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ chính thức ODA, Hà
Nội tháng 8/1997.
6. Thông tin kinh tế - xã hội - Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 4/1998, số 1 + 2/2000.
7. Tiếp nhận và quản lý sử dụng viện trợ phát triển chính thức ODA ở Việt Nam - Báo cáo của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư,
8. bộ kế hoạch và đầu tư hợp tác và phát triển (cổng thông tin 2011)
ĐỀ TÀI: BÀN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA
MỞ ĐẦU
Chương I: Tổng quan về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 1
1.1. Khái niệm chung về ODA
1.1.1. Khái niệm 1
1.1.2. Phân loại vốn ODA 2
1.1.3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu 3
1.1.4. Quy trình thực hiện dự án ODA 4
1.2. Đặc điểm và vai trò của vốn ODA 8
1.2.1 Đặc điểm của vốn ODA 8
1.2.2 Vai trò của vốn ODA 9
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA 11
Chương II: Những khó khăn và thuận lợi trong công tác huy động và tiếp nhận
ODA ở Việt Nam 15
2.1. Những thuận lợi trong công tác huy động và tiếp nhận nguồn vốn ODA ở Việt Nam 15
2.1.1. Trong công tác huy động 15
2.1.2. Trong công tác tiếp nhận 15
2.2. Những khó khăn trong quá trình huy động và sử dụng vốn ODA 15
2.1.1. Trong công tác huy động 15
2.1.2. Trong công tác tiếp nhận 16

Chương III: Một kiến nghị về công tác huy động và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam 16
3.1. Quan điểm, định hướng, mục tiêu huy động vốn ODA của Việt Nam 16
3.1.1. Quan điểm 16
3.1.2. Mục tiêu 20
3.1.3. Định hướng 21
3.2. Một số kiến nghị 23
3.2.1. Về công tác huy động vốn 23
3.2.2. Về công tác sử dụng vốn 24
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

×