Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

huy động vốn cổ phần trên thị trường otc – một giải pháp về vốn cho các doanh nghiệp trên địa bàn tp. hcm (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.04 KB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
WUX




VÕ THANH KHIÊM



HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ – XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN
ĐẾN NĂM 2020








LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ









TP. Hồ Chí Minh – Năm 2007


MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH
TẾ – XÃ HỘI
3
1.1. Mô hình phát triển kinh tế……………………………………………………………………………………
3
1.1.1. Mô hình cổ điển về phát triển kinh tế…………………………………………………………. 3
1.1.2. Mô hình phát triển kinh tế của C.Mác………………………………………………………… 4
1.1.3. Mô hình tân cổ điển về phát triển kinh tế………………………… 5
1.1.4. Mô hình phát triển kinh tế theo kinh tế học hiện đại……………………………. 5
1.1.5. Sự vận dụng vào việc xác đònh đường lối phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam…………………………………………………………
7
1.2. Vốn và các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển……
12
1.2.1. Khái niệm về vốn đầu tư và các hình thức đầu tư………………… 12
1.2.2. Nhu cầu vốn đầu tư………………………………………………… 12
1.2.3. Huy động vốn………………………………………………………………………………………………………… 14
1.2.4. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế……………………………………… 14
1.2.5. Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư……………………………………………………. 17
1.2.6. Nguồn vốn đầu tư………………………………………………………………………………………………… 19

1.3. Kinh nghiệm các nước trong việc huy động vốn cho đầu tư phát
triển………………………………………………………………………………………………………………………………………….
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN
KINH TẾ – XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2001-
2006
27
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên – xã hội của tỉnh Bình Thuận………
27
2.1.1. Vò trí đòa lý……………………………………………………………………………………………………………… 27
2.1.2. Tiềm năng về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên…………………………………. 27
2.2. Thực trạng huy động vốn đầu tư của tỉnh Bình Thuận……………
31
2.2.1. Tình hình huy động vốn đầu tư của tỉnh Bình Thuận giai đoạn
2001-2006………………………………………………………………………………………………………………
31
2.2.2. Huy động vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước……………………………………………. 33
2.2.3. Huy động vốn từ khu vực dân doanh …………………………………………………………… 36
2.2.4. Huy động vốn từ nguồn tín dụng…………………………………………………………………… 38

2
2.2.5. Huy động vốn nước ngoài………………………………………………………………………… 39
2.3. Đánh giá tác động của vốn đầu tư đối với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001-2006……………………
42
2.3.1. Tác động của vốn đầu tư xã hội đối với tăng trưởng kinh tế………………. 42
2.3.2. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế của tỉnh……………………………………………………………. 43
2.3.3. Lao động và giải quyết việc làm…………………………………………………………………… 46
2.3.4. Các vấn đề văn hoá-xã hội, vốn đầu tư và thực trạng………………………… 46

2.4. Đánh giá ưu và hạn chế tình hình huy động vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận thời gian qua…………………………………………
50
2.4.1. Những ưu điểm……………………………………………………………………………………………………… 50
2.4.2. Những hạn chế……………………………………………………………………………………………………… 50
2.4.3. Nguyên nhân…………………………………………………………………………………………………………. 52
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN ĐẾN NĂM 2020
54
3.1. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư……………………………………………………………………………………
54
3.1.1. Mục tiêu phát triển………………………………………………… 54
3.1.2. Thuận lợi và khó khăn, thách thức………………………………… 55
3.1.3. Dự báo nhu cầu vốn đầu tư……………………………………………………………………………… 56
3.2. Quan điểm huy động vốn……………………………………………………………………………………….
57
3.3. Đánh giá khả năng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế – xã hội tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn tới………………………………………
58
3.3.1. Nguồn vốn trong nước………………………………………………………………………………………. 58
3.3.2. Nguồn vốn nước ngoài………………………………………………………………………………………. 59
3.4. Các giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn cho đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận…………………………………………………………………….
60
3.4.1. Giải pháp huy động vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước………………………… 60
3.4.2. Nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước……………………………………………………………… 64
3.4.3. Giải pháp huy động vốn từ nguồn tín dụng……………………………………………… 64
3.4.4. Giải pháp huy động vốn từø khu vực dân doanh…………………… 65
3.4.5. Nguồn vốn nước ngoài………………………………………………………………………………………. 68

3.4.6. Các giải pháp khác………………………………………………… 71
Kết luận
84






3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng châu Á
AFTA Khu mậu dòch tự do Đông Nam Á
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOT Xây dựng khai thác chuyển giao
BT Xây dựng chuyển giao
CNH,HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSSK Chăm sóc sức khỏe
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
EU Cộng đồng các nước châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
NGO Nguồn vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ
NIC
S Các nước công nghiệp mới
NS Ngân sách
NSNN Ngân sách nhà nước
NSTW Ngân sách trung ương

ODA Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức của nước ngoài
QTDND Quỹ tín dụng nhân dân
TDNH Tín dụng ngân hàng
TTCK Thò trường chứng khoán
TCTD Tổ chức tín dụng
UBND Ủy ban nhân dân
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghóa




4

MỞ ĐẦU


1. Sự cần thiết của đề tài
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải trong khu vực kinh tế miền Đông Nam
Bộ, có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực ảnh
hưởng của đòa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Bên cạnh mối quan hệ kinh tế
truyền thống với đòa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Thuận còn có điều
kiện mở rộng mối quan hệ giao lưu phát triển kinh tế với các tỉnh Tây nguyên và
cả nước. Sức hút của các thành phố và trung tâm phát triển như thành phố Hồ
Chí Minh, Bà Ròa-Vũng Tàu, Nha Trang tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh phát
triển kinh tế, đồng thời cũng là một thách thức lớn đặt ra cho Bình Thuận phải
phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những lónh vực, những sản phẩm đặc thù để
mở rộng liên kết, không bò tụt hậu so với khu vực và cả nước.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, nhất là vào giai đoạn đầu của quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nước nào không ở trong tình trạng
thiếu vốn đầu tư một cách gay gắt. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi
quốc gia tự tìm cho mình một biện pháp phù hợp để có thể huy động và sử dụng
vốn một cách tốt nhất phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa cơ sở
vật chất kỹ thuật. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hóa, thò trường vốn rầm rộ và
các dòng chảy đan xen nhau trên khắp toàn cầu và giữa các khu vực, các nước đi
sau có nhiều lợi thế trong việc tạo vốn để giải quyết có hiệu quả các vấn đề
kinh tế-xã hội, công nghệ, kỹ thuật, môi trường . . .
Tăng tốc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, thực hiện chuyển dòch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại nhằm phát triển nhanh kinh tế-xã hội đòi hỏi rất
nhiều vốn. Bình Thuận cần phải đề ra và thực hiện các giải pháp pháp huy động
vốn một cách hiệu quả từ nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, khơi
dậy nguồn lực to lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế ra sức làm giàu cho mình, cho đòa phương và cho đất nước.
Tuy nhiên, tại tỉnh Bình Thuận trong thời gian qua, nguồn vốn huy động
chưa ổn đònh, còn thấp so với điều kiện, tiềm năng và nhu cầu đầu tư phát triển
của tỉnh. Việc thu hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển các ngành, lónh vực,
sản phẩm lợi thế của tỉnh còn hạn chế. Vì sao lại như vậy? Thực trạng tình hình
huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội như thế nào? Và các giải pháp

5
cho vấn đề này. Đó là những vấn đề cấp bách đang đặt ra. Cũng từ những yêu
cầu đó, tôi xin chọn đề tài “HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN ĐẾN NĂM 2020” làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên sơ sở nghiên cứu các mô hình phát triển kinh tế, cơ sở lý luận huy
động vốn, mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, kinh nghiệm của một
số nước trong việc huy động vốn đầu tư, luận văn đi sâu phân tích và đánh giá
thực trạng huy động vốn đầu tư trên đòa bàn Bình Thuận giai đoạn 2001-2006.

Đây là giai đoạn quan trọng, giai đoạn mà tỉnh có những bước khởi sắc rõ rệt
trong phát triển kinh tế-xã hội. Dựa theo mục tiêu phát triển và các chỉ tiêu theo
quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận đến năm 2020, dự báo nhu
cầu vốn đầu tư giai đoạn 2007-2020, luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể, đồng
bộ và phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Bình Thuận.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng
kết hợp với các phương pháp khác: cách tiếp cận chuỗi thời gian để tìm ra mối
quan hệ và đánh giá vai trò, tác động của vốn đối với sự phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh; phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, diễn dòch quy nạp để
đánh giá nhận xét hiện thực khách quan, đưa ra các giải pháp có tính khả thi,
phù hợp thực tiễn trong việc giải quyết các vấn đề đặt ra.
4. Nội dung Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Chương II: Thực trạng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001-2006.
Chương III: Giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh Bình Thuận đến năm 2020.


6

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN HUY ĐỘNG VỐN
CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

Trong lý thuyết cũng như trong thực tiễn của các quốc gia hàng trăm năm
qua đều có những mong muốn và hoạt động tìm kiếm, xác lập những cách thức

để phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế, đều cố gắng xác lập mô hình phát
triển kinh tế phù hợp. Nhiều quốc gia đã thành công, vươn lên trong điều kiện
tài nguyên thiên nhiên không phong phú. Mô hình phát triển kinh tế là cách thức
diễn đạt những con đường, hình thái, nội dung phát triển kinh tế của các quốc gia
thông qua các biến số, các nhân tố kinh tế trong quan hệ chặt chẽ với điều kiện
chính trò-xã hội.
1.1. Mô hình phát triển kinh tế
Trong lòch sử phát triển kinh tế, thế giới đã xuất hiện nhiều mô hình kinh
tế. Mỗi loại mô hình đều xuất phát từ những quan điểm lý luận riêng hoặc là sự
vận dụng tổng hợp nhiều trường phái lý luận khác nhau.
1.1.1. Mô hình cổ điển về phát triển kinh tế
Lý thuyết cổ điển về phát triển kinh tế được hình thành cách đây hơn 200
năm. Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học, David Ricardo được
coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Lý thuyết cổ điển có những nội dung có liên
quan đến mô hình phát triển kinh tế cần được đặc biệt chú ý:
- Phê phán chế độ phong kiến: mặc dù có nhiều hạn chế nhưng phái trọng
nông đã chỉ ra rằng, để phát triển, cần mở rộng quan hệ bên ngoài khu vực nông
nghiệp, đồng thời phải thay đổi cấu trúc bên trong của nông nghiệp, chuyển nền
sản xuất sang sản xuất hàng hóa.
- Trong khi phân tích hoạt động của thương nhân và thương nghiệp, các
nhà kinh tế phái trọng thương đã đặt nền móng cho nền kinh tế hàng hóa; chỉ ra
sự cần thiết tất yếu của quá trình tự do hóa kinh tế và sự điều tiết của thò trường.
Lý luận về thò trường, về sức mạnh của “bàn tay vô hình” là cống hiến lớn lao
cho khoa học kinh tế của trường phái cổ điển.

7
- Theo các nhà kinh tế cổ điển, 3 nguồn lực trực tiếp tạo nên sự tăng
trưởng là đất đai, lao động và vốn. Trong kinh tế, ba nhân tố đó có quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó yếu tố đất đai là yếu tố quan trọng nhất. Từ sự phân tích
quan hệ giữa các nhân tố trên với sự phát triển của lương thực, lợi nhuận… các

nhà kinh tế cổ điển cho rằng đất đai là giới hạn đối với sự tăng trưởng.
Trong khi thừa nhận tác dụng của “bàn tay vô hình” của thò trường, các
nhà kinh tế cổ điển phủ nhận vai trò của chính phủ trong điều tiết cung cầu của
nền kinh tế. Thậm chí, họ cho rằng sự can thiệp của chính phủ là lực cản của sự
phát triển kinh tế.
- Bước đầu phân tích các nhóm xã hội, sự phân chia lợi nhuận giữa các
nhóm căn cứ vào vai trò sở hữu các điều kiện sản xuất. Họ cho rằng các nhà tư
bản thu lợi nhuận, đòa chủ có đòa tô và công nhân nhận tiền công là điều hiển
nhiên vì nhà tư bản là chủ sở hữu vốn, đòa chủ sở hữu đất còn người làm công thì
làm chủ sức lao động của mình.
1.1.2. Mô hình phát triển kinh tế của C.Mác
Những quan điểm của C.Mác trên góc độ kinh tế phát triển liên quan đến
mô hình phát triển kinh tế:
- Về các nhân tố tăng trưởng kinh tế: Bên cạnh việc thừa nhận các nhân tố
đất đai, lao động và vốn như các nhà kinh tế cổ điển, C.Mác phát triển và khẳng
đònh vai trò ngày càng to lớn của kỹ thuật – công nghệ đối với sự phát triển.
Việc nhấn mạnh vai trò của công nghệ được C.Mác trình bày một cách khoa học
trong khi lý giải việc bóc lột giá trò thặng dư tương đối, cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo
hữu cơ của tư bản.
Trong khi phân tích nguồn gốc sự giàu có của chủ nghóa tư bản, C.Mác
khẳng đònh vai trò quyết đònh của lao động.
- Quan hệ cung cầu và vai trò của chính phủ: C.Mác đã đặt nền tảng bước
đầu cho việc phát triển sự vận động cung cầu và vai trò của chính phủ trong điều
tiết cung – cầu của nền kinh tế.
- Các nội dung của quan hệ sản xuất và quan hệ giữa chúng: Vấn đề vừa
cổ điển vừa hiện đại trong kinh tế nói chung và trong kinh tế phát triển nói riêng
là vấn đề quan hệ sản xuất. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác chỉ rõ quan hệ
sản xuất xã hội gồm ba nội dung: chiếm hữu tư liệu sản xuất, quan hệ giữa các
giai cấp, các nhóm người trong sản xuất và quan hệ phân phối. Trong khi phát
triển quan hệ biện chứng giữa các nội dung trên, C.Mác nhấn mạnh vai trò quyết

đònh của quan hệ sở hữu. C.Mác đi đến khẳng đònh mâu thuẫn cơ bản của

8
- Phân tích tái sản xuất xã hội và những điều kiện để mở rộng sản xuất:
Cùng với việc phân tích các nhân tố tăng trưởng nền kinh tế tư bản chủ nghóa,
C.Mác đã chỉ rõ rằng nền kinh tế muốn tăng trưởng không thể dừng lại ở tái sản
xuất giản đơn mà phải thực hiện tái sản xuất mở rộng. Muốn tái sản xuất tất yếu
phải đầu tư phụ thêm. Như vậy, theo C.Mác, muốn tăng đầu ra của nền kinh tế,
thường phải tăng đầu vào vốn và các yếu tố sản xuất. C.Mác còn cho rằng, quá
trình sản xuất xã hội cũng chính là quá trình tái sản xuất ra quan hệ sản xuất,
các điều kiện sản xuất và sản phẩm.
Có thể nói những kết luận của C.Mác về tái sản xuất có ý nghóa phổ biến
cho việc giải quyết tăng trưởng phát triển kinh tế của mọi phương thức sản xuất.
1.1.3. Mô hình tân cổ điển về phát triển kinh tế
Bên cạnh một số quan niệm về phát triển kinh tế tương đồng với trường
phái cổ điển, mô hình tân cổ điển về phát triển kinh tế có một số quan niệm
mới:
- Nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn, cho rằng trong quan hệ
giữa nguồn lực vốn, lao động với tăng trưởng có thể có ba tình huống: Sự gia
tăng vốn phù hợp sự gia tăng lao động, áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao
động và sử dụng vốn thay thế lao động. Trên cơ sở đó, phân đònh phạm trù phát
triển kinh tế theo chiều rộng và phát triển kinh tế theo chiều sâu. Cũng từ đó
nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của kỹ thuật – công nghệ trong tăng
trưởng.
- Đưa ra khái niệm hàm sản xuất (hàm Cobb – Douglas) để chỉ quan hệ
giữa gia tăng sản phẩm – đầu ra với gia tăng của vốn, lao động, tài nguyên, khoa
học công nghệ – đầu vào.
1.1.4. Mô hình phát triển kinh tế theo kinh tế học hiện đại
Kinh tế học hiện đại xuất hiện nhiều lý luận, trường phái liên quan đến
mô hình phát triển kinh tế.

- Những quan niệm chủ yếu của J.M.Keynes về kinh tế phát triển:
Nhấn mạnh vai trò của tổng cầu trong việc xác đònh sản lượng của nền
kinh tế. Sau khi phân tích các xu hướng biến đổi của tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư
Những khuyến nghò của J.M.Keynes về chính sách tài khóa có ý nghóa lý
luận và thực tiễn rất sâu sắc.
Mô hình tăng trưởng của Harrod – Domar
Trình bày quan hệ chặt chẽ giữa hệ số gia tăng đầu ra (sản lượng) và gia
tăng vốn đầu tư, Harrod và Domar đưa ra kết luận rằng chính vốn đầu tư là yếu
tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm của các công ty và dân cư là nguồn gốc của
đầu tư. Để phản ánh tương quan giữa vốn và đầu ra, các nhà nghiên cứu trên đưa
ra phạm trù hệ số ICOR (Incremental Capital – Output Ratio). Hệ số ICOR,
tương quan giữa vốn với đầu ra, được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát
triển nhằm xem xét quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn đầu tư.
Hệ số ICOR là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một quốc gia hay
một ngành, cho thấy cần thêm bao nhiêu đồng cho đầu tư để tăng thêm một đơn
vò sản lượng. Theo phương trình Harrod-Domar:
Vốn đầu tư
ICOR =
GDP
Suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Công thức trên cho thấy mối tương quan tỉ lệ nghòch giữa hệ số ICOR và
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với tỉ lệ đầu tư/GDP giống nhau, nước nào có hệ số
ICOR thấp hơn thì sẽ tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Số liệu thực
tế từ các nước cho thấy sự khác biệt trong hệ số ICOR giữa các nước đóng vai
trò lớn trong việc giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các nước.
Như vậy hệ số ICOR càng thấp thì chứng tỏ là đầu tư càng hiệu quả. Hệ
số ICOR thấp hơn có nghóa là cần một tỉ lệ đầu tư GDP thấp hơn để duy trì cùng

một tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên giảm dần
(diminishing marginal return of capital) nên khi nền kinh tế càng phát triển
(GDP/đầu người tăng lên) thì hệ số ICOR sẽ gia tăng, lúc này tiền lương sẽ tăng
cao. Nền kinh tế cần một tỉ lệ đầu tư/GDP cao hơn để duy trì cùng một tốc độ
tăng trưởng. Trong nội bộ nền kinh tế, việc so sánh hệ số ICOR giữa các ngành
sẽ thấy được ngành nào có hiệu quả đầu tư cao hơn.

9

10
Mô hình Harrod – Domar cho thấy sự tăng trưởng là kết quả tương tác
giữa tiết kiệm và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Đầu tư sinh
ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển khi ứng dụng mô hình này gặp trở ngại
đầu tư là vấn đề vốn, vấn đề tiết kiệm và đầu tư. Để có vốn đầu tư các nước
đang phát triển phải hy sinh việc tiêu dùng, phải tăng thuế. Song do hầu hết các
nước đang phát triển là những quốc gia nghèo nên giải pháp này không mang lại
kết quả cao. Cho nên phải tìm vốn bằng ngoại viện, bằng đầu tư từ nước ngoài.
Nhưng ngoại viện và đầu tư cũng không dễ dàng theo mong muốn của các nước
đang phát triển.
- Kinh tế học hiện đại đã tập trung nghiên cứu vấn đề tăng trưởng kinh tế.
Để có tăng trưởng và phát triển các nhà kinh tế học hiện đại đã phân tích bản
chất tăng trưởng, sự cần thiết khách quan của nó, phương pháp đánh giá, nhất là
đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng. Ở đây xuất hiện hàng
loạt những vấn đề mới mà kinh tế học đã và đang giải quyết:
+ Quan hệ kinh tế giữa hai khu vực truyền thống của nền kinh tế là nông
nghiệp với công nghiệp.
+ Xu hướng biến đổi của cơ cấu lao động và cơ cấu nền kinh tế.
+ Lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương.
+ Quan hệ giữa vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất với quản lý và phân phối

sản phẩm trong hoạt động kinh tế.
+ Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng tài nguyên, bảo vệ
môi trường sinh thái; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội và
lợi ích con người. Kinh tế học hiện đại đặc biệt lưu ý những khuyết tật của kinh
tế thò trường và cách khắc phục. Những năm gần đây xuất hiện những nghiên
cứu về phát triển bền vững với hai yêu cầu cơ bản: bền vững về tài nguyên, môi
trường và bền vững về xã hội.
Các nhà kinh tế học, các tổ chức quốc tế quan tâm nhiều đến nhân tố con
người, bản chất nhân văn, công bằng xã hội, hòa nhập cộng đồng… Vì thế, nếu
như trước đây khi đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia chỉ dựa
vào tổng thu nhập và mức thu nhập theo đầu người thì ngày nay có quan niệm
toàn diện hơn. Đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia cần phải xem xét
thêm trình độ văn hóa, tuổi thọ… tóm lại là các chỉ số phát triển con người.

11
1.1.5. Sự vận dụng vào việc xác đònh đường lối phát triển kinh tế – xã
hội ở Việt Nam
1.1.5.1. Những điểm chung của các mô hình phát triển kinh tế trong
lòch sử và hiện đại
Trong lòch sử và hiện tại có nhiều mô hình kinh tế, mỗi mô hình có những
đặc trưng riêng và đều xuất hiện trên những nền tảng nhất đònh. Tuy vậy có thể
thấy những nét phổ biến mà các mô hình đều đề cập là:
Phân tích các nguồn lực phát triển kinh tế
Nếu như mô hình phát triển kinh tế cổ điển chỉ thừa nhận ba nguồn lực
chủ yếu là lao động, ruộng đất và vốn thì học thuyết kinh tế của Các Mác và các
nhà kinh tế học hiện đại đều khẳng đònh có 4 nguồn lực: tài nguyên thiên nhiên
(trong đó có đất đai), vốn, khoa học – công nghệ và lao động của con người. Hơn
nữa, các nhà kinh tế học còn phân tích từng nguồn lực trong hệ thống. Nếu như
thời kỳ đầu, vai trò tài nguyên được nhấn mạnh thì ở thời kỳ hiện đại lại nhấn
mạnh vai trò của khoa học – công nghệ và con người. Hơn nữa, kinh tế học còn

phân tích các biện pháp, cơ chế để mở rộng, tái tạo, phát triển và sử dụng các
nguồn lực. Nhiều vấn đề của nguồn lực được kinh tế học hiện đại đặc biệt quan
tâm như vấn đề sở hữu các nguồn lực, động lực khai thác các nguồn lực, sự kết
hợp giữa từng quốc gia với các quốc gia khác trong việc tạo ra và sử dụng lợi thế
ngoại thương.
Quá trình có tính quy luật chuyển nền kinh tế sang sản xuất hàng hóa
Có thể nói, việc chuyển sang sản xuất hàng hóa là cái mốc lòch sử và tất
yếu lòch sử của phát triển kinh tế. Việc chuyển sang sản xuất hàng hóa, vừa dựa
trên cơ sở những tiền đề kinh tế – xã hội nhất đònh, vừa là nhân tố thúc đẩy cải
biến hàng loạt các quan hệ kinh tế – xã hội. Và việc thừa nhận nền kinh tế hàng
hóa đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt vấn đề vó mô và vi mô của nền kinh tế.
Thậm chí, phải giải quyết nhiều vấn đề ngoài quốc gia với tư cách thế giới là
một thò trường.
Giải quyết quan hệ giữa thò trường và quản lý nhà nước
Nhận thức từng nội dung trên và quan hệ giữa chúng là kết quả lâu dài
của các lý thuyết kinh tế.
Nếu như các nhà kinh tế học có điển chỉ thừa nhận vai trò của nền kinh tế
thò trường, thì các nhà kinh tế tân cổ điển và hiện đại – trong khi không phủ
nhận vai trò của thò trường – đã khẳng đònh vai trò tất yếu của nhà nước trong

12
mô hình phát triển kinh tế. Kinh nghiệm lòch sử đã cho thấy, ở những nơi, trong
những thời kỳ chỉ thừa nhận một trong hai nhân tố trên đều không đạt được kết
quả mong muốn. Nếu loại trừ tính chất giai cấp của nhà nước thì mô hình phát
triển kinh tế hỗn hợp – kết hợp thò trường với nhà nước - là mô hình chung cho
mọi quốc gia trong điều kiện hiện đại.
Thừa nhận vai trò ngày càng tăng của khoa học - công nghệ
Ngày nay khoa học – công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
chi phối mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Mỗi quốc gia muốn phát triển,
phải nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu khoa học – công nghệ vào

hoạt động kinh tế. Việc quốc tế hóa đời sống, việc mở rộng quan hệ kinh tế của
các quốc gia đang phát triển đều xuất phát từ vai trò và trình độ phát triển khoa
học – công nghệ. Muốn phát triển và sử dụng tốt khoa học – công nghệ tất yếu
phải nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục – đào tạo, tìm nguồn vốn đầu
tư…. Khẳng đònh vai trò của khoa học - công nghệ cũng tức là khẳng đònh vai trò
của quá trình CNH-HĐH trong mô hình phát triển của mỗi quốc gia.
Sự hòa nhập nền kinh tế của mỗi quốc gia vào nền kinh tế thế giới
Đây là xu hướng có tính quy luật mà các nhà kinh tế học hiện đại đều
khẳng đònh. Phạm trù kinh tế mở được nghiên cứu nhằm chỉ ra sự cần thiết và
khả năng cho các quốc gia đang phát triển hòa nhập vào thò trường quốc tế. Sự
xuất hiện lý thuyết về sự hòa nhập của thế giới thứ ba trong trao đổi quốc tế đã
giúp các nhà khoa học kinh tế đi sâu nghiên cứu việc khai thác lợi thế so sánh …
Thực hiện mô hình kinh tế mở là tất yếu khách quan trong mô hình phát triển
kinh tế hiện đại.
Những khía cạnh chính trò – xã hội của các mô hình phát triển kinh tế
Khi thừa nhận vai trò của các nhân tố chính trò trong mô hình phát triển
kinh tế cũng có nghóa là thừa nhận sự khác nhau giữa các mô hình về giải quyết
vấn đề sở hữu, mục đích điều tiết của nhà nước, cơ cấu phân phối, sự quan tâm
đến tầng lớp nghèo, chòu nhiều thua thiệt của cộng đồng… Thừa nhận khía cạnh
chính trò–xã hội có nghóa là phải giải quyết vấn đề cốt tử của phát triển kinh tế
là phục vụ cho ai, kết hợp như thế nào giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề
xã hội ở từng giai đoạn phát triển và trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Dù
muốn hay không, các lý thuyết về mô hình phát triển kinh tế đều không thể phủ
nhận, không thể lảng tránh khía cạnh chính trò–xã hội của mô hình phát triển
kinh tế.

13
1.1.5.2. Vận dụng vào việc xác đònh đường lối phát triển kinh tế – xã
hội ở Việt Nam
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã tích lũy được

nhiều kinh nghiệm quý báu. Quá trình lãnh đạo và quản lý kinh tế trong hơn 20
năm qua là quá trình tìm tòi, tự nhận thức và tự đổi mới. Trong quá trình phát
triển, chúng ta đã nghiên cứu tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế, luôn đặt vấn
đề phát triển kinh tế – xã hội nước nhà trong những nhân tố, xu thế chung của
thời đại. Có thể tiếp cận đường lối phát triển kinh tế – xã hội nước ta theo những
nét chủ yếu sau:
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế phát triển theo đònh hướng XHCN
Lý luận và thực tiễn khẳng đònh quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chính
trò – xã hội. Khẳng đònh đònh hướng XHCN của mô hình phát triển kinh tế có
nghóa là khẳng đònh mục tiêu phát triển kinh tế. Trong quản lý, một nguyên lý
được thừa nhận là khi xác đònh mục tiêu đúng thì mục tiêu trở thành động lực.
Mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, xây dựng thành công CNXH”; đònh hướng XHCN chi phối xử lý
mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế và
các vấn đề xã hội, không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết vấn đề xã
hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế
kinh tế phải luôn luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong đó có nhân
tố con người là trung tâm
Cũng như các quốc gia khác, nước ta phát triển kinh tế dựa trên cơ sở bốn
nguồn lực: tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, khoa học - công nghệ. Trong
đó nhân tố con người là trung tâm, phát triển kinh tế là vì con người và do con
người. Xuất phát từ nhận thức con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
nền kinh tế, trong những năm đổi mới, nhà nước ta vừa là chăm lo đào tạo con
người, huy động năng lực của họ vào hoạt động kinh tế, vừa từng bước nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần và sự phát triển toàn diện của nguồn lao động.
Khoa học – công nghệ, vốn là những nhân tố quan trọng quyết đònh tăng
trưởng và hiệu quả phát triển kinh tế. Để tăng qui mô vốn đầu tư và khoa học -
công nghệ, nhà nước ta chủ trương khai thác tối đa các khả năng trong nước và
quốc tế.

Thực hiện chuyển dòch cơ cấu kinh tế, chuyển nền kinh tế sang giai đoạn
công nghiệp hóa và hiện đại hóa

14
Xác lập cơ cấu kinh tế, trong đó cơ cấu các thành phần kinh tế, là việc đã
làm nhiều thập kỷ qua. Trong những năm đổi mới, nhờ tập trung sức phát triển
nông nghiệp, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế, nền kinh tế đã có
bước tăng trưởng và phát triển vượt bậc. Trong những năm tới, cần tiếp tục phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm
lo đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế nhà
nước thực sự làm ăn có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế
hợp tác phấn đấu dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; thực
hiện quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, tăng
nhanh tỷ lệ công nghiệp và dòch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Đồng thời
phát triển hợp lý kinh tế theo vùng lãnh thổ.
Thực hiện cơ chế thò trường có sự quản lý của nhà nước
Có thể nói, một trong những nguyên nhân thành công của nền kinh tế
nước ta trong những năm đổi mới là thực hiện chuyển nền kinh tế sang phương
thức sản xuất hàng hóa. Thừa nhận các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa.
Trong khi sử dụng cơ chế thò trường, chủ trương nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước. Ở mỗi thời kỳ phát triển phải có những phương thức kết hợp hài hòa giữa
quản lý nhà nước và sử dụng cơ chế thò trường. Trong những năm tiếp theo của
chiến lược phát triển, nước ta chủ trương tiếp tục tạo lập hệ thống thò trường, tạo
ra những tiền đề cho nền kinh tế thò trường hình thành đồng bộ và vận hành
thông suốt. Đồng thời, tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế để nền kinh
tế phát triển đúng hướng, thỏa mãn các mục tiêu kinh tế, chính trò và xã hội
trong mô hình phát triển kinh tế.
Thực hiện chiến lược kinh tế mở, hòa nhập nền kinh tế nước ta vào nền
kinh tế quốc tế
Những bài học, cả thành công và thất bại, trong phát triển kinh tế chứng

minh tầm quan trọng đặc biệt của chiến lược kinh tế mở. Trong tương lai, nước ta
sẽ thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu kết hợp với thay thế nhập khẩu ở
giai đoạn cao. Cùng với quan hệ đối ngoại nói chung, nước ta chủ trương đa
phương hóa, đa dạng các quan hệ kinh tế quốc tế. Điều mà Việt Nam đang quan
tâm là làm thế nào để sử dụng được những khả năng quốc tế trên cơ sở tăng
cường các tiềm lực bên trong của nền kinh tế. Nếu không thì việc hòa nhập sẽ
có nguy cơ biến nước ta thành nơi tiếp nhận công nghệ lạc hậu, hoặc biến nền
kinh tế phụ thuộc vào nước ngoài.
Trên đây là một số đặc trưng chính của đường lối phát triển phát triển kinh
tế-xã hội Việt Nam đã và đang hình thành. Đây không những là kết quả nghiên

15
cứu lý luận mà còn là quá trình thể nghiệm, tổng kết từ thực tiễn. Nước ta đang
có nhiều thời cơ nhưng cũng đang đứng trước những thách thức nhất đònh. Đường
lối phát triển kinh tế-xã hội nước ta phải được từng bước điều chỉnh, bổ sung cho
phù hợp. Tuy vậy, dù đường lối phát triển kinh tế-xã hội được xác đònh đúng
nhưng nếu thiếu chiến lược, hệ thống quản lý phù hợp thì cũng không thể biến
thành hiện thực.
1.2. Vốn và các hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển
1.2.1. Khái niệm về vốn đầu tư và các hình thức đầu tư
Khái niệm về vốn đầu tư:
Tài sản của một quốc gia bao gồm tài nguyên thiên nhiên, tài sản được
sản xuất ra và tích luỹ lại trong suốt quá trình hình thành và phát triển, nguồn
nhân lực và tri thức.
Quá trình phát triển của mỗi nước luôn đặt ra yêu cầu phải tạo ra tài sản
mới nhằm bù đắp những tài sản tiêu hao trong quá trình sử dụng, đồng thời
không ngừng tăng thêm khối lượng tài sản quốc gia. Để tạo ra tài sản mới phải
đầu tư những yếu tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh như công cụ,
máy móc, nguyên vật liệu, lao động, công nghệ… tất cả các yếu tố đó được xem
là nguồn vốn đầu tư để tạo ra thu nhập, tài sản cho quốc gia.

Vốn đầu tư hiểu theo nghiã rộng là toàn bộ nguồn lực đưa vào hoạt động
của nền kinh tế - xã hội, gồm máy móc thiết bò, nhà xưởng, lao động, tài
nguyên, đất đai, khoa học công nghệ
Vốn hiểu theo nghiã hẹp là nguồn lực được thể hiện bằng tiền của mỗi cá
nhân, doanh nghiệp và của quốc gia.
Các hình thức đầu tư:
Hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn để phục hồi và tạo ra năng lực sản
xuất kinh doanh mới. Đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố phục vụ
cho quá trình sản xuất ra hàng hoá và dòch vụ để làm tăng tài sản quốc gia.
Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới hai hình thức:
Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng
như phương thức hoạt động của các lọai vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này
có thể được thực hiện dưới các dạng: hợp đồng, liên doanh, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn.

16
Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại
hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp thường được
thực hiện dưới dạng: cổ phiếu, tín phiếu… Hình thức đầu tư này thường ít gặp rủi
ro hơn so với đầu tư trực tiếp.
1.2.2. Nhu cầu vốn đầu tư
Các quốc gia đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội nhu
cầu vốn đầu tư rất lớn.
- Nhu cầu đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng:
Hạ tầng là cơ sở nền móng đầu tiên. Ở các nước đang phát triển do trình
độ phát triển thấp nên các cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, hệ thống cấp
nước, bến cảng, sân bay, bưu chính viễn thông … còn yếu kém. Sự yếu kém về
cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nhu cầu vốn đầu tư

cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn, trong khi các nước đang phát triển lại
trong tình trạng nghèo, thiếu vốn.
- Nhu cầu đầu tư cho giáo dục, đào tạo:
Qua kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước phát triển cho thấy,
những nước thành công nổi bật trong phát triển kinh tế là những nước chú trọng
đầu tư cho giáo dục đào tạo. Có thể nói giáo dục đào tạo là một dạng quan trọng
nhất của sự phát triển tiềm năng con người. Sự phát triển tiềm năng con người
có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế.
Các nước hầu hết thường dành một phần rất lớn từ NSNN để chi cho giáo
dục đào tạo. Cùng với sự đầu tư của Chính phủ, các nước còn cho phép huy động
thêm các nguồn đầu tư khác của tư nhân, viện trợ, các tổ chức phi chính phủ… để
phát triển giáo dục và đào tạo.
- Nhu cầu đầu tư cho tiến bộ kỹ thuật, khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ đóng vai trò nền tảng, động lực trong quá trình
CNH-HĐH. Việc đầu tư vốn cho khoa học - công nghệ sẽ tạo ra cơ sở vật chất
kỹ thuật cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển khoa học - công nghệ là một hoạt động đòi hỏi phải đầu tư lớn,
lâu dài, phải có đủ vốn và phải chấp nhận rủi ro trong quá trình nghiên cứu, áp
dụng.
- Nhu cầu đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế:

17
Đầu tư của các doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc cung cấp
hàng hoá và dòch vụ cho xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách, tạo công ăn việc
làm. Trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp thường xuyên đầu tư thêm xây
dựng nhà xưởng và trang thiết bò, máy móc công nghệ mới để nắm lấy những cơ
hội có lợi mở rộng sản xuất. Để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, các
nước rất coi trọng việc thu hút vốn đầu tư cho các doanh nghiệp.
1.2.3. Huy động vốn

Trong nền kinh tế thò trường, để tồn tại và phát triển, các chủ thể cần phải
có nguồn lực tài chính nhất đònh. Chức năng huy động nguồn tài chính, hay còn
gọi là chức năng huy động vốn, thể hiện khả năng tổ chức khai thác các nguồn tài
chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Chức năng huy động vốn được thực hiện trên cơ sở tương tác giữa các yếu
tố :
* Chủ thể cần vốn.
* Các nhà đầu tư.
* Hệ thống tài chính gồm thò trường tài chính và các đònh chế tài chính.
* Môi trường tài chính và kinh tế.
Cần thấy rằng, sự huy động nguồn lực chỉ đặt ra khi các chủ thể không đủ
khả năng tự tài trợ, và do vậy họ cần phải huy các nguồn lực được cung cấp từ
hệ thống tài chính. Huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thò trường, quan hệ cung
cầu và giá cả của vốn. Thực hiện chức năng này yêu cầu các chủ thể phải thiết
lập chính sách huy động vốn có hiệu quả trên cơ sở phân tích các yếu tố như là
tính toán nhu cầu và quy mô vốn cần huy động, lựa chọn các công cụ tài chính
và đòn bẩy kinh tế trong huy động vốn. Các yêu cầu đặt ra cho chính sách huy
động vốn là:
* Về thời gian : Sự huy động vốn phải đáp ứng kòp thời nhu cầu vốn để
giảm thiểu các tổn thất nẩy sinh do thiếu hụt vốn.
* Về kinh tế : chi phí chấp nhận được và có tính cạnh tranh.
* Về mặt pháp lý : mỗi chủ thể phải biết vận dụng các phương pháp huy
động vốn sao cho thích hợp với khuôn khổ luật pháp cho phép. Chẳng hạn, trong
khu vực công, thuế là phương thức huy động nguồn thu cơ bản để cân đối ngân
sách. Trong trường hợp ngân sách bò mất cân đối, chính phủ phải thực hiện chính
sách vay nợ trong và ngoài nước với mức giới hạn cho phép để sao cho giữ kỷ
luật tài khóa. Đối với khu vực tư, tùy theo loại hình tổ chức doanh nghiệp có thể
lựa chọn phương thức huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay

18

vay nợ từ các đònh chế tài chính. Còn các cá nhân, hộ gia đình khi cần vốn có
thể thực hiện cơ chế vay nợ từ các đònh chế ngân hàng…
Nhìn chung, tính hiệu quả huy động vốn phụ thuộc nhiều vào sự phát triển
hệ thống tài chính và khuôn khổ pháp lý ràng buộc cơ chế vận hành của hệ
thống tài chính.
1.2.4. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế
1.2.4.1. Tốc độ tăng đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả hai mặt: tổng cung và tổng
cầu. Trong hàm tổng cầu thì đầu tư là một thành phần của tổng cầu. Hàm tổng
cầu có dạng như sau:
Y = C + I + G + X – M (1)
Trong đó:
Y : sản lượng hay thu nhập quốc dân.
C : tiêu dùng dân cư.
I : đầu tư.
G : chi tiêu của nhà nước.
X : xuất khẩu.
M : nhập khẩu.
Từ đẳng thức (1) ở trên chúng ta thấy rằng khi đầu tư I tăng lên thì trực
tiếp làm cho thu nhập quốc dân Y tăng lên. Theo lý thuyết Kenyes thì khi đầu tư
tăng lên một đơn vò thì làm cho Y tăng hơn một đơn vò. Thật vậy, khi thay thế C
= a + bY và M = u + vY là hàm tiêu dùng và hàm nhập khẩu biểu diễn theo Y
thì đẳng thức (1) có dạng:
Y = (a + I +G + X – u) / (1 – b + v) (2)
Vì b là hệ số thiên hướng tiêu dùng biên (marginal presensity to
consume), bao gồm tiêu dùng trong nước và tiêu dùng nhập khẩu; v là hệ số
thiên hướng tiêu dùng nhập khẩu (marginal presensity to import). Do đó, (b – v)
sẽ lớn hơn 0 và (1 – b + v) sẽ nhỏ hơn 1, tức là 1/(1 –b +v) sẽ lớn hơn 1. Và từ
đẳng thức (2) cho thấy: với các điều kiện khác không đổi thì khi đầu tư I gia
tăng 1 đơn vò thì thu nhập Y sẽ gia tăng hơn 1 đơn vò. Ảnh hưởng trên gọi là ảnh

hưởng hệ số nhân (Multiplier effect).
Ảnh hưởng khác của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cung
thể hiện ở chỗ là: vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn được
kết hợp với lao động và tài nguyên, thông qua quá trình sản xuất, sẽ tạo ra của
cải vật chất trong xã hội. Nhiều nghiên cứu đi đến kết luận vốn là nhân tố quan

19
trọng nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế. Vốn không chỉ đóng góp trực tiếp vào tăng
trưởng kinh tế với tư cách là đầu vào của sản xuất (đóng góp về mặt lượng) mà
còn đóng góp một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật do các
đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ quy mô lớn (tức là với một ngành,
việc đầu tư mở rộng quy mô sẽ làm giảm chi phí sản xuất – do chuyên môn
hóa…). Đây là những đóng góp về “chất” của đầu tư, tức là hiệu quả của nền
kinh tế đã được nâng cao.
1.2.4.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế
Trong quá trình đầu tư để tạo sự tăng trưởng và phát triển thì yếu tố vật
chất có tính tiền đề không thể thiếu được đó là vốn. Chính từ sự phát triển của
các nước cho thấy vốn là một nhân tố đặc biệt quan trọng, là chìa khoá của sự
thành công về tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thể hiện ở các mặt sau:
Đối với các đơn vò kinh tế:
Vốn là nhân tố tiền đề cho ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi đơn vò kinh
tế. Là một phạm trù tài chính, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được quan niệm
như là khối lượng giá trò, được tạo lập và đưa vào kinh doanh nhằm mục đích
sinh lợi. Như vậy, vốn được biểu hiện bằng giá trò và đại diện cho một khối
lượng tài sản nhất đònh. Giữa vốn và tiền có quan hệ với nhau. Muốn có vốn thì
phải có tiền, song có tiền thậm chí những khoản tiền lớn cũng không phải là
vốn. Một khối lượng tiền được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp khi đáp
ứng các điều kiện như tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực;
tiền phải được tích tụ và tập trung đủ để đầu tư cho một dự án; tiền phải được

vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn vừa là nhân tố đầu vào, đồng thời vừa là
kết quả phân phối thu nhập đầu ra của quá trình đầu tư. Chính trong quá trình đó,
vốn tồn tại với tư cách là một nhân tố độc lập, không thể thiếu được. Vốn khi
được đầu tư và sau một thời gian hoạt động phải được thu về để tiếp ứng cho chu
kỳ kinh doanh sau; không thể mất đi mà vốn phải được bảo toàn và phát triển.
Đối với nền kinh tế quốc dân:
- Tác động của vốn đến cân bằng kinh tế vó mô:
Một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển là đòi hỏi phải đảm bảo sự cân bằng kinh tế vó mô, trong đó giữa tiết
kiệm và đầu tư phải có sự cân đối để nền kinh tế vừa có đủ vốn cho đầu tư phát
triển, vừa tiêu hoá số tiền tiết kiệm một cách hiệu quả. Vốn chính là hiện thân
của sự kết hợp giữa tiết kiệm và đầu tư. Số tiền tiết kiệm được gọi là vốn khi

20
được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất đònh để đưa vào đầu tư. Nền kinh tế
có tiết kiệm mới có cơ hội tăng thêm số vốn hiện hữu, qua đó mở rộng quy mô
đầu tư. Thế nhưng, trong nền kinh tế thò trường, tiết kiệm và đầu tư được thực
hiện bởi các chủ thể khác nhau. Công chúng quyết đònh tiết kiệm bao nhiêu
trong thu nhập của mình và doanh nghiệp quyết đònh mở rộng quy mô đầu tư ở
mức độ nào, tất cả đều là những biến cố độc lập. Vì vậy, giữa tiết kiệm và đầu
tư khó ăn khớp với nhau, nên dễ dẫn đến tình trạng nền kinh tế bò thừa hoặc
thiếu vốn làm cho sự phát triển không ổn đònh, tăng trưởng thấp, thất nghiệp gia
tăng… Vì vậy, để ổn đònh nền kinh tế và thiết lập sự cân bằng giữa tiết kiệm và
đầu tư đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước. Ở những nền kinh tế đang phát
triển, trong thời kỳ công nghiệp hóa, nhu cầu vốn đầu tư thường vượt xa số tiền
tiết kiệm có được, các nền kinh tế đó phải huy động một lượng vốn lớn từ bên
ngoài để bổ sung vào sự thiếu hụt đó. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ các
dòng vốn nước ngoài, thực hành tiết kiệm để nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trong
nước.
- Vốn tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, thiếu vốn

những nguồn lao động, tài nguyên chỉ nằm dưới dạng tiềm năng. Muốn khai thác
các nguồn lực này đòi hỏi nền kinh tế luôn phải duy trì một tỷ lệ vốn đầu tư nhất
đònh.
- Tác động của vốn đến việc phát triển cơ sở hạ tầng và sự chuyển dòch cơ
cấu kinh tế. Đầu tư vốn vào xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ tạo nền tảng
cho sự phát triển kinh tế. Ngân hàng Thế giới đã nhận đònh sự gia tăng tổng sản
phẩm quốc gia thường tương ứng với sự gia tăng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Vì vậy, muốn phát triển kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn để đầu tư vào cơ
sở hạ tầng.
- Mặt khác, để đạt được mục đích phát triển kinh tế nhanh và bền vững,
đòi hỏi nền kinh tế phải tạo ra cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và lãnh thổ cân đối hài
hòa. Vốn chính là nhân tố đặc biệt quan trọng để khai thác hiệu quả các nguồn
lực tiềm năng, tạo ra động lực đẩy mạnh chuyển dòch cơ cấu theo hướng tối ưu.
1.2.5. Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư
Cầu đầu tư là dự đònh (kế hoạch) đầu tư của chủ đầu tư nhằm thay thế và
tăng thêm giá trò tài sản cố đònh hay dự trữ tài sản lưu động. Giá trò những tài sản
này là để đáp ứng yêu cầu của sản xuất hoặc tiêu thụ trong tương lai.
Cầu đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào nhòp tăng nhu cầu sản phẩm hàng hóa
và dòch vụ. Nhìn chung không có mối quan hệ chặt giữa khối lượng sản xuất

21
hiện thời với sự biến đổi nhu cầu và sản xuất sản phẩm được dự báo cho tương
lai.
Toàn bộ khối lượng cầu vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư tăng tài sản cố đònh
và vốn đầu tư tăng tài sản lưu động. Vậy những yếu tố nào xác đònh độ lớn của
cầu vốn đầu tư ? Có hai loại nhân tố ảnh hưởng đến cầu vốn đầu tư đó là nhân tố
lãi suất tiền vay (giá cả của vốn đầu tư) và các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay.
1.2.5.1. Lãi suất tiền vay
Yêu cầu của sản xuất đòi hỏi cần tăng thêm máy móc, thiết bò, phương
tiện… nhằm mở rộng năng lực sản xuất, cho phép hạ thấp chi phí sản xuất. Tuy

nhiên, trong mọi trường hợp, cần phải có sự so sánh giữa lợi ích mang lại do sử
dụng các máy móc, phương tiện mới, thể hiện qua phần lợi nhuận tăng thêm, với
khoản chi phí cho đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, lợi ích chỉ thật sự có được trong tương
lai, trong khi vốn đầu tư lại phải bỏ ra ngay tại thời điểm hiện tại. Các nhà đầu
tư thường có xu hướng thanh toán các khoản đầu tư bằng cách vay vốn. Do đó
phải trả lời được câu hỏi liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại có cao hơn so với mức
lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay không ? Chủ đầu tư chỉ nên
đầu tư khi và chỉ khi lợi nhuận thực dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là
bằng so với mức lãi suất tiền vay phải trả. Đương nhiên, khi lãi suất tiền vay
càng tăng thì thu nhập biên sẽ càng giảm, nhu cầu đầu tư giảm và ngược lại.
Vào cùng một thời điểm, có thể có rất nhiều dự án đầu tư. Số lượng dự án
đầu tư phụ thuộc vào mức lãi suất tiền vay. Khi mức lãi suất tiền vay càng cao,
thì số dự án thỏa mãn được yêu cầu trên càng ít và ngược lại khi mức lãi suất
tiền vay thấp, sẽ có nhiều dự án đầu tư hơn làm khối lượng cầu vốn đầu tư tăng.
1.2.5.2. Các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay
Chu kỳ kinh doanh:
Một sự đầu tư sẽ đem lại thêm thu nhập, nếu đầu tư dẫn đến tiêu thụ được
nhiều sản phẩm hơn hoặc tạo ra chi phí sản xuất thấp hơn. Do đó yếu tố rất quan
trọng quyết đònh đầu tư là mức sản lượng của đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho
rằng, mức sản lượng này chòu ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh. Ở vào mỗi thời
kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức nhu cầu đầu tư khác
nhau.
Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở
rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng. Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi
xuống, quy mô của nền kinh tế bò thu hẹp lại, nhu cầu đầu tư giảm.

22
Thuế thu nhập của doanh nghiệp:
Cùng với lãi suất, các quy đònh về thuế của Chính phủ cũng ảnh hưởng
đến nhu cầu của đầu tư, đặc biệt là thuế thu nhập của doanh nghiệp. Nếu Chính

phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của
các doanh nghiệp giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác, Chính phủ cũng
có thể kích thích đầu tư bằng hình thức miễn giảm thuế đối với các khoản lợi
nhuận dùng để tái đầu tư.
Môi trường đầu tư:
Đầu tư thường được ví như một canh bạc. Các nhà đầu tư đặt cược một số
tiền lớn trong điều kiện hiện tại và hy vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn trong
tương lai. Do vậy, đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong
điều kiện kinh tế thò trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi
trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu
quả của các dự án đầu tư. Đó là thực trạng của cơ sở hạ tầng, những quy đònh
của pháp luật đầu tư, nhất là những quy đònh có liên quan đến lợi ích tài chính
(chế độ thuế, giá nhân công…); chế độ đất đai (quy chế thuê mướn, chuyển
nhượng, thế chấp, giá cả…); các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trò – xã
hội… Nếu những yếu tố trên đây thuận lợi sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư
và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư,
Chính phủ giữ một vai trò quan trọng, Chính phủ nên quan tâm đến việc đưa ra
các chính sách nhằm tăng được lòng tin trong đầu tư và kinh doanh.
1.2.6. Nguồn vốn đầu tư
Trong tổng thu nhập của mỗi nước, sau khi trừ đi phần tiêu dùng, còn lại là
phần để bù đắp và tích luỹ. Quỹ bù đắp và quỹ tích luỹ chính là nguồn gốc hình
thành vốn đầu tư, trong đó quỹ tích luỹ là bộ phận quan trọng nhất.
Quỹ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Nền kinh tế càng
phát triển thì tỉ lệ tích luỹ càng cao. Đối với các nước đang phát triển, do thu
nhập còn thấp nên quy mô và tỉ lệ tích lũy đều thấp, trong khi nhu cầu về vốn
đầu tư rất cao, do đó rất cần đến nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặt khác,
trong xu hướng chu chuyển vốn quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, ngay
cả các nước phát triển vẫn cần có sự kết hợp giữa vốn đầu tư trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế. Như vậy vốn đầu tư có được của mỗi nước hình thành
từ tiết kiệm trong nước và tiết kiệm của nước ngoài.

1.2.6.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước

23
Nguồn vốn đầu tư trong nước hình thành từ tiết kiệm của NSNN, tiết kiệm
của các doanh nghiệp và tiết kiệm của khu vực dân cư.
- Tiết kiệm của NSNN: là số chênh lệch dương giữa tổng các khoản thu
mang tính không hoàn lại (chủ yếu là thuế) với tổng chi tiêu dùng của NS. Tiết
kiệm ở khâu tài chính này sẽ hình thành nên nguồn vốn đầu tư của nhà nước.
Nghóa là, số thu nhập tài chính mà NS tập trung được không thể xem ngay đó là
nguồn vốn đầu tư của nhà nước, điều này còn tùy thuộc vào chính sách chi tiêu
dùng của NS. Nếu quy mô chi tiêu dùng vượt quá số thu nhập tập trung thì nhà
nước không có nguồn để tạo vốn cho đầu tư.
Đối với các nước đang phát triển, do tiết kiệm của nền kinh tế còn hạn
chế, cho nên, để duy trì sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng đầu tư đòi hỏi nhà
nước phải gia tăng tiết kiệm NSNN trên cơ sở kết hợp chính sách thuế và chi
tiêu.
- Tiết kiệm của các doanh nghiệp: là số lãi ròng có được từ kết quả kinh
doanh. Đây là nguồn tiết kiệm cơ bản để các doanh nghiệp tạo vốn cho đầu tư
phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Quy mô tiết kiệm của các doanh nghiệp
phụ thuộc vào các yếu tố như hiệu quả kinh doanh, chính sách thuế, sự ổn đònh
kinh tế vó mô…
- Tiết kiệm của các hộ gia đình và tổ chức đoàn thể xã hội (khu vực dân
cư): là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối và sử dụng cho mục
đích tiêu dùng. Quy mô tiết kiệm của khu vực dân cư chòu ảnh hưởng bởi các
nhân tố trực tiếp như: trình độ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người,
chính sách lãi suất, chính sách thuế và sự ổn đònh kinh tế vó mô…
Trong nền kinh tế thò trường, số tiền tiết kiệm của khu vực dân cư có thể
chuyển hoá thành nguồn vốn cho đầu tư thông qua các hình thức gởi tiết kiệm
vào các TCTD, mua chứng khoán, trực tiếp đầu tư kinh doanh Có thể nói, tiết
kiệm của khu vực dân cư giữ vò trí rất quan trọng trong hệ thống tài chính. Chẳng

hạn, nếu tiết kiệm NSNN không đáp ứng đủ nhu cầu chi đầu tư thì buộc nhà
nước phải tìm đến nguồn vốn tiết kiệm của khu vực này để thỏa mãn bằng cách
phát hành trái phiếu chính phủ. Tương tự, đối với khu vực tài chính doanh nghiệp
cũng vậy. Thông qua thò trường tài chính các doanh nghiệp có thể huy động
nguồn vốn tiết kiệm của khu vực dân cư bằng nhiều hình thức rất phong phú như
phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn từ các TCTD…
Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập ở
hiện tại để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao

24
hơn nữa nhu cầu tiêu dùng cho tương lai. Tuy vậy, do nguồn tiết kiệm trong nước
thấp không đáp ứng đủ nhu cầu vốn nên cần phải thu hút nguồn vốn nước ngoài
để tạo ra cú hích cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế.
1.2.6.2. Nguồn vốn nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực
tiếp. Vốn đầu tư gián tiếp là những khoản đầu tư thực hiện thông qua các hoạt
động cho vay và viện trợ bao gồm viện trợ phát triển chính thức (ODA) và viện
trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của các
chủ thể kinh tế nước ngoài và được huy động thông qua các hình thức cơ bản
sau:
Viện trợ phát triển chính thức: (ODA: Official Development Assistance)
Đây là nguồn tài trợ phát triển do các cơ quan chính thức (chính quyền
trung ương hay đòa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho
các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các
nước này. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản cho vay
với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối lượng vốn vay và thời hạn thanh
toán, nhằm vào hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ các chương trình dự án.
Nguồn vốn ODA tuy có ưu điểm về chi phí sử dụng, nhưng các nước tiếp
nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt những thử thách rất lớn đó là gánh

nặng nợ quốc gia trong tương lai, chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt
khe về thủ tục chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trò.
Mỗi tổ chức, mỗi chính phủ đều có những phương cách và thông lệ riêng trong
việc cung cấp ODA nhằm để đạt được những mục tiêu chính sách riêng của họ.
Với những ràng buộc về chính trò không phải nước nào cũng có thể nhận được
viện trợ hoặc sử dụng có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng của mình. Còn đối
với điều kiện về kinh tế, điển hình nhất là IMF và WB đều đưa ra cung cách áp
đặt nước nhận tài trợ phải tiến hành những chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh
tế theo một khuôn khổ rất cứng nhắc. Thực tế, cung cách đó đã mang lại những
hệ quả tốt lẫn xấu trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này.
Các khoản ODA của nước ngoài dành cho Việt Nam là nguồn thu quan
trọng của NSNN được chính phủ thống nhất quản lý và sử dụng cho những mục
tiêu ưu tiên của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội.
Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ: (NGO: Non–Government
Organization) cũng đang có những thay đổi. Trước đây, NGO chủ yếu là viện trợ

×