Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.02 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
ĐỀ TÀI: THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Lớp :
MSSV :
Tháng 12- năm 2014
ch¬ng I
1
KháI quát chung về thị trờng bảo hiểm
I. sự RA Đời Và Phát Triển Của Bảo Hiềm.
l. Nguồn gốc ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm thế giới.
Bất cứ ngành nghề nào đều ra đời từ nhu cầu đòi hỏi khách quan trong
những điều kiện nhất định.
Cho đến nay, cha ai có thể xác định chính xác nguồn gốc của bảo hiểm
bắt đầu từ bao giờ, nhng mọi ngời công nhận các hoạt động sơ khai, mang
tính bảo hiểm đã có từ rất lâu. Các hoạt động đó đáp ứng nhu cầu bảo vệ cuộc
sống con ngời ở mọi nơi, mọi lúc trớc những rủi ro trong cuộc sống. Cùng với
sự phát triển của xã hội, các nhu cầu trở nên đa dạng và phức tạp hơn, cả về
quy mô, mức độ và thời hạn. Theo đó, các hoạt động để đáp ứng nhu cầu ấy
cũng phát triển một cách tơng ứng. Các hoạt động này dần dần đợc quy định
lại một cách chính thức, hợp pháp theo các tiêu chuẩn khác nhau và có tên gọi
chung là bảo hiểm.
Những nghiên cứu về lịch sử phát triển của hoạt động bảo hiểm cho
thấy hoạt động bảo hiểm trong quá trình phát triển đã trải qua 3 hình thái: dự
trữ thuần túy, cho vay nặng lãi và cuối cùng là hình thức thỏa thuận ràng buộc
trách nhiệm các bên.
1.l. Dự trữ thuần túy.


Những bằng chứng lịch sử cho thấy từ rất xa xa cho đến nay con ngời
đã ý thức đợc việc tự bảo vệ để tồn tại, trong đó vấn đề đầu tiên là dự trữ thức
ăn kiếm đợc hàng ngày phòng khi đói kém.
Ví dụ: vào những năm 2.500 trớc công nguyên (TCN) - hơn 4.000 năm
trớc đây, ở Ai Cập những ngời thợ đẽo đá đã biết thiết lập quỹ để giúp đỡ nạn
nhân của các vụ tai nạn.
1.2. Cho vay nặng lãi.
Hệ thống cho vay phát triển cùng với sự mở rộng thơng mại và buôn
bán giữa các quốc gia, các vùng, các châu lục. Dấu ấn đáng chú ý là: hệ thống
vay mợn lãi suất cao để mua và vận chuyển hàng hóa ở Babylon (khoảng
l.700 năm TCN) và AThen (khoảng 500 năm TCN). Khi hàng hóa bị mất
trong quá trình vận chuyển thì ngời đi vay sẽ không phải trả khoản tiền đã
vay. Khiếm khuyết của hệ thống này là lãi suất hà khắc, có khi lên đến 40%
và phải trả trớc (Nghiên cứu lịch sử phát triển bảo hiểm cho thấy phần lãi suất
cho vay đợc khấu trừ trớc nay là dấu hiệu của phí bảo hiểm ngày nay). Do
2
vậy, nhà thờ và các hội tôn giáo đã can thiệp bằng các sắc lệnh để chấm dứt
hoạt động cho vay nặng lãi. (Trích: Đại cơng về BH và BH nhân thọ - Tổng
công ty BHVN)
Vì nhu cầu cần tiền và cần sự đảm bảo cho chuyến hàng của các nhà
buôn vẫn rất lớn, đặc biệt khi thông thơng buôn bán đang phát triển và mang
lại lãi suất rất cao, các hình thức khác đã ra đời.
1.3. Thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên.
Để giải quyết nhu cầu tiền vốn và nhu cầu giảm các thiệt hại lớn cho
các nhà buôn, có 2 phơng pháp khả thi. Đó là:
a. Hình thức cổ phần.
Chuyến hàng đợc tạo lập bằng sự đóng góp của nhiều ngời. Mỗi ngời
góp một phần nào đó (bằng tiền hoặc hàng hóa) vào chuyến hàng và cùng
chịu trách nhiệm theo phần đóng góp đó. Khi chuyến hàng về đến đích, lợi
nhuận sẽ đợc chia cho mọi ngời theo tỷ lệ đóng góp cổ phần. Nếu chuyến

hàng chẳng may gặp rui ro thì hậu quả thiệt hại cũng đợc chia sẻ cho nhiều
ngời. Hình thức này giảm đợc gánh nặng tổn thất cho nhiều ngời cùng gánh
chịu. Nhng nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế nh: kêu gọi cho đủ ngời tham gia góp
cổ phần sẽ mất nhiều thời gian, phải dàn xếp thỏa thuận chia sẻ trách nhiệm
và quyền lợi
b. Hình thức bảo hiểm.
Những thỏa thuận bảo hiểm đầu tiên xuất hiện gắn liền với hoạt động
giao lu buôn bán hàng hóa bằng đờng biển. Những thỏa thuận bảo hiểm trong
lĩnh vực hàng hải có nội dung cơ bản nh sau:
Một bên là nhà buôn, chủ tàu chấp nhận trả một khoản tiền nhất định,
nếu hàng hóa, tàu thuyền không đến đợc nơi giao hàng do một số nguyên
nhân nhất định thì bên thứ hai (Ngời bảo hiểm) sẽ trả bên thứ nhất một khoản
tiền nhằm bù đắp cho những thiệt hại đã xảy ra. Nh vậy, có thể coi bảo hiểm
hàng hải là sự khởi đầu của ngành bảo hiểm. Bản hợp đồng bảo hiểm cổ nhất
còn lu lại đợc phát hành tại thành phố cảng Genoa - Italia, vào năm 1347. Sau
đó, cùng với cuộc cách mạng thơng mại vào thế kỷ 14, 15 thúc đẩy sự mở rộng
vận tải hàng hải, bảo hiểm hàng hải cũng phát triển mạnh mẽ.
Hoạt động bảo hiểm ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã
hội xoài ngời. Hoạt động này đã đáp ứng đợc những nhu cầu cấp thiết về an
toàn của con ngời trong cuộc sông và sinh hoạt. Bảo hiểm hàng hải là loại bảo
3
hiểm đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm. Sau đó, lần lợt là bảo hiểm
hỏa hoạn, bảo hiểm nhân thọ và các loại bảo hiểm khác.[8]
b1. Bảo hiểm hỏa hoạn:
Vụ cháy lớn ở Anh vào năm 1666 đã thiêu hủy trên 13.000 tòa nhà, là thảm
họa lớn nhất từ trớc cho đến thời điểm đó. Nhu cầu về cơ chế bảo hiểm cho tài sản
trớc rủi ro cháy dẫn tới sự ra đời của các công ty bản hiểm trong lĩnh vực hỏa
hoạn. Năm 1667, công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã ra đời ở nớc Anh. [8]
b2. Bảo hiểm nhân thọ:
Công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu

tiên đợc thành lập ở Anh vào năm 1762. Có thể nói rằng nớc Anh là chiếc nôi
của ngành dịch vụ bảo hiểm thế giới. Cho đến ngày nay, đây vẫn là trung tâm
của các hoạt động bảo hiểm.
b3. Các loại bảo hiểm khác.
Cuối thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp
cơ khí, hàng loạt các nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện và phát triển rất nhanh:
bảo hiểm ô ô, bảo hiểm máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Ngày nay, bảo hiểm đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã
hội. Ngành bảo hiểm thơng mại đang giữ một vị trí rất quan trọng trong nền
kinh tế nhiều quốc gia, đặc biệt là các nớc phát triển.
2. Sự phát tiền của ngành bảo hiểm thế giới.
Ngày nay ngành bảo hiểm trên thế giới đã trở thành một ngành rất lớn
mạnh. Các hoạt động bảo hiểm bao trùm lên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và
thị trờng bảo hiểm rộng lớn cũng tác động mạnh mẽ lên các thị trờng khác.
2.1. Các thị trờng bảo hiểm Châu Âu.
Châu Âu là cái nôi của bảo hiểm hiện đại và vẫn là một thị trờng chủ
yếu tầm thế giới với tốc độ phát triển nhanh, nhất là ngành bảo hiểm Nhân thọ
và Tiết kiệm.
Dới ảnh hởng của ủy ban Châu Âu, các nớc thuộc Liên minh Châu Âu
(có 15 nớc từ năm 1995) triển khai dần dần một thị trờng bảo hiểm chung, nh-
ng vẫn cha thống nhất về mặt pháp lý (hợp đồng, trách nhiệm dân sự), cũng
nh vấn đề thuế.Ba thị trờng chính của Châu Âu là Đức, Anh và Pháp. Thị tr-
ờng bảo hiểm của một số nớc Tây Âu khác từ lâu có sự năng động vợt qua
ban giới quốc gia nh: Thụy Sĩ, Hà Lan, ý, Thụy điển, Luxembourg. Thị trờng
các nớc Nam Âu, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, có tốc độ phát triển nhanh nhất.
Các nớc Đông Âu, đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế nhà n-
4
ớc sang nền kinh tế tự do hơn, có những chuyển biến sâu sắc, tăng trởng mạnh
và rất sôi động.
ủy ban Bảo hiểm Châu Âu công bố các số liệu thống kê về thị trờng

của 25 Hiệp hội quốc gia là thành viên của ủy ban này. Năm 2001, các số liệu
tổng thể nh sau:
Bảng1: Các chỉ tiêu về Bảo hiểm của 25 quốc gia Châu Âu năm 2001
Doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 251.577 triệu ECU 51,3%
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ 238.669 triệu ECU 48,7%
Tổng doanh thu của hai ngành bảo hiểm trên 490.246 triệu ECU
Số lợng nhân viên của các công ty này 5.303
Phí bảo hiểm nhân thọ theo bình quân đầu ngời 977.256
Phí bảo hiểm phi nhân thọ theo bình quân đầu ngời 492 ECU
Tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ theo BQ đầu ngời 659 ECU
Tỉ lệ: phí bảo hiểm/ Tổng sản phẩm quốc dân 6,9%
Đầu t của các công ty bảo hiểm 2.585.506 triệu ECU
Tỉ lệ: đầu t tài chính/ Tổng sản phẩm quốc dân 37,05% 37,05%
Phí bảo hiểm bình quân mỗi công ty 92 triệu ECU
Số lợng nhân viên trung bình mỗi công ty 184
(Nguồn: Giáo khoa Quốc tế về Bảo hiểm)
Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm Châu Âu tăng
gần 7%, trong đó 5,9% trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và 7,5% là bảo
hiểm nhân thọ. Mặc dù bị giảm so với những năm trớc, nhng việc này vẫn
khẳng định xu hớng tăng đợc duy trì từ nhiều năm nay.
- Doanh thu bảo hiểm Châu Âu tăng nhanh hơn Tổng sản phẩm quốc
nội một cách rõ rệt, năm 1980 chiếm 4% GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) lên
tới 6,9% năm 1999
- Ngành bảo hiểm Nhân thọ tăng nhanh hơn ngành bảo hiểm Thiệt hại,
gán đạt đến sự chín muồi, trừ ở các nớc Nam Âu nơi mà nhu cầu còn rất lớn.
Trong 15 năm gần đây, bảo hiểm Nhân thọ đã tăng nhanh hơn GDP 2,5 lần,
điều này thể hiện một phần tiết kiệm của các hộ gia đình chuyển hớng sang
5
sản phẩm bảo hiểm và nỗi lo lắng của một phần công chúng về tơng lai của
các chế độ bảo hiểm và hu trí của Nhà nớc.

Phần lớn các tập đoàn bảo hiểm Châu Âu hoạt động mạnh ở nớc ngoài
và đã trở thành những công ty đa quốc gia thực sự. Trong vòng 30 năm gần
đây, thị trờng bảo hiểm Châu Âu đã có những tiến triển sâu sắc. Không những
chỉ phát triển rất ổn định mà tất cả các luật bảo hiểm quốc gia cũng biến đổi
sâu sắc dới tác động bền bỉ của giới lãnh đạo Liên minh Châu Âu (EU). Thậm
chí những nớc không nằm trong số 15 nớc thành viên của EU cũng hầu nh
thông qua luật bảo hiểm đợc soạn thảo dựa trên các nguyên tắc của ủy ban
bảo hiểm Châu Âu liên quan đến thị trờng bảo hiểm.
- Thị trờng bảo hiểm Anh:
Chúng ta đã thấy các hoạt động bảo hiểm hiện nay đợc biết đã ra đời
chính tại ý, sau đó là ở các nớc thuộc vùng Địa Trung Hải và vịnh Ban Tích.
Tuy nhiên, một điều không thể chối cãi đợc là các hình thức bảo hiểm hiện
đại lại phát triển chính tại Anh, từ thế kỷ XVII. Sự bành trớng phi thờng về
kinh tế và chính trị của Anh vào thế kỷ XIX đã làm cho các doanh nghiệp Anh
quốc, trong đó có các công ty bảo hiểm phát triển rực rỡ trên thế giới và có
ảnh hởng rất lớn trong một thời gian dài. Rất nhiều ngành bảo hiểm đã đợc
hình thành bởi những
Công ty bảo hiểm Anh và giữ đợc vai trò ngự trị lâu dài nhờ vào năng
lực cao, khả năng bảo hiểm và mạng lới rộng khắp thế giới của các chuyên
gia, công ty tài chính và môi giới bảo hiểm.
Thị trờng bảo hiểm Anh có 926 công ty, năm 2001, đạt doanh thu bảo
hiểm trực tiếp là 227904 triệu USD, bằng 5,97% thị trờng thế giới. Nh vậy,
phí bảo hiểm bình quân đầu ngời là 2.964,2 USD, trong đó 64% là bảo hiểm
nhân thọ. Tỉ trọng bảo hiểm trong GDP đạt l4,33%, cao nhất ở Châu Âu, sau
Thụy Sỹ. [16]
- Các thị trờng bảo hiểm Châu á.
ở Châu á, bảo hiểm bành trớng rất nhanh, cùng với sự phát triển kinh
tế của lục địa này và quá trình tự do hóa kinh tế đang diễn ra tại phần lớn các
nớc có nền kinh tế tập trung. Trong thập kỷ qua, doanh thu bảo hiểm hàng
năm tăng trung bình 15%.

Bảng 2: Các thị trờng bảo hiểm chính ở Châu á năm 1999.
Nớc Doanh thu
bảo hiểm
Tỷ trọng
bảo hiểm
Phí bảo
hiểm bình
Tỷ trọng
bảo hiểm
6
năm 1999
(tr. USD)
nhân thọ
(%)
quân đầu
ngời USD
trong GDP
Nhật Bản 637.256 80,1 5.088 12,78
Hàn Quốc 59.989 77,9 1.337 13,16
Đài Loan 14.397 67,7 678 5,53
Trung Quốc (không kể Hồng Kông) 7.368 31,6 6 1,17
ấn Độ 6.026 70,0 6 2,01
Hồng Kông 5.037 60,9 813 3,51
Israel 5.010 45,5 904 5,78
Thái Lan 4.076 47,6 67 2,43
Singapor 3.678 67,2 1.190 4,25
Malaixia 3.651 49,3 181 4,28
Indonesia 2.380 38,8 12 1,40
Phillipines 1.123 43,4 16 1,52
A rập xê út 712 3,7 40 0,57

Các tiểu vơng quốc ả Rập thống nhất 645 12,7 220 1,69
I ran 507 6,9 7 0,48
Pakistan 478 43,3 4 0,81
Cô oét 188 12,5 111 0,71
Oman 119 17,4 55 0,99
Jordanie 117 19,5 22 1,78
Ba ranh 101 15,8 180 2,24
(Nguồn: Bảo hiểm quốc tế - Trờng Quốc gia Bảo hiểm Paris)
2.2. Tình hình thị trờng bảo hiểm toàn cầu.
Thị trờng bảo hiểm trên thế giới hiện nay đang có những biến đổi sâu
sắc Những ngời có trên 25 năm thâm niên công tác trong ngành bảo hiểm đã
bình luận rằng, họ cha từng thấy tình hình thị trờng bảo hiểm toàn cầu nh hiện
nay:
Khả năng tài chính của thị trờng là khổng lồ, cạnh tranh gay gắt và
không lành mạnh mà hậu quả là phí bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm xấu đi
một cách ghê gớm. Quan điểm chung hiện nay là các nhà bảo hiểm và các
nhà n.hận tái bảo hiểm không còn bảo hiểm rủi ro nữa mà chỉ đơn thuần là
chạy theo những tỉ lệ phí và những điều kiện bảo hiểm mà ngời ta cho là "điên
rồ" và "không thể chịu đựng đợc". Sự thực là khái niệm "định giá đúng" đã bị
lấn át bởi "các lí do thơng mại", và ngày nay bảo hiểm giống nh một thị trờng
hàng hóa thông thờng, nơi mà chất lợng phục vụ và giá trị gia tăng, những nét
đặc trng cơ bản trong hoạt động kinh doanh của bảo hiểm không còn mấy ý
nghĩa so với giá cả (phí bảo hiểm). Đối với một ngành kinh doanh nh ngành
7
bảo hiểm thì đó ít nhất cũng là điều đáng tiếc, đó là điều cực kỳ nguy hiểm
xét về lâu dài đối với cả hai bên: ngời bán bảo hiểm và khách hàng của họ.
Mặt khác, tình trạng "thị trờng mềm" không phải là mới. Nó đã từng
xảy ra trớc đây, nhng có lẽ không phải với mức độ nghiêm trọng nh hiện nay
và với rất ít triển vọng sẽ đợc cải thiện trong những năm tới. Đơng nhiên,
không ai hoài nghi là trong mấy năm qua, các công ty bảo hiểm và tái bảo

hiểm đã thu đợc khá nhiều lợi nhuận. Xét trên góc độ thị trờng bảo hiểm toàn
cầu thì vụ động đất ở Kobe Nhật Bản chỉ là một chấn động nhẹ. Lloydss of
London có vẻ nh vừa mới bình phục sau trận ốm "thập tử nhất sinh" đầu
những năm 90 (Mặc dù bản báo cáo đầu tiên mới công bố gần đây của
Equitas, một cơ quan đóng vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch xây dựng
lại và cải cách của Lloyd's, chắc là đã làm chấn động toàn thị trờng, bởi lẽ
theo báo cáo đó thì những khiếu nại đòi bồi thờng sẽ phải giải quyết trong t-
ơng lai tỏ ra khác xa một cách nguy hiểm so với dự kiến ban đầu).
Bảo hiểm thế giới đã đợc chứng kiến sự tăng lên cha từng thấy của các
khả năng tài chính mới ở Hoa Kỳ, Bermuda và các nơi khác, đặc biệt là trong
lĩnh vực tái bảo hiểm. Ai nấy đều muốn chia phần và cạnh tranh ác liệt, hông
chỉ làm cho phí bảo hiểm giảm xuống một cách đáng kể, mà còn làm giảm cả
chất lợng sản phẩm bảo hiểm. Trớc tình hình đó, tất cả đều buộc phải tập
trung mọi sức lực bảo vệ công việc làm ăn của mình khỏi bị tấn công, cố gắng
đạt đợc sự tăng trởng và thực hiện đợc các mục tiêu chiến lợc về lợi nhuận tr-
ớc sự hiện diện của một "thị trờng mềm", do đó còn đâu thời gian và cảm
hứng để làm những việc nh: tập trung nghiên cứu để cung cấp những sản
phẩm mới có chất lợng cao nhằm đáp ứng các nhu cầu thay đổi hàng ngày, để
hành động một cách chủ động sáng tạo chứ không phải phản ứng một cách
thụ động; để ngẩng cao đầu và nhìn về tơng lai.
Cũng cần nói thêm rằng ngành bảo hiểm đang trải qua những thay đổi
cực kỳ sâu sắc. Một nhóm các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp đang thực hiện
những thay đổi quan trọng về cơ cấu. Việc sáp nhập và mua lại các hãng môi
giới và các công ty bảo hiểm đang diễn ra trên khắp thế giới. Ngày càng có
nhiều công ty tái bảo hiểm đợc thành lập để cung cấp các giải pháp mới về
bảo hiểm mức vợt trội cho những công ty muốn chọn mức giữ lại cao. Các
giải pháp bảo hiểm trực tiếp không qua trung gian đang trở nên ngày càng phổ
biến.
Cái mà ngời ta đang tập trung phê phán là ngành bảo hiểm đã tỏ ra
không đủ hiệu quả một cách đáng ngại. Những vấn đề về vai trò tơng lai của

8
môi giới và của tái bảo hiểm vẫn cha đợc giải đáp mặc dù ngày càng có nhiều
ngời muốn bỏ hẳn hoặc giảm bớt khâu trung gian, tiết kiệm chi phí và đơn
giản hóa toàn bộ quá trình dịch chuyển từ ngời bán đến ngời mua. Trong khi
đó thì bộ phận còn lại của giới tài chính quốc tế nhảy vào thị trờng, chào bán
các giải pháp cung cấp tài chính mà khách hàng có thể lựa chọn để xử lý rủi
ro nh các phơng tiện phòng chống và các sản phẩm phát sinh vợt ra ngoài
phạm vi các phơng pháp chuyển giao rủi ro truyền thống thông qua bảo hiểm.
Đối với các nhà bảo hiểm chuyên nghiệp quốc tế thì cũng chẳng có gì là chắc
chắn: chỉ có sự thay đổi là chắc chắn mà thôi.
Còn đối với khách hàng thì trớc mắt họ có thể mở tiệc ăn mừng. Họ
giảm đợc nhiều chi phí để mua những sản phẩm văn hóa có điều kiện hời hơn,
họ cảm thấy họ có đợc sự lựa chọn tự do hơn. Một số công ty lớn và công ty
siêu quốc gia đã tiến đến giai đoạn mà sự lựa chọn a thích của họ là hạn chế
tối đa việc sử dụng thị trờng bảo hiểm trong chừng mực có thể. Đó là cách
đáp lại tính không hiệu quả của quá trình bảo hiểm và tái bảo hiểm, một quá
trình dẫn đến trên 40% phí bảo hiểm đợc dùng để chi trả cho quá nhiều bên
tham gia vào một thơng vụ bình thờng, đặc biệt là dới hình thức phụ phí và
hoa hồng, chỉ có phần không lớn còn lại đợc chi cho chức năng bảo vệ thực sự
của bảo hiểm. Đối với một số công ty lớn thì đó cũng là sự đáp lại nguyện
vọng của họ muốn kiểm soát số phận của chính mình và muốn đợc ăn chia
một phần thành quả tài chính mà ngành bảo hiểm giành đợc. Có mấy cách để
họ thực hiện nguyện vọng đó. Đó là thành lập các công ty bảo hiểm "trong
nhà" hay các công ty bảo hiểm nội bộ; săn tìm các giải pháp tài chính mới mà
họ có thể lựa chọn để khắc phục rủi ro; lập ra các nhóm giữ lại rủi ro và các
quỹ điều hòa. Tất cả những cái đó làm giảm quy mô của thị trờng bảo hiểm và
góp phần làm cho cạnh tranh ác liệt hơn.
II. Khái niệm và đặc điểm của thị trờng bảo hiểm.
1. Các khái niệm cơ bản về bảo hiểm - tái bảo hiểm.
1.1. Bảo hiểm.

1.1.1. Khái niệm:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm:
- Theo giáo trình bảo hiểm trờng Đại học Kế toán Hà Nội: Hoạt động
bảo hiểm là việc ngời bảo hiểm nhận trách nhiệm trớc rủi ro, trên cơ sở ngời
tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng, đóng phí bảo hiểm để ngời bảo hiểm bồi
thờng hoặc trả tiền bảo hiểm theo luật thống kê[9]. Khái niệm này mới chỉ nói
lên đợc quy trình bảo hiểm, mà cha nói lên đợc bản chất của bảo hiểm.
9
- Giai đoạn ban đầu phát triển của bảo hiểm thì bảo hiểm đã đợc định
nghĩa là : "Bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm ngời có cùng chung một loại
rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép bồi th-
ờng những thiệt hại mà một số ngời trong nhóm phải gánh chịu khi tổn thất
xảy ra [5]. Khái niệm trên cha đầy đủ, không phải bất cứ thiệt hại nào cũng đ-
ợc bồi thờng, mà chỉ một số những tổn thất đã đợc thoả thuận gây ra.
Nữ hoàng Anh Elisabeth đệ nhất đã từng khẳng định: Nhờ có bảo hiểm
"tổn thất sẽ nhẹ đi nếu đợc chia sẻ cho nhiều ngời và sẽ rất nặng nếu để một ít
ngời gánh chịu" [16]. Những ngời có nhà cửa, khi mua bảo hiểm hoả hoạn,
hàng năm đều phải trả một khoản tiền nhỏ (tơng đơng 0,5%o giá trị ngôi nhà)
để những ngời bất hạnh trong số họ, bị mất nơi ở do cháy, nhận đợc một
khoản tiền bồi thờng cho phép tái thiết lại nhà cửa.
- Còn trong giáo trình bảo hiểm - Trờng Đại học Ngoại thơng: Bảo
hiểm là một sự cam kết bồi thờng của Ngời bảo hiểm đối với Ngời đợc bảo
hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tợng bảo hiểm do một số rủi ro đã
thoả thuận gây ra, với điều kiện ngời đợc bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối
tợng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Khái niệm này
khá đầy đủ nhng cha đề cập đến bản chất của hoạt động bảo hiểm. [7]
- Định nghĩa về bảo hiểm do giáo s Hémard (Pháp) đa ra có tính pháp
lý hơn và đầy đủ hơn cả: ''Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là ngời
đợc bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bản hiểm hay đóng góp bảo
hiểm) cho chính mình hoặc cho một ngời thứ ba khác để trong trờng hợp rủi

ro xảy ra sẽ đợc trả một khoản bồi thờng từ một bên khác là ngời bảo hiểm,
ngời trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật
thống kê [16].
1.1.2. Các nguyên tắc bảo hiểm cơ bản của bảo hiểm :
a) Bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn.
b) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
c) Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm.
d) Nguyên tắc bồi thờng.
e) Nguyên tắc thế quyền. [7]
1.1.3. Phơng pháp phân tán rủi ro của các công ty bảo hiểm.
Rủi ro không chỉ xảy ra đối với những khách hàng mua bản hiểm mà
còn xảy ra cả đối với các công ty bảo hiểm. Khi xảy ra những rủi ro tổn thất
quá lớn thì cộng ty bảo hiểm cũng không đủ khả năng chi trả bồi thờng và sẽ
rơi vào tình trạng phá sản. Do vậy đối với những rủi ro quá lớn các nhà bảo
10
hiểm sẽ tìm cách phân tán rủi ro để đảm bảo khả năng tài chính và ổn định
hoạt động kinh doanh của chính mình. Từ khi bảo hiểm ra đời rất nhiều các
phơng pháp đã đợc áp dụng để phân chia rủi ro và phân tán các rủi ro cho
nhiều nhà bảo hiểm để trong trờng hợp tổn thất xảy ra, cam kết tối đa của mỗi
một nhà bảo hiểm tơng ứng với khả năng tài chính của họ và không làm ph-
ơng hại đến khả năng thanh toán của họ.
Hiện nay có 3 phơng pháp chính đợc áp dụng để phân chia rủi ro. Đó
là: Đồng bảo hiểm, ký kết bảo hiểm theo lớp, tái bảo hiểm.
- Đồng bảo hiểm là sự phân chia theo tỉ lệ cùng một rủi ro giữa nhiều
nhà bảo hiểm, những ngời đợc gọi là các nhà đồng bản hiểm. Mỗi một nhà
đồng bảo hiểm trong số đó chấp nhận một tỉ lệ nào đó của rủi ro tùy thuộc vào
mức chấp nhận riêng của anh ta và sẽ nhận đợc một tỉ lệ tơng ứng nh vậy về
phí bảo hiểm do ngời đợc bảo hiểm và trong trờng hợp tổn thất xảy ra toàn bộ
hay từng phán thì anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thờng theo chính tỉ lệ
đó. Thị trờng thờng xuyên áp dụng hình thức bảo hiểm này là thị trờng Luân

Đôn.
- Phân chia rủi ro theo lớp:
Khi một nhà bảo hiểm có khả năng bảo hiểm ở mức thấp hơn so với
toàn bộ số tiền phải bảo hiểm, anh ta có thể đề nghị bảo hiểm cho rủi ro đầu
tiên tơng ứng với mức chấp nhận của anh ta và đề nghị một nhà bảo hiểm
khác bảo hiểm mức còn lại của lớp đầu tiên này. Đối với các tập đoàn có tầm
cỡ quốc tế, có thể quyết định bảo hiểm các lớp thấp ở các nhà bảo hiểm của n-
ớc nơi mà tập đoàn đó hoạt động (điều đó là một quy định bắt buộc của pháp
luật) và có thể quyết định bảo hiểm các tổn thất thảm họa hoặc bảo hiểm các
khoản tiền lớn nhất ờ các nhà bảo hiểm quốc tế đợc chấp nhận hoạt động tại
nớc mà tập đoàn này đặt trụ sở, đôi khi ngời ta gọi hợp đồng cuối cùng này là
một hợp đồng ''cái ô'' (Umbrella Cover).
- Tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm là phơng pháp thứ ba đợc áp dụng để phân tán các rủi ro
và phân chia tốt hơn các rủi ro giữa các nhà bảo hiểm theo khả năng tài chính
sẵn có của họ để bảo hiểm cho các rủi ro đó.
Ngời ta có thể nói ngời tái bảo hiểm là ngời bản hiểm của các nhà bảo
hiểm. Thật vậy, tái bảo hiểm là một hợp đồng mà qua đó ngời bảo hiểm gốc
trút bỏ tất cả hoặc một phần các rủi ro mà anh ta đã chấp nhận bảo hiểm sang
một ngời khác, đó là ngời tái bảo hiểm.
11
Công ty bảo hiểm nhợng tái bảo hiểm, nhợng lại một phần các rủi ro đã
chấp nhận và các khoản phí tơng ứng. Chính vì vậy, trong một hợp đồng tái
bảo hiểm, ngời bảo hiểm gốc đợc gọi là công ty nhợng, hoặc ngắn gọn hơn
''bên nhợng'' và ngời tái bảo hiểm đợc gọi là ''bên đợc nhợng''. Nh vậy trong
đồng bảo hiểm, có một mối quan hệ hợp đồng trực tiếp giữa ngời đợc bảo
hiểm với mỗi một nhà đồng bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm không hề có một
mối quan hệ nào với các nhà tái bảo hiểm. Ngay cả sau khi đã ký một hợp
đồng tái bảo hiểm, ngời bảo hiểm gốc vẫn giữ toàn bộ các rủi ro mà ngời đó
đã chấp nhận bảo hiểm. Trong trờng hợp tổn thất xảy ra, chính ngời bảo hiểm

sẽ bồi thờng trực tiếp cho ngời đợc bảo hiểm và sau đó sẽ thu về phần mà nhà
tái bảo hiểm phải trả cho mình (trên thực tế chúng ta sẽ thấy là trong trờng
hợp tổn thất xảy ra nghiêm trọng thì nhà tái bảo hiểm có thể ứng trớc cho ngời
bảo hiểm số tiền cần thiết để bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm).
Nh vậy, các hợp đồng tái bảo hiểm luôn luôn do các công ty bảo hiểm
chuyên nghiệp ký. Các hợp đồng tái bảo hiểm không bị sự kiểm tra chặt chẽ
của các cơ quan Nhà nớc nh sự kiểm tra đối với các hợp đồng bảo hiểm nhằm
bảo vệ những ngời đợc bảo hiểm. Vì vậy, nếu bắt buộc phải có các thủ tục
chấp nhận đối với các nhà tái bảo hiểm thì thủ tục đó thờng đơn giản hơn rất
nhiều so với thủ tục của các nhà bảo hiểm gốc.
Tóm lại. Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà ngời bảo hiểm sử dụng
để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với ngời đợc bảo hiểm cho ng-
ời bảo hiểm khác, trên cơ sở nhợng lại cho ngời bảo hiểm đó một phần phí
bảo hiểm thông qua hợp đồng tái bảo hiểm. Nếu nh bảo hiểm là hình thức dàn
trải tổn thất của một ít ngời cho nhiều ngời cùng chịu thì tái bảo hiểm là hình
thức dàn trải một lần nữa những tổn thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh
chịu. Nói một cách ngắn gọn: tái bảo hiểm là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm.
Ưu nhợc điểm của tái bảo hiểm
+ Ưu điểm: Tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm bằng các dịch
vụ bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, đảm bảo tài chính cho các công ty
bản hiểm.
+ Nhng nhợc điểm là: Tái bảo hiểm có thể làm tăng hoặc giảm một
cách đáng kể các chi tiêu tài chính của công ty bảo hiểm.
2. Thị trờng bảo hiểm
2.l - Khái niệm về thị trờng bảo hiểm
Thị trờng là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa.
Có rất nhiều quan điểm về thị trờng và cũng đã có nhiều tài liệu bàn về thị tr-
12
ờng. Có thể nói quan điểm chung nhất về thị trờng là ''thị trờng bao gồm toàn
bộ các hoạt động trao đổi hàng hóa đợc diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với

các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất định''.
[3]
Theo thuật ngữ bảo hiểm, thì trờng bảo hiểm là nơi mua và bán các sản
phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại
sản phẩm vô hình không thể cảm nhận đợc hình dáng, kích thớc, màu sắc v.v
sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không đợc bảo hộ bản quyền, là sản phẩm mà
ngời mua không mong đợi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với mình để đợc bồi
thờng hay trả tiền bảo hiểm (trừ bảo hiểm hu trí, bảo hiểm nhân thọ )
2.2. Các yếu tố cấu thành nên thị trờng bảo hiểm.
2.2. l. Chủ thể của thị trờng bảo hiểm.
Ngời mua hay khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có tài sản,
trách nhiệm dân sự trớc pháp luật, tính mạng hoặc thân thể gặp rủi ro cần bảo
hiểm thì mua các dịch vụ ( sản phẩm ) bảo hiểm hoặc trực tiếp hoặc thông qua
các tổ chức trung gian. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện tại và khách
hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng bao gồm khách hàng hiện
tại và khách hàng tiềm năng của một loại sản phẩm. Khách hàng hiện tại là
khách hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng sản phẩm đó, khách hàng
tiềm năng là khách hàng có thể tham gia vào quá trình mua và sử dụng sản
phẩm đó trong tơng lai.
Mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm
nói riêng là lợi nhuận. Muốn vậy phải tiêu thụ đợc sản phẩm của mình qua
các kênh phân phối sản phẩm. Do đặc điểm hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp bảo hiểm thờng sử dụng kênh phân phối là đại lý và môi giới bảo
hiểm.
Theo thuật ngữ Bảo hiểm, Đại lý bảo hiểm là ngời làm việc cho doanh
nghiệp bảo hiểm thay mặt doanh nghiệp bán các sản phẩm bảo hiểm cho ngời
mua. Còn Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam: ''Đại lý bảo hiểm là tổ chức,
cá nhân đợc ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt
động bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan".(Điều 84,
chơng IV). Nh vậy Đại lý Bảo hiểm là những ngời hoặc tổ chức trung gian

giữa và ngời tham gia bảo hiểm, đại diện cho doanh nghiệp và hoạt động vì
quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý có thể là các tổ chức ngân hàng
hay luật s. Những ngời này làm Đại lý bảo hiểm rất thuận lợi do có sự tiếp
xúc và hiểu biết nhiều khách hàng Trung gian phổ biến trên thị trờng bảo
13
hiểm nhân thọ là Đại lý bảo hiểm thờng là các cá nhân chuyên hoạt động đại
lý. Họ hoạt động tại văn phòng hoặc đi đến từng nhà, từng doanh nghiệp để
bán bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và đàm phán những thay đổi về nhu cầu bảo
hiểm của khách hàng thực tế và tiềm năng.
Cũng là một trong 2 kênh phân phối qua trung gian, nhng môi giới bảo
hiểm lại là hình thức phổ biến của thị trờng bảo hiểm phi nhân thọ. Môi giới
bảo hiểm là ngời trung gian giữa DNBH với khách hàng. Môi giới bảo hiểm
khác với đại lý bảo hiểm một cách cơ bản là nếu Đại lý bảo hiểm đứng về
phía quyền lợi của công ty bảo hiểm thì ngợc lại môi giới bảo hiểm lại đứng
về phía quyền lợi của khách hàng. Họ có nhiệm vụ tham mu, t vân, thu xẹp
các hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng. Môi giới là ngời đợc khách hàng ủy
quyền và luôn luôn hành động vì lợi ích của khách hàng.
Môi giới bảo hiểm thờng nắm rất vững về kỹ thuật nghiệp vụ, đặc biệt
là những thông tin về thị trờng. Về lý thuyết, ngời môi giới sau khi đáp ứng
nhu cầu của khách hàng sẽ tìm kiếm DNBH có thể đáp ứng nhu cầu tốt nhất
với chi phí thấp nhất. Thực tế, môi giới thờng lựa chọn trên thị trờng một
doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều u đãi, sau đó giới thiệu cho khách hàng. Môi
giới bảo hiểm làm cho cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm đợc chắp nối với
nhau, đồng thời góp phần làm tăng uy tín của sản phẩm và doanh nghiệp bảo
hiểm. Ngày nay kênh phân phối bằng môi giới đợc sử dụng nhiều đặc biệt
trong nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm hàng hóa XNK
Thông thờng trên thị trờng bảo hiểm có 2 loại môi giới bảo hiểm. Đó là
môi giới bảo hiểm gốc và môi giới tái bảo hiểm. Môi giới bảo hiểm gốc sẽ
giúp những ngời cần mua bảo hiểm nhng không biết phải mua nh thế nào và
mua ở đâu tìm và kí đợc hợp đồng bảo hiểm phù hợp. Khách hàng có thể trực

tiếp hoặc qua môi giới để mua bảo hiểm. Nhng trong những trờng hợp tái bảo
hiểm thì môi giới tái bảo hiểm lại đặc biệt quan trọng, là ngời không thể thiếu
khi tái bảo hiểm. Hầu hết các DNBH trên thế giới đều yêu cầu môi giới tái
bảo hiểm t vấn, giúp đỡ khi các rủi ro đợc bảo hiểm quá lớn so với khả năng
tài chính của họ trong việc thanh toán bồi thờng tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối
với các rủi ro tiềm ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH phân tích
phạm vi rủi ro để thu xếp tái bảo hiểm khi cần thiết. Thông qua môi giới tái
bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có đợc sự an toàn về tài chính, do đó
sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao hơn cho
xã hội.
2.2.2. Khách thể của thị trờng bảo hiểm.
14
Khách thể của thị trờng bản hiểm chính là sản phẩm bảo hiểm. Từ các
góc độ khác nhau, có thể đa ra các định nghĩa khác nhau về sản phẩm bảo
hiểm. Xét trên góc độ những thứ cơ bản nhất mà khách hàng nhận đợc khi
mua sản phẩm thì sản phẩm bảo hiểm có thể đợc định nghĩa là: Sự cam kết
của DNBH đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm
khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Định nghĩa này xuất phát từ việc khi mua
bảo hiểm, bằng việc trả một khoản tiền nhất định - nộp phí bảo hiểm, bên mua
bảo hiểm (các tổ chức, các cá nhân sẽ đợc DNBH cấp cho Hợp đồng bảo hiểm
(giấy chứng nhận bảo hiểm) xác nhận rằng DNBH sẽ bồi thờng hoặc trả tiền
bảo hiểm cho họ khi xảy ra các sự kiện nh đã thỏa thuận. Thông thờng khi nói
tới ''Sản phẩm bảo hiểm", ngời ta thờng đồng nghĩa với nghĩa với ''nghiệp vụ
bảo hiểm". Cách nói này thờng đợc sử dụng khi phân loại DNBH theo sản
phẩm mà doanh nghiệp cung cấp.
Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm:
Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ, do đó sản phẩm bảo hiểm cũng có
các đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ nh tính vô hình, tính không thể
tách rời và không thể cất trữ đợc, tính không đồng nhất với tính không đợc
bảo hộ bản quyền. Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm còn có các đặc điểm riêng đó

là: Sản phẩm ''không mong đợi", sản phẩm của "chu trình kinh doanh đảo ng-
ợc'' và sản phẩm có hiệu quả ''xê dịch''. Chính vì có những đặc điểm chung và
đặc điểm riêng này nên sản phẩm bảo hiểm đợc xếp vào loại sản phẩm dịch
vụ ''đặc biệt''
a) Đặc điểm chung:
Bảo hiểm là sản phẩm vô hình. Khi mua bảo hiểm, mặc dù khách hàng
nhận đợc các yếu tố hữu hình đó là những tờ giấy trên đó có in biểu tợng của
doanh nghiệp, in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận Nhng
khách hàng không thể chỉ ra đợc màu sắc, kích thớc, hình dáng hay mùi vị
của sản phẩm. Nói một cách khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''vô hình!"
ngời mua không thể cảm nhận đợc sản phẩm bảo hiểm thông qua các giác
quan của mình.
Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm làm cho việc giới thiệu, chào bán
sản phẩm trở nên khó khăn hơn. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, ngời mua chỉ
nhận đợc những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trớc các rủi ro.
Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời - tức là việc tạo ra sản phẩm
dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng và
quá trình tiêu thụ là một thể thống nhất). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm
15
cũng không thể cất trữ đợc - có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm
vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một
thời điểm khác trong tơng lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu
hình.
Đa số các sản phẩm hữu hình có thể đợc sản xuất với số lợng lớn sau đó
đợc lu trữ trong kho bán dần. Còn các sản phẩm dịch vụ thì không thể cất trữ
đợc.
Các nhân viên của doanh nghiệp cũng nh các đại lý bảo hiểm chỉ có
một số giờ nhất định trong một ngày để gặp gỡ khách hàng và số giờ sẵn có
trong ngày không thể mang sang ngày khác. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng
không thể "sản xuất'' trớc một lợng lớn các cuộc kiểm tra các khiếu nại hay

các dịch vụ khách hàng khác và gửi chúng cho các khách hàng có yêu cầu.
Tính không đồng nhất của dịch vụ bảo hiểm, cũng nh các dịch vụ khác,
chủ yếu đợc thực hiện bởi con ngời. Nhng cho dù là ngời có kỹ năng đến đâu
đi chăng nữa thì dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng nhất quán. Ví
dụ, các địa lý khi bán sản phẩm có thể quên các chi tiết, có thể chậm trễ hoặc
mất kiên nhẫn Nhìn chung chất lợng phục vụ của một cá nhân nào đó tại
các thời điểm khác nhau, với các khách hàng khác nhau là khác nhau. Chất l-
ợng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, các yếu tố xung quanh.
Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lợng phục vụ cũng khác nhau.
b) Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm ''không mong đợi". Một trong những
đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không mong đợi. Điều
này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần túy, mặc
dù đã mua sản phẩm - nhng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra
để đợc doanh nghiệp bảo hiểm bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm. Bởi vì rủi ro
một khi đã xảy ra thì đồng nghĩa với thơng tích, thiệt hại thậm chí là mất mát,
do đó số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thờng, chi trả khó có thể bù đắp
đợc. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên vô
cùng khó khăn, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của ''chu trình kinh doanh
đảo ngợc''.
Nếu nh trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm đợc xác
định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bản hiểm, phí bảo
hiểm - giá cả của sản phẩm bản hiểm đợc xác định dựa trên những số liệu ớc
tính về các chi phí có thể phát sinh trong tơng lai nh chi bồi thờng (trả tiền
bảo hiểm), chi hoa hồng, chi tái bảo hiểm Trong đó, khoản chi chiếm tỉ
16
trọng lớn nhất là chi bồi thờng (trả tiền bảo hiểm). Khoản chi này đợc xác
định chủ yếu dựa trên số liệu thống kê quá khứ và các ớc tính tơng lai về tần
suất và quy mô tổn thất.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu

phí của ngời tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm; sau đó nếu có
các sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới phải thực hiện nghĩa
vụ bồi thờng hay chi trả. Do vậy, với việc thu phí trớc, nếu không có hoặc có
ít rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu đợc lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngợc lại,
nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc với quy mô lớn hơn dự kiến, doanh nghiệp
bảo hiểm có thể thua lỗ.
Về phía khách hàng, hiệu quả từ việc mua sản phẩm cũng mang tính
''xê dịch'' - không xác định. Điều này xuất phát từ việc không phải khách hàng
nào tham gia bảo hiểm cũng '' đợc nhận" một số tiền chi trả của doanh nghiệp
bảo hiểm (trừ trờng hợp mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang tính tiết
kiệm).
Ngời bán là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể chia ra: doanh nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp cổ phần,
công ty liên doanh v.v Theo quy mô tổ chức có thể chia ra tổng công ty,
công ty chia theo loại hình kinh doanh thì có công ty bảo hiểm nhân thọ hoặc
phi nhân thọ; bán hàng trực tiếp cho khách hàng hoặc thông qua các tổ chức
trung gian.
2.2.3 Các qui định pháp luật
Bất kì một thị trờng nào hoạt động cũng đều phải tuân thủ theo hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia.Thị trờng bảo hiểm cũng không nằm ngoài
qui luật đó ở những nớc có thị trờng bảo hiểm phát triển nh các nớc Châu Âu,
hệ thống pháp luật thị trờng bảo hiểm rất đầy đủ và chặt chẽ. Đối với thị trờng
bảo hiểm Việt Nam, gần đây luật kinh danh bảo hiểm đã ra đời giúp cho hoạt
động kinh doanh bảo hiểm đợc thuận lợi hơn. Ngoài luật kinh doanh bảo
hiểm, rất nhiều luật khác ảnh hởng nh luật Dân sự , luật Đầu t nớc ngoài.v.v.
2.3. Những đặc trng cơ bản của thị trờng bảo hiểm
Thị trờng bảo hiểm cũng nh các thị trờng khác đều có những đặc trng
chung là:
2.3.1. Cung - cầu về bảo hiểm luôn luôn biến động
Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. Các doanh

nghiệp ngày một nhiều và luôn đa ra thị trờng những sản phẩm mới thích ứng
với thị trờng. Sản phẩm bảo hiểm ngày một nhiều và luôn gắn liền với sự phát
17
triển của khoa học kĩ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và toàn cầu
hóa. Điều đó chứng tỏ sản phẩm bảo hiểm không dừng lại ở con số ban đầu
mà luôn đợc cải tiến, hoàn thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới.
Cầu về bản hiểm của dân c, của các tổ chức xã hội, của doanh nghiệp
cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế
cũng phát triển theo, đời sống vật chất tinh thần của dân c cũng đợc cải thiện.
Do đó, nhu cầu về đa dạng về các dịch vụ bảo hiểm cũng tăng lên. Với
thời kỳ khởi nguyên của bảo hiểm và thị trờng bảo hiểm còn nhỏ bé, các lĩnh
vực bảo hiểm cũng hạn chế.Bạn đầu chỉ xuất hiện bảo hiểm hàng hải vì đây là
lĩnh vực thờng xuyên xảy ra rủi ro và tổn thất lại vô cùng lớn. Rồi sau đó đến
bảo hiểm cháy vì nó mang tính chất thảm họa tổn thất lớn. Còn bây giờ bảo
hiểm đã quá quen thuộc với mọi ngời từ bảo hiểm cho những tài sản công
trình lớn cho đến ô tô xe máy. Thậm chí chúng ta có thể mua bản hiểm cho
đôi chân, cho khuôn mặt, cho đôi mắt của chính mình nếu chúng ta muốn.
Rất nhiều diễn viên, ngời mẫu, ca sĩ đã mua những sản phẩm bảo hiểm mà
chúng ta tởng nh không thể có nh bảo hiểm giọng hát. v.v
Những năm đầu thế kỉ XX, dịch vụ bảo hiểm chỉ có trên dới vài chục
sản phẩm nhng đến nay đã tăng lên hàng trăm, hàng nghìn loại.
Cung và cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì
cung tăng và ngợc lại.
2.3.2 - Giá bảo hiểm phụ thuộc nhiều nhân tố.
Trong thị trờng hàng hóa, chúng ta đã quá quen với khái niệm giá cả
của hàng hóa. Đó là giá mà hai bên mua và bán đồng ý để trao đổi giữa hàng
và tiền hoặc một thứ khác (tùy vào mục đích trao đổi). Và thông thờng nó dựa
trên quy luật ngang bằng về giá trị. Quy luật ngang bằng về giá trị do hao phí
lao động bình quân xã hội quyết định. Khi một ngời mua bỏ ra một số tiền X
để mua hàng Y thì có nghĩa là giá cả của Y là X. Thế nhng trong thị trờng bảo

hiểm, ngời ta không hoặc rất hiếm khi sử dụng giá cả bảo hiểm mặc dù về bản
chất nó hoàn toàn giống nhau.
Phí bảo hiểm là số tiền mà ngời mua - khách hàng phải trả cho doanh
nghiệp bảo hiểm trên cơ sở thỏa thuận giữa ngời mua và ngời bán về một dịch
vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo hiểm đợc thỏa thuận giữa ngời mua và ngời bán
18
cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trờng về dịch vụ (hay sản phẩm)
bảo hiểm.
Phí bảo hiểm bao gồm: phí thuần và phụ phí (hoặc phí hoạt động trong
bảo hiểm nhân thọ). Phí bảo hiểm đợc tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm
(số tiền ngời mua chấp nhận với ngời bán - ngời bảo hiểm đa ra) với tỉ lệ phí
bác hiểm (R).
Các nhân tố cơ bản ảnh hởng đến giá cả sản phẩm bảo hiểm.
* Mục tiêu định giá của từng doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp đa ra
những mức giá cho sản phẩm, thì những mức giá đó nhằm giúp doanh nghiệp
đại đợc những mục tiêu nhất định. Nói một cách khác, mục tiêu định giá
chính là cơ sở cho các quyết định liên quan đến giá cả. Và mục tiêu định giá
phải đa (xác định dựa trên những mục tiêu chung của doanh nghiệp. Ví dụ,
khi mục tiêu chung của doanh nghiệp là duy trì chất lợng dịch vụ hàng đầu v-
ợt hẳn đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn đối thủ cạnh
tranh nhằm trang trải đợc các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ
với chất lợng cao hơn. Ngoài ra các mục tiêu định giá của doanh nghiệp cũng
phải phù hợp với các mục tiêu marketing cụ thể của doanh nghiệp.
- Các mục tiêu hớng theo lợi nhuận.
- Mục tiêu hớng theo số lợng hợp đồng khai thác.
- Mục tiêu hớng theo cạnh tranh.
Quá trình định phí có thể đợc gọi là quá trình dự đoán tổn thất và chi
phí trong tơng lai, phân bổ các chi phí này giữa những ngời tham gia bảo
hiểm. ở các quốc gia có ngành bảo hiểm phát triển, trong các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ, việc định phí đợc thực hiện bởi bộ phận định phí hoặc đối

với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quy mô nhỏ hơn thì việc định phí do
các công ty t vấn định phí thực hiện. Còn trong lĩnh vực bảo hiểm tài sản và
trách nhiệm, giá cả sản phẩm bảo hiểm đợc xác định dựa trên số liệu thống kê
về khuynh hớng tổn thất do các tổ chức t vấn cung cấp hoặc do từng doanh
nghiệp bảo hiểm tự thu thập.
* Cầu về sản phẩm của khách hàng là nhân tố quyết định giới hạn trên
của giá cả sản phẩm. Kinh nghiệm marketing thực tế đều cho thấy, cầu của
hầu hết các sản phẩm (trong đó có sản phẩm bảo hiểm) có quan hệ tỉ lệ
nghịch với giá cả của sản phẩm (với điều kiện là các nhân tố khác - điều kiện
19
kinh tế nói chung, sự sẵn có của sản phẩm, khả năng mua của khách hàng
không thay đổi). Khi phân tích cầu về sản phẩm phải xác định sự thay đổi của
nó khi giá cả sản phẩm thay đổi. Để đo lờng mức độ thay đổi này (tỉ lệ % thay
đổi trong lợng cầu khi có tỉ lệ % thay đổi trong giá cả), kinh tế học vi mô đã
đa ra khái niệm ''độ co dãn của cầu theo giá''.
2.3.3. Canh tranh và liên kết diễn ra liên tục
Thị trờng bảo hiểm cũng nh các thị trờng khác, sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra liên
tục, gay go, quyết liệt. Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật. Do
đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chớc, không bảo hộ bản quyền,
nên các doanh nghiệp bảo hiểm "đổ xô'' vào những sản phẩm đợc thị trờng
chấp nhận (ngoài việc tung vào thị trờng những sản phẩm mới) bằng cách cải
tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơn các doanh nghiệp khác; bằng cách tuyên
truyền quảng cáo sâu rộng, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc biệt giảm
phí và tăng tỉ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trờng v.v
Thực tế sôi động đó đã đợc chứng minh khi thị trờng bảo hiểm Việt Nam có
nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia
Cùng với cạnh tranh là liên kết. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng
phát triển. Liên kết thờng diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về tiềm
lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế mạnh

để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau v.v liên kết còn
diễn ra giữa các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh
doanh nghiệp nhỏ đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng thêm
đồng minh cho doanh nghiệp lớn.
Liên kết còn là nhu cầu của thị trờng bản hiểm mới hình thành và phát
triển trong điều kiện'thị trờng thế giới đã ổn định, có tiềm lực. Liên kết cũng
là xu hớng chung của hội nhập và toàn cầu hóa.
Thị trờng bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển, nhng
cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt giữa các doanh nghiệp với đủ thủ thuật và
mánh khóe. Cạnh tranh cũng gây thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp,
nhng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế, v.v Để đảm
bảo quyền lợi của các doanh nghiệp trớc sự cạnh tranh gay gắt các doanh
nghiệp liên kết lại trong tổ chức '' Hiệp hội bảo hiểm" để điều hòa và giữ thế
cân bằng trong kinh doanh trớc hiện tợng giảm phí và tăng tỉ lệ hoa hồng tùy
tiện; đồng thời tiến hành liên kết dới hình thức liên doanh với các doanh
20
nghiệp nớc ngoài để tăng tiềm lực kinh tế và kinh nghiệm kinh doanh để mở
rộng thị trờng v.v
2.3.4 - Thành phần các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi
Thị phần bảo hiểm là tỉ lệ phần trăm (%) của mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm chiếm trong thị trờng bảo hiểm. Thị phần càng lớn chứng tỏ vị thế của
doanh nghiệp càng cao; kết quả kinh doanh của doanh nghiệp càng phát triển.
Nói đến thị phần là nói đến thị trờng phát triển không còn mang tính
độc quyền. ở đây, các doanh nghiệp bảo hiểm có cơ hội nh nhau; song doanh
nghiệp nào dành đợc thị phần nhiều hơn là doanh nghiệp đó làm tốt công tác
quảng cáo, tiếp thị; do chất lợng phục vụ tốt hơn, phí bảo hiểm có thể thấp
hơn v.v
Nh vậy, thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm luôn thay đổi do số l-
ợng doanh nghiệp tham gia vào thị trờng thay đổi; do chiến lợc maketing,
chiến lợc sản phẩm, chiến lợc giá cả v.v của các doanh nghiệp thay đổi

không những giữ đợc thị phần của mình mà còn giành giật đợc thị phần của
các doanh nghiệp khác.
Ngoài việc cạnh tranh để giành giật thị trờng của nhau, các doanh
nghiệp phải có chiến lợc kinh doanh hợp lý để thu hút bộ phận khách hàng
tiềm năng. Đây là bộ phận dân c có nhu cầu bảo hiểm, nhng cha có thông tin
chính xác về dịch vụ bảo hiểm trên thị trờng. Doanh nghiệp nào có chiến lợc
tuyên truyền, quảng cáo, phục vụ tốt sẽ thu hút thêm khách hàng ở bộ phận
này góp phần tăng thị trờng doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo
hiểm cũng phải tung ra thị trờng những sản phẩm mới để thu hút dân c trong
bộ phận không tiêu dùng tuyệt đối bộ phận không có nhu cầu tuyệt đối với
dịch vụ bảo hiểm có trên thị trờng.
Ngoài ra, thị trờng bảo hiểm còn có những đặc điểm riêng nh:
- Thị trờng bảo hiểm có đối tợng khách hàng rất rộng vì đối tợng bảo
hiểm đa dạng, bao gồm tài sản, trách nhiệm dân sự, con ngời.
- Thị trờng bảo hiểm là thị trờng tài chính, do đó chịu sự kiểm tra, kiểm
soát rất chặt chẽ của Nhà nớc. Nhà nớc có thể can thiệp khá sâu vào hoạt
động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Nhà nớc không những xét duyệt biểu
phí, xác định giới hạn trách nhiệm dân sự mà còn quyết định hình thức triển
khai-bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có trong thị trờng bảo hiểm mới có hình
thức bắt buộc với ngời tham gia.
- Thị trờng bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các thị trờng khác. Sự ra
đời lại phụ thuộc vào nhiều điều kiện. Chẳng hạn, bảo hiểm nhân thọ triển
21
khai đợc trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển đến mức độ nhất định; thu
nhập của ngời dân đợc nâng cao, trình độ học vấn đợc cải thiện, môi trờng
pháp lý tơng đối phát triển ổn định; các loại thị trờng khác đã hình thành (thị
trờng tài chính, đầu t v.v ).
3. Các loại bảo hiểm
3.l - Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội giữ một vai trò nòng cốt chính trong hệ thống bảo trợ

xã hội. Bất cứ nhà nớc nào cũng đều thừa nhận rằng, sự nghèo khổ vì thất
nghiệp, ốm đau, không chỉ là trách nhiệm của cá nhân, mà còn là trách nhiệm
của xã hội. Do đó, giải quyết những vấn đề này là trách nhiệm của nhà nớc và
công dân. Những đối tợng đợc bảo trợ xã hội là những ngời không đạt tiêu
chuẩn '' mức sống bình thờng về kinh tế '', nên mức bảo trợ cũng chỉ hạn chế
trong phạm vi nhu cầu của mức sống cơ bản. Do đó, bảo hiểm xã hội cũng là
một loại bảo hiểm của nhà nớc thực hiện bắt buộc theo pháp luật và đợc coi là
trách nhiệm chung của xã hội, nhằm bảo vệ quyền lợi cơ bản của nhân dân và
thực hiện chính sách xã hội do nhà nớc quy định.
Bảo hiểm xã hội thờng có những đặc trng sau đây:
* Đối tợng bảo hiểm xã hội:
Bảo hiểm xã hội thể hiện chính sách xã hội của nhà nớc, chủ yếu là giải
quyết vấn đề đời sống cơ bản của những ngời lao động trong xã hội, thực hiện
trách nhiệm của xã hội đối với từng ngời lao động, vì vậy đối tợng bảo hiểm
phải là đại đa số ngời dân trong xã hội.
* Phơng pháp thực hiện bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội phần lớn có tính chất bắt buộc. Đối tợng của bảo hiểm
xã hội là đa số ngời dân trong xã hội, những ngời làm công ăn lơng, những
ngời có quan hệ hợp đồng lao động. Thông thờng bảo hiểm xã hội do nhà nớc
dựa trên cơ sở pháp luật bắt buộc những ngời có đủ điều kiện đều phải tham
gia bảo hiểm một cách bắt buộc.
* Đóng góp phí bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội nhằm mục đích tạo điều kiện ổn định đời sống kinh tế
của đa số ngời lao động trong xã hội.
* Tinh thần giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội
Trong quá trình điều hòa sử dụng thực tế quỹ bảo hiểm xã hội thờng có
lợi cho những ngời có thu nhập thấp, nên trong xã hội đã có tình trạng "ngời
có mức lơng cao nộp phí bảo hiểm nhiều lại đợc lợi ít, còn ngời có mức lơng
thấp nộp phí bảo hiểm ít lại đợc lợi hơn''. Số cán bộ, công nhân viên đang làm
22

việc tại các cơ quan, doanh nghiệp lâu đời ít hơn so với các cơ quan, doanh
nghiệp mới, nhng số cán bộ, công nhân viên đã về hu mà các cơ quan, doanh
nghiệp lâu đời cần phải chăm sóc lại nhiều hơn so với các cơ quan, doanh
nghiệp mới. Vì vậy, các doanh nghiệp lâu đời nộp phí bảo hiểm ít lại đợc h-
ởng lợi nhiều, còn các doanh nghiệp mới phải nộp phí bảo hiểm nhiều lại đợc
hởng lợi ít một cách tơng đối.
3.2. Bảo hiểm thơng mại
a. Bảo hiểm nhân thọ:
Là bảo hiểm đời sống hoặc tuổi thọ của con ngời nhằm bù đắp cho ngời
đợc bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi ngời đợc bảo
hiểm bị chết hoặc bị thơng tật toàn bộ vĩnh viễn. Bao gồm các loại hình nh
bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ
* Bảo hiểm phi nhân thọ là tính chất phân tán rủi ro và các công ty bảo
hiểm có thể có mà cũng có thể không phải trả tiền bồi thờng phụ thuộc vào
tổn thất có xảy ra hay không.
* Bảo hiểm nhân thọ mang tính chất tiết kiệm, lâu dài và các công ty
bảo hiểm nhân thọ chắc chắn phải trả tiền bảo hiểm khi đến hạn ghi trong hợp
đồng bảo hiểm.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ gồm:
Bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con ngời (Health and Person alaccident
Insurance):
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm khách du lịch.
+ Bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên.
+ Bảo hiểm tai nạn con ngời.
+ Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
+ Bảo hiểm sinh mạng.
- Bảo hiểm xe cơ giới (Motor Vehlcle Insurance)
+ Bảo hiểm thân xe (hay còn gọi là bảo hiểm vật chất xe.

+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm cháy nổ (Fire Insurance)
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh (Business Interuption)
- Bảo hiểm vận chuyển đờng bộ, đờng biển, đờng sông, đờng sắt, đờng
hàng không (cargo Inssurance) .
23
+ Bảo hiểm hàng hàng hóa xuất nhập khẩu
+ Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu (Hull and P & I Insurance):
+ Bảo hiểm thân tàu biển, tàu pha sông biển.
+ Bảo hiểm vật chất tàu sông, tàu cá.
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại khác (Other property and
Casualty Irlsuarance):
+ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt (Car, Ear)
+ Bảo hiểm dầu khí (Oil and gaz insuarance)
- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro hành chính: bảo hiểm quỹ tín dụng nhân dân.
- Bảo hiểm nông nghiệp:
+ Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng.
- Bảo hiểm trách nhiệm của ngời giao nhận.
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
- Bảo hiểm du lịch.
II. vai trò của thị trờng bảo hiểm
1. Vai trò của thị trờng bảo hiểm trong nền kinh tế
1.1 Tạo ra một nguồn vốn lớn bằng phí bảo hiểm và tập trung vào
một số đầu mối để đầu t vào những lĩnh vực khác để phát tnển nền kinh tế
quốc dân.
Tốc độ tăng trởng kinh tế quốc gia tỉ lệ thuận với tốc độ gia tăng về đấu
t Đặc biệt với các khoản tiền lớn vô cùng cần thiết cho các lĩnh vực đầu t lâu
dài, yêu cầu vốn nhiều.
Ngày nay, ở các nớc phát triển, số tiền do nhà bảo hiểm đang quản lý

rất lớn: 2000 tỉ USD ở Hoa Kỳ, 1719 tỉ Bảng Anh, 2.967 tỉ Frăng ở Pháp. Nhờ
khả năng đầu t, giờ đây thị trờng bảo hiểm đóng một vai trò chủ lực trong nền
kinh tế ở Pháp nơi có truyền thống đầu t vào trái phiếu, nhà bản hiểm đã nắm
60% số lợng trái phiếu của nhà nớc và trong lĩnh vực bất động sản cũng giữ
một vị trí quan trọng.
ở Anh, các nhà bảo hiểm đầu t chủ yếu vào cổ phiếu nhất là qua Quỹ h-
u trí (Fonds de pension), quỹ này thu về các khoản tiền đóng góp dài hạn để
sau này trả lơng hu cho những ngời làm công ăn lơng. ở đây thị trờng bảo
hiểm ảnh hởng rất lớn đến thị trờng chứng khoán và tài trợ cho các hoạt động
đầu t. Còn ở Việt Nam tính đến cuối năm 2002 Bảo Việt đã đầu t và góp vốn
vào tổng số 22 công ty và tập đoàn cả trong nớc và nớc ngoài, các ngân hàng,
24
công ty cổ phần chứng khoán (Nguồn:Báo cáo hàng năm của Tổng Công ty
Bảo hiểm Việt Nam)
1.2. Bổ sung vào ngân sách của Nhà nớc bằng lãi bảo hiểm.
Doanh thu của ngành bảo hiểm càng cao thì nguồn thu cho ngân sách
càng lớn. Đó là điều tất yếu Thị trờng bảo hiểm, đặc biệt là thị trờng bảo hiểm
nhân thọ. Với tốc độ tăng trởng hàng năm rất cao, năm 1999 tăng 142,4%
(gấp 2,5 lần phí năm trớc), năm 2000 là162,6%, 2001:l 15,6% và năm 2002
tăng 89,7% thì vai trò của nghành bảo hiểm trong GDP càng lớn. ở các nớc
phát triển thì thị trờng bảo hiểm đóng góp trung bình là 8,3% GDP.
1.3. Tăng thu và giảm chi cho cán cân thanh toán quốc gia.
Nếu những nhà xuất khẩu và nhập khẩu lựa chọn mua bảo hiểm của các
công ty bảo hiểm trong nớc thì sẽ tiết kiệm đợc rất nhiều ngoại tệ. Trớc đây
thị trờng bảo hiểm cha phát triển cộng với nghiệp vụ xuất nhập khẩu còn yếu,
chúng ta thờng xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện
CIF chung của doanh nghiệp là duy trì chất lợng dịch vụ hàng đầu vợt hẳn đối
thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ đặt giá cao hơn hẳn đối thủ cạnh tranh
nhằm trang trải đợc các chi phí cao hơn phát sinh do cung cấp dịch vụ với
chất lợng cao hơn''.

Nh vậy thì hoàn toàn các công ty của Việt Nam không thể mua bảo
hiểm trong nớc đợc. Nếu thị trờng bảo hiểm trong nớc lớn mạnh thì các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trong nớc hoàn toàn có thể tin tởng mua bảo hiểm
trong nớc, vừa đảm bảo yếu tố tin cậy vừa tiết kiệm đợc ngoại tệ. Hơn nữa,
nếu các doanh nghiệp xuất khẩu tự mua bảo hiểm ở thị trờng trong nớc họ sẽ
đợc t vấn kĩ lỡng về các loại, các hình thức bảo hiểm phù hợp nhất để tránh đ-
ợc rủi ro mà lại tiết kiệm chi phí. Các công ty bảo hiểm với những nhân viên t
vấn của mình sẽ còn góp phần t vấn, tiếp thị khách hàng và có thể làm thay đổi
tập quán bán FOB, nhập CIF, t vấn thêm các nghiệp vụ mua bán cũng nh các
cách thức khiếu nại bồi thờng một cách tỉ mỉ và dễ hiểu hơn.
1.4. Thị trờng Bảo hiểm giúp cho việc thực hiện đổi mới cơ chế kinh
tế nhanh chóng hơn.
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành tổ
chức kinh tế tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi. Sau khi thực
hiện chế độ trách nhiệm kinh doanh, trách nhiệm và rủi ro kinh tế thuộc về
các tổ chức này phải đảm nhận ngày càng nhiều hơn: thiên tai và tai nạn bất
ngờ hay xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh và khai thác kĩ thuật mới,
sản phẩm mới, còn những rủi ro về tín dụng hay xảy ra trong quá trình kinh
25

×