Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tận dụng cơ hội từ aec để phát triển ngành nguyên phụ liệu cho ngành dệt may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.21 KB, 25 trang )

Đề tài : TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ AEC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CHO NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM
Danh sách nhóm
1. Võ Xuân Đặng
2. Nguyễn Ngọc Huyền Trang
3. Trần Phương Thảo.
4. Lê Nguyên Lộc
MỤC LỤC
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ AEC- NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG
ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM- VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT
TRIỂN NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP AEC
I.Tổng quan về AEC
1.Khái niệm và lịch sử hình thành Asean
2. khái niệm về AEC
3.Mục tiêu hoạt động
4. Lộ trình hoạt động
II.Khái niệm và kết cẩu ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may Việt
Nam
1. Khái niệm
2. Kết cấu
III. Sự cần thiết phát triển ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may
Việt Nam trong bối cảnh gia nhập AEC:
1.Chuỗi giá trị dệt may- Vị trí của ngành dệt may Việt Nam- Vai trò của ngành
nguyên phụ liệu
2. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong khu vực
2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
2.2. Sự kiện Biển Đông và sự ảnh hưởng của Trung Quốc
2.3. Sự cận kề của lộ trình gia nhập AEC và sự cần thiết liên kết các nguồn lực


của các quốc gia trong khu vực
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG
CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2013 VÀ CƠ HỘI TỪ AEC
ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM
I.Thực trạng của ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may Việt Nam
đến năm 2013
1. Thực trạng chung
2. Cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu
2
3. Nguồn cung bông, xơ và nguồn cung sợi
4. Thực trạng sản xuất sợi
5. Hoạt động dệt, nhuộm
6. Thực trạng sản xuất và nhập khẩu vải
7. Đánh giá chung
II. Cơ hội phát triển ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may Việt
Nam khi gia nhập AEC
1. Cơ hội hợp tác trồng bông với Campuchia
2.Cơ hội hợp tác về vốn, công nghệ với các nước phát triển trong khu vực-Hợp
tác với Thái Lan
3.Cơ hội từ tự do dịch chuyển hàng hoá- tự do dịch chuyển vốn và công nghệ-tự
do dịch chuyển nguồn nhân lực
III.Một số thách thức từ AEC cần giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguyên phụ
liệu
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ AEC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT
NAM
I.Giải pháp ngắn hạn- Tìm nguồn cung nguyên liệu từ các nước trong khu vực
AEC
II. Giải pháp trung và dài hạn

1. Phát triển vùng trồng nguyên phụ liệu ở Campuchia
2. Thu hút đầu tư vốn, công nghệ, và nguồn nhân lực tức các nước nội khối AEC
3. Giải pháp từ ngoại khối- Công nghệ xanh của Nhật Bản
III.Một số kiến nghị nhằm giải quyết các thách thức từ AEC để nâng cao hiệu
quả của các giải pháp tận dụng cơ hội từ AEC
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ AEC- NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG
ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM- VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT
TRIỂN NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH GIA NHẬP AEC
1. Tổng quan về cộng đồng kinh tế Asean (AEC):
1. Khái niệm và lịch sử hình thành Asean:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – được thành lập ngày 08/08/1967 tại
Bangkok, Thái Lan trên cơ sở Tuyên bố ASEAN ( hay Tuyên bố Bangkok )
được ký kết bởi các thành viên sáng lập Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan. Tiếp đó, sự gia nhập của Vương quốc Brunei vào ngày
07/01/1984, Việt Nam ngày 28/07/1995, Lào và Myanmar ngày 23/07/1997,
sau đó là Cambodia ngày 30/04/1999 nâng tổng số thành viên ASEAN hiện tại
lên đến con số 10.
Bản tuyên bố ASEAN dài 02 trang thể hiện rõ mục tiêu của hiệp hội về hợp tác
trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, kỹ thuật, giáo dục và một số lĩnh
vực khác, đồng thời cũng cho thấy mục đích đẩy mạnh và ổn định nền hòa bình
trong khu vực, được cụ thể hóa bằng sự tôn trọng quy định, luật pháp, và các
cam kết đối với nguyên tắc hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Với vai trò là một tổ chức thống nhất các quốc gia Đông Nam Á hoạt động vì
hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung, vì sự hợp tác lâu dài cho mục tiêu
phát triển ngày càng năng động, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm
nhìn chung ASEAN đến năm 2020 ngay trong năm 2003 với quyết tâm thành
lập một cộng đồng kinh tế ASEAN. Đến năm 2007, các nhà lãnh đạo ASEAN
một lần nữa khẳng định cam kết hội nhập khu vực và nhất trí đẩy nhanh hơn

quá trình thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Ba trụ cột của cộng đồng ASEAN là cộng đồng an ninh – chính trị ASEAN,
cộng đồng kinh tế ASEAN và cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN sẽ lần lượt
thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực dưới sự hướng dẫn của hiến chương
ASEAN.
Hiến chương ASEAN cập nhật tình hình pháp lý, cơ cấu tổ chức, cũng như các
giá trị, nguyên tắc, và quy định chung, đồng thời đặt ra mục tiêu rõ ràng, quy
định cụ thể về trách nhiệm và việc thực thi trách nhiệm. Có hiệu lực chính thức
4
từ ngày 15/12/2008, hiến chương ASEAN là cơ sở để hình thành khung pháp
lý, cơ chế và theo đó là các cơ quan để thực hiện lộ trình xây dựng cộng đồng
ASEAN.
2. Khái niệm và lịch sử hình thành AEC
Cộng đồng kinh tế Asean (AEC) là một tổ chức liên chính phủ dự định thành
lập vào năm 2015. Đây là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng Asean –
cộng đồng an ninh – chính trị Asean (APSC), cộng đồng kinh tế Asean (AEC), cộng
đồng văn hóa xã hội Asean ( ASCC) - nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong tầm
nhìn Asean 2020 và được khẳng định trong tuyên bố hòa hợp Asean (Tuyên bố Bali
II): “Tạo dựng một khu vực kinh tế Asean ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao, nơi
có sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do hơn của các
nguồn vốn, phát triển kinh tế đồng đều và giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh
lệch về kinh tế-xã hội. AEC có sứ mệnh tạo dựng:
i) Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất:
Việc thực hiện hóa cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ biến ASEAN thành một thị trường
và cơ sở sản xuất thống nhất, theo đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
ASEAN. AEC sẽ hỗ trợ hội nhập kinh tế của các khu vực ưu tiên, đồng thời cho phép
tự do chu chuyển nguồn nhân lực có trình độ cao/tài năng trong kinh doanh. Một thị
trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN bao gồm năm yếu tố cơ bản: chu chuyển
tự do hàng hóa, dịch vụ, lao động có tay nghề; chu chuyển tự do hơn nữa các dòng
vốn và dòng đầu tư.

Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế quan sẽ từng bước bị xóa bỏ. Các nhà đầu tư
ASEAN sẽ được tự do đầu tư vào tất cả mọi lĩnh vực trong khu vực. Các chuyên gia
và lao động có tay nghề sẽ được luân chuyển tự do trong khu vực. Những thủ tục hải
5
quan và thương mại khi đã được tiêu chuẩn hóa hài hòa và đơn giản hơn sẽ góp phần
làm giảm chi phí giao dịch.
Một thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát triển mạng lưới sản
xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN với vai trò là một trung tâm sản
xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất mang lại lợi ích cho các ngành công nghiệp
ưu tiên tham gia hội nhập như: nông nghiệp, hàng không (vận chuyển bằng đường
hàng không), ô tô, e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt
may và thời trang, du lịch, nghành công nghiệp gỗ và các dịch vụ logistics khác…
ii) Một khu vực kinh tế mang tính cạnh tranh:
Cộng đồng kinh tế ASEAN hướng tới mục tiêu tạo dựng một khu vực kinh tế có năng
lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực này sẽ ưu tiên 6 yếu tố
chủ chốt là: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát
triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế khóa và thương mại điện tử.
ASEAN cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các
chính sách và luật cạnh tranh, đảm bảo sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả
kinh tế khu vực ngày càng cao.
iii) Phát triển kinh tế công bằng:
Mục đích của hiệp định khung AEC đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách lợi thế hóa
phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công
nghệ. Những động lực này là để lấp đầy khoảng cách giữa các quốc gia thành viên
ASEAN, thúc đầy hội nhập kinh tế của Cambodia, Lào, Myanmar và Việt Nam, cho
phép các nước thành viên cùng hướng tới một mục tiêu chung và đảm bảo tất cả các
quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế.
iv) Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu:

Với thị trường tương tác lẫn nhau và các ngành công nghiệp hội nhập, có thể nói
ASEAN hiện đang hoạt động trong một môi trường toàn toàn cầu hóa ngày càng cao.
Do đó, không chỉ dừng lại ở AEC mà ASEAN còn phải xem xét tất cả các quy định
trên thế giới để hình thành chính sách cho chính mình, như chấp thuận các tiêu chuẩn
và kinh nghiệm sản xuất, phân phối quốc tế tối ưu nhất. Đây sẽ là động lực chính cho
phép ASEAN có thể cạnh tranh thành công với thị trường toàn cầu, đạt được mục đích
6
sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng thời đảm bảo
thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các quốc gia thành viên ASEAN cũng nhất trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới
cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả công nghiệp. AEC sẽ trở
thành tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác FTA
ASEAN và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới kiến trúc khu vực.
3. Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất
đang được ASEAN thúc đẩy mạnh. Năm yếu tố cơ bản để thực hiện mục tiêu trên là:
• Tự do lưu chuyển hàng hóa
• Tự do di chuyển dịch vụ
• Tự do di chuyển đầu tư
• Tự do lưu chuyển vốn
• Tự do lưu chuyển lao động có kĩ năng.
Năm yếu tố trên sẽ là động lực thúc đẩy thị trường chung Asean đi đến thống
nhất và phát triển. Việt Nam là một trong những thành viên AEC tất nhiên sẽ hưởng
lợi từ các lợi thế mà AEC mang lại. Các doanh nghiệp trong nước cần chủ động tìm
hiểu, nghiên cứu để có thể tận dụng những cơ hội mà tổ chức AEC mang lại. Riêng
với ngành nguyên phụ liệu dệt may, với những hạn chế và khó khăn mà các doanh
nghiệp trong ngành đang gặp phải, AEC sẽ tạo ra các cơ hội tốt để ngành nắm bắt để
phát huy những thế mạnh và khắc phục những bất lợi mang đến lợi ích tối đa hỗ trợ
cho ngành dệt may.
4. Lộ trình hoạt động:

NỘI DUNG 2008-2009 2010-2011 2012-2013 2014-2015
A. MỘT THỊ TRƯỜNG ĐƠN NHẤT
A1. Tự do dịch
chuyển hàng
hoá
 Miễn thuế
cho hàng hoá
phổ thông-
Hiệp
địnhAFTA
7
 Giảm thuế  Kế hoạch
giảm thuế 0-
5% cho các
hàng hoá
đặc biệt đối
với Lào Và
Myanmar
 Kế
hoạch
giảm
thuế 0-
5% cho
các hàng
hoá đặc
biệt đối
với
 Miễn thuế  Miễn thuế hoàn toàn
cho tất cả các sản
phẩm ngoại trừ các

sản phẩm trong danh
sách hàng hoá đặc
biệt đến 2015 và linh
hoạt thực hiện cho
vài sản phẩm đến
2018
 Gỡ bỏ rào cản
phi thuế quan
 Gỡ bỏ
cho các
nước
ASEAN
5 (2010)
 Gỡ bỏ
cho
Philippin
(2012)
 Gỡ bỏ hàng rào phi
thuế quan đến 2015,
linh hoạt cho 1 vài
sản phẩm đến 2018
A2. Tự do dịch
chuyển đầu tư
 Thoả thuận
đầu tư
ASEAN
 Thảo luận
hợp tác đầu
tư ASEAN
2. Khái niệm và kết cấu ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may

Việt Nam:
1. Khái niệm:
Nguyên phụ liệu của ngành dệt may là những vật liệu cung ứng cho ngành dệt
may thường chia thành hai phần: nguyên liệu chính và phụ liệu. Nguyên liệu chính là
thành phần chính tạo nên sản phẩm may mặc, chính là các loại vải. Phụ liệu là các vật
liệu đóng vai trò liên kết nguyên liệu, tạo thẩm mỹ cho một sản phẩm may mặc, gồm
có hai loại phụ liệu chính là chỉ may và vật liệu dựng. Vật liệu dựng là các vật liệu
góp phần tạo dáng cho sản phẩm may như: khóa kéo, cúc, dây thun…
2. Kết cấu
8
Ngành nguyên phụ liệu cho dệt may bao gồm nguyên liệu là vải và phụ liệu
cho may mặc là các loại nút, khóa kéo Ta dễ dàng thấy được kết cấu ngành nguyên
liệu ở Việt Nam gồm các công đoạn: kéo sợi, dệt, nhuộm, in vải và để thực hiện được
công đoạn kéo sợi thì ta cần có nguồn cung ứng bông, xơ và sợi. Ngành trồng bông và
ngành kéo sợi giữ vai trò quan trọng trong cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các phân
đoạn dệt-nhuộm và may ở nước ta.
3. Sự cần thiết phát triển ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt
may Việt Nam trong bối cảnh gia nhập AEC:
1. Chuỗi giá trị dệt may- Vị trí của ngành dệt may Việt Nam- Vai trò của
ngành nguyên phụ liệu:
Ứng dụng lý thuyết đường cong nụ cười, các nhà nghiên cứu đã biểu diễn
chuỗi giá trị dệt may thế giới hiện nay gồm 5 mắt xích chính như sau:
Hình 1: Đồ thị biểu diễn giá trị gia tăng của chuỗi giá trị dệt may
Nguồn: Nguyễn Thị Hường (2009), Tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn
cầu
Ngành dệt may của nước ta sau hơn 20 năm liên tục phát triển với tốc độ tăng
trưởng bình quân khoảng 15%/ năm là một trong những ngành chủ đạo của công
9
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với giá trị đóng góp khoảng 10% đến 15% GDP hàng
năm. Thời điểm hiện tại chúng ta là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới

về may mặc. Thị trường chủ yếu là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhưng thực tế giá trị mà
ngành dệt may đem lại chưa thực sự xứng đáng.
Thật vậy, mặc dù, dệt may Việt Nam là một trong những ngành xuất khẩu chủ
lực của nước nhà, tuy nhiên giá trị thặng dư mang lại là không cao. Cụ thể Việt Nam
vẫn đang nằm trong giai đoạn cắt may trong chuỗi giá trị dệt may của thế giới. Trên
thực tế chuỗi cung ứng dệt may Việt Nam cũng trải qua 5 mắt xích như trên, tuy nhiên
có sự chênh lệch rất lớn về sự phát triển của các mắt xích. Đặc biệt, sự thiếu chủ động
trong cung ứng nguyên phụ liệu là nguyên nhân chính khiến ngành dệt may Việt Nam
vẫn chưa phát triển lên được. Hiện nay ngành nguyên phụ liệu phải nhập khẩu 70% từ
nước ngoài do đó tính chủ động không có và lợi nhuận thu được cho ngành dệt may
không cao.
2. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong khu vực:
2.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Năm 2014, kinh tế thế giới đang dần hồi phục, sức mua tăng trở lại thể hiện
ở sản lượng xuất khẩu Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng tăng dần qua
các năm, đặc biệt sự phục hồi kinh tế Mĩ, một thị trường xuất khẩu may mặc lớn nhất
của Việt Nam đã tạo cơ hội khá lớn cho ngành dệt may phát triển.
2.2. Sự kiện Biển Đông và sự ảnh hưởng của Trung Quốc
Trung Quốc là một thị trường truyền thống cho nhập khẩu nguyên phụ liệu
cho ngành dệt may Việt Nam, qua các năm, trung bình Việt Nam nhập khẩu một tỷ
trọng nguyên phụ liệu rất lớn.
Giữa năm 2014, sự kiện Biển Đông diễn ra cho thấy được ảnh hưởng chi
phối của Trung Quốc đối với nền kinh tế nói chung cũng như ngành dệt may và
nguyên phụ liệu cung ứng, đặt ra đòi hỏi cần tìm hướng phát triển thoát khỏi ảnh
hưởng của kinh tế Trung Quốc và xây dựng hướng phát triển bền vững đối với Việt
Nam.
2.3. Sự cận kề của lộ trình gia nhập AEC và sự cần thiết liên kết các nguồn lực
của các quốc gia trong khu vực:
Theo lộ trình, công đồng kinh tế Asean- AEC sẽ được thành lập một cách
hoàn chỉnh vào năm 2015, do đó ngành dệt may Việt Nam cần khắc phục các mắt xích

yếu kém và tìm cách khai thác triệt để tối đa các lợi ích từ việc gia nhập này. Trong
10
khi đó, AEC mang lại những cơ hội và tạo ra sự kết nối nguồn lực giữa các quốc gia
nội khối nhằm giải quyết những khó khăn cho ngành nguyên phụ liệu- yếu tố quan
trọng để giúp dệt may Việt Nam phát triển.
.
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG
CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2013 VÀ CƠ HỘI TỪ AEC
ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM
I. Thực trạng của ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may Việt
Nam đến năm 2013:
1. Thực trạng chung:
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc ở Việt Nam chỉ sản xuất theo
phương thức gia công là chủ yếu. Xét về tỉ lệ kinh ngạch xuất khẩu thì phương thức
CMT (gia công thuần túy) và xuất khẩu theo phương thức FOB chiếm hơn 95% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Trong đó CMT chiếm 75,3% và FOB chiếm 21,2% và chỉ có
khoảng 2% đến 3% là ODM ( chủ động từ thiết kế, nguyên liệu đến sản xuất thành
phẩm).
So sánh với chuỗi cung ứng dệt may thế giới thì Việt Nam đang tụt hậu rất
nhiều so với các đối thủ. Các nhà sản xuất trên thế giới đang dần phát triển lên
phương thức FOB cấp III (sản xuất theo thiết kế riêng của mình, không chịu sự ràng
buộc bởi các đối tác) hay OMD đáp ứng như cầu đang thay đổi của khách hàng thì các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn dừng ở mức gia công cho các đối tác.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang rất yếu ở mảng thiết kế sản phẩm vì thiếu các
nhà thiết kế giỏi, khó tiếp cận và thiếu thông tin về nhu cầu khách hàng, xa thị trường
tiêu dùng cuối cùng.
Nguyên nhân chính của thực trạng trên chính là sự thiếu chủ động nguồn
nguyên phụ liệu, dẫn đến ngành may mặc Việt Nam khó tiếp cận các phương thức

hiện đại để gia tăng năng lực cạnh tranh.
2. Cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu:
Năm 2013, các doanh nghiệp dệt may đối mặt với hạn chế rất lớn là thiếu hụt
nguồn nguyên phụ liệu trong nước, và phụ thuộc rất lớn vào việc nhập khẩu nguyên
12
phụ liệu từ nước ngoài. Nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm 70% nguồn cung nên giá trị
thặng dư của ngành khó được cải thiện.
Bảng 1: Số liệu về nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu dệt may Việt Nam
(2005-2013)
Bảng số liệu về nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu dệt may Việt Nam (2005 - 2013)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 201
3
Nhập
khẩu
4.4 5 6.4 7.1 6.4 8.9 11.2 11.4 13.5
Xuất
khẩu
4.8 5.9 7.8 9.1 9.1 11.2 15.8 17 20.1
ĐVT: Tỷ USD
Nguồn: VITAS 2013
Hình 2: Cơ cấu nguyên liệu nhập khẩu qua các năm
Bảng số liệu về nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu của ngành dệt may Việt
Nam qua các năm 2005-2013 và cơ cấu nguyên liệu nhập khẩu qua các năm 2005-
2013 cho thấy giá trị xuất khẩu tăng lên qua các năm, song giá trị nhập khẩu nguyên
liệu đầu vào cũng tăng một cách đáng kể, và giá trị nhập khẩu nguyên liệu chiếm một
tỷ lệ lớn so với xuất khẩu, do đó giá trị thặng dư thực sự mang lại cho ngành dệt may
chưa tăng qua các năm.
Hiện nay là hơn 70% nguyên phụ liệu là nhập khẩu trên chủ yếu từ Đài Loan,
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hồng Kông, Thái Lan, Braxin, Italy, Ấn Độ…
13

Hình 3: Cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may năm 2013
Trong cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may của Việt Nam trong
năm 2013, nhập khẩu vải chiếm một tỷ trọng khá lớn 62% tổng kim ngạch nhập khẩu
nguyên phụ liệu dệt may , tiếp đến là nguyên phụ liệu dệt may khác 18.2% và đó cũng
là một thực trạng mất cân đối trong nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may Việt Nam
trong thời gian qua. Nguyên nhân là do khó khăn trong các vấn đề về: nguồn cung
bông-xơ-sợi; hoạt động sản xuất sợi; hoạt động dệt-nhuộm; sản xuất và nhập khẩu vải
nguyên phụ liệu.
3. Nguồn cung bông, xơ và nguồn cung sợi:
Ngành trồng bông và kéo sợi là khâu ở đoạn đầu của chuỗi dệt may và giữ vai
trò trọng yếu trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các phân đoạn còn lại gồm
dệt - nhuộm và may, nhưng cho đến nay khâu này vẫn chưa phát triển cân xứng với
nhau. Năm 2010 ngành kéo sợi đã tăng trưởng trên 300% từ 1,2 triệu cọc sợi với tổng
sản lượng 120.000 tấn lên 3,75 triệu cọc đạt 420.000 tấn. Trong khi đó, năm 2000, sản
lượng bông đạt 12.000 tấn, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu kéo sợi thì đến năm 2010
chỉ còn 3.500 tấn – tức còn 30% sản lượng năm 2000 và chỉ còn đáp ứng khoảng 1,3%
nhu cầu bông cho ngành sợi (Hiệp Hội Bông Sợi Việt Nam, 2010). Bên cạnh đó tình
trạng giá bông thế giới tăng cao một cách bất thường (tăng 2,2 lần) chỉ trong vòng 2
14
năm 2009, 2010 đe dọa tới sự tăng trưởng ổn định của ngành sợi nói riêng và toàn
ngành dệt may Việt Nam nói chung.
Trong nhiều năm qua Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm bông, xơ
để phục vụ nhu cầu nguyên liệu cho ngành sợi. Số liệu cho thấy, kể từ năm 2005
cho đến nay khối lượng và giá trị nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt
may nước ta gia tăng liên tục ở tất cả các sản phẩm bông, xơ, và sợi.
Bảng 2 : Số liệu nhập khẩu bông, xơ, sợi của Việt Nam giai đoạn 2005-2013
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Bông 167 219 268 468 392 664 1005 875 1171
Xơ sợi 340 544 744 788 811 1164 1300 1400 1520
Nguồn VITAS

Điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng với sự thiếu đầu tư trong công tác phát triển
nguồn bông xơ là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển yếu kém của ngành trồng bông,
sản xuất xơ của nước ta. Trồng bông là ngành rất thâm dụng đất đai, việc trồng bông
chịu tác động nhiều bởi thời tiết, khí hậu, vì bông được trồng chủ yếu ở vụ hai trong
mùa mưa nhờ nước trời nên khó phù hợp với tất cả các vùng, dẫn tới diện tích trồng
bông ở Việt Nam vẫn chưa cao và còn manh mún. Bên cạnh đó, trình độ thâm canh
của nông dân chưa tốt, không có hệ thống thủy lợi hỗ trợ, điều kiện trồng trọt chủ yếu
phụ thuộc vào thiên nhiên, sản xuất thu hoạch bằng tay nên năng suất bông của nước
ta kém xa các nước khác trên thế giới dẫn tới giá bán không cạnh tranh so với các
nước khác ở Bắc Mỹ và Châu Phi. Năng suất bông bình quân của nước ta hiện nay
chỉ đạt khoảng 1,1 tấn/ha, trong khi đó năng suất trồng bông ở Mỹ đạt khoảng 3-4
tấn/ha.
Một giải pháp đã được đề xuất đó là phát triển vùng trồng bông trong nước tuy
nhiên ngành trồng bông chỉ đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô, trong khi vùng đất
rộng lớn để trồng bông Việt Nam không nhiều, cùng với đó là điều kiện tự nhiên, thổ
nhưỡng không phù hợp nên muốn trông bông có hiệu quả cần phải đầu tư cải tạo thổ
nhưỡng, đầu tư hệ thống tưới tiêu, cơ giới hóa việc trồng trọt thu hoạch, điều đó có
15
nghĩa trong ngắn hạn sẽ không đạt được hiệu quả kinh tế, ngoài ra việc đầu tư đồng
nghĩa với giá thành sản xuất tăng cao, giảm lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm.
4. Thực trạng sản xuất sợi:
Ngành sợi có sự phát triển nhanh chóng trong những năm qua, năm 2012 ngành
sợi xuất khẩu 1,842 tỉ USD, sang năm 2013, giá trị tăng lên 16.7% đạt 2,149 tỉ USD.
Đạt được kết quả trên bởi ngành sợi đã tận dụng được những lợi thế giá nhân công rẻ,
chí phí điện, thuê đất thấp.
Tuy nhiên có một nghịch lý xảy ra đó là ngành sợi xuất khẩu ra nước ngoài
nhưng các doanh nghiệp trong nước lại phải nhập khẩu sợi để phục vụ cho sản xuất
hàng xuất khẩu. Nguyên nhân là sản phẩm sợi của nước ta chưa đa dạng về chủng
loại, chất lượng các sản phẩm sợi chưa cao và chỉ mới tập trung ở phân khúc sản
phẩm cấp thấp, trung bình nên không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp dệt

may hàng cao cấp đòi hỏi nhiều loại nguyên liệu sợi khác nhau với các loại nguyên
liệu đầu vào đặc biệt, thiết bị sản xuất hiện đại. Quá phụ thuộc vào nguồn cung bông
từ các nước xuất khẩu trong khi biến động giá bông trên thị trường thế giới ngày càng
phức tạp ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sợi. Theo đánh giá
của ông Nguyễn Thành Vinh: “sự phát triển còn chưa mạnh của ngành sợi có thể là
do chúng ta phụ thuộc vào 97% nguồn nguyên liệu bông, xơ nhập khẩu và hạn chế về
trình độ công nghệ, máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại”.
Ngoài ra, do khả năng tài chính còn hạn chế nên đầu tư công nghệ của ngành
sợi hiện không đáp ứng kịp những chuyển dịch về nhu cầu của thị trường trong tương
lai, cũng như duy trì năng lực, vị thế cạnh tranh của sợi Việt Nam so với các quốc gia
khác (VSA, 2011). Thêm vào đó, đặc tính của ngành may nước ta chủ yếu là gia công
xuất khẩu, việc chọn nguyên liệu phải theo sự chỉ định của khách hàng, các doanh
nghiệp không thể chủ động trong hoạt động đặt nguồn nguyên liệu vải trong nước đã
góp phần tạo ra thêm khó khăn cho ngành dệt, nhuộm, từ đó kéo theo tác động không
tốt đến các doanh nghiệp sản xuất sợi trong nước.
5. Hoạt động dệt, nhuộm:
16
Bên cạnh hoạt động trồng bông, sản xuất xơ sợi, hoạt động dệt, nhuộm cũng là
khâu quan trọng trong quá trình sản xuất nguyên phụ liệu dệt may.
Thực trang dệt nhuộm Việt Nam rất đáng lo ngại, theo báo cáo CIEM, công
đoạn dệt, nhuộm Việt Nam đang chậm hơn các nước trong khu vực 20%, nhất là công
đoạn nhuộm với 30% máy móc cần khôi phục., do đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng vải dệt ra.
Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong ngành dệt, nhuộm đó là sự thiếu hụt về
vốn, công nghệ và nhân lực kèm theo đó là những vấn đề liên quan đến môi trường,
quy mô doanh nghiệp nhỏ cũng là nguyên nhân tác động.
Về vốn, nhân lực và công nghệ, các xưởng dệt nhuộm bên cạnh nhu cầu sử
dụng nguồn nhân công nhiều thì chi phí vận hành là rất lớn, theo thống kê để xây
dựng một xưởng may vừa phải thì nguồn vốn chỉ cần 2-3 tỉ đồng, trong khi để xây
dụng một nhà máy dệt, nhuộm tương ứng số tiền có thể gấp đến 10 lần. Sự yếu kém

về vốn, công nghệ là một thực tế mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Vì
thế việc thu hút vốn, đầu tư công nghệ từ các nguồn lực khác là vấn đề cần được cân
nhắc khi phát triển ngành dệt, nhuộm trong nước.
Việc mâu thuẫn trong chính sách của nhà nước giữa việc khuyến khích đầu tư
vào ngành dệt nhuộm và chính sách hạn chế các ngành công nghiệp gây ô nhiễm mỗi
trường. Các nhà máy in, nhuộm hoàn tất luôn gặp phải các vấn đề môi trường vì sử
dụng nhiều hóa chất mà hóa chất thải ra cần phải có hệ thống xử lý nước thải đạt
chuẩn. Hiện nay cả nước chỉ còn vài tỉnh đồng ý cho xây dựng nhà máy in, nhuộm
hoàn tất với điều kiện có hệ thống xử lý nước thải tốt (Nguyễn Công Sơn, Phó chủ
tịch Hiệp hội bông sợi). Đây chính là thách thức đối với các doanh nghiệp khi muốn
đầu tư vào ngành này, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất cho vay cao như hiện nay càng
làm cho việc đầu tư vào ngành dệt, nhuộm khó khăn hơn. Hệ quả là hiện nay chênh
lệch về số doanh nghiệp dệt và nhuộm so với doanh nghiệp may rất lớn, trong 3.700
doanh nghiệp chỉ có 21% trong số đó là các doanh nghiệp dệt và nhuộm.
Quy mô doanh nghiệp nhỏ lẻ, hạn chế về vốn đầu tư, công nghệ chiếm đa số
trong ngành, theo hiệp hội dệt may Việt Nam, khoảng hơn 1500 doanh nghiệp có dưới
17
1000 lao động, gần 250 doanh nghiệp có từ 1000-5000 lao động, và trên 5000 lao
động chỉ có 8 doanh nghiệp. Với đa số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như trên
thì ngành dệt khó có đủ điều kiện về vốn, kĩ thuật để phát triển.
6. Thực trạng sản xuất và nhập khẩu vải:
Bên cạnh chất lượng chưa đạt thì sản lượng ngành dệt vẫn không đáp ứng nhu
cầu về vải cho ngành may. Sản lượng nhập khẩu vải chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu nhập
khẩu nguyên phụ liệu (62% vào năm 2013)
Qua từng năm thì tỉ lệ nhập khẩu vải chiếm lượng lớn trong tổng nguyên liệu
nhập khẩu đồng thời số lượng ngày càng tăng. Năm 2012 giá trị vải nhập khẩu là
7,045 tỉ USD, sang năm 2013 nó đã tăng lên 8,397 tỉ USD với lượng tăng 19,3 %.
(Hình 2: Cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu qua các năm)
7. Đánh giá chung:
Nhìn chung, ngành nguyên phụ liệu nước ta còn rất nhiều hạn chế, sự thiếu hụt

về vốn, công nghệ, những khó khăn về điều kiện tự nhiên hay chính sách về môi
trường đã hạn chế các hoạt động trồng bông, xơ, dệt, nhuộm, ảnh hưởng đến kế hoạch
phát triển ngành nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may Việt Nam. Nguồn lực
trong nước là có giới hạn, chúng ta cần tận dụng những cơ hội từ nước ngoài để bù
đắp sự thiếu hụt, một trong số đó là Cộng đồng kinh tế Asean (AEC), một thị trường
chung thống nhất trong khối Asean tạo ra những cơ hội và kèm theo những thách thức
cho quá trình phát triển ngành dệt may Việt Nam nói chung và ngành nguyên phụ liệu
nói riêng.
II. Cơ hội phát triển ngành nguyên phụ liệu cung ứng cho ngành dệt may Việt
Nam khi gia nhập AEC:
1. Cơ hội hợp tác trồng bông với Campuchia:
Sản lượng bông của nước ta chỉ đáp ứng được trên 10% nhu cầu trong nước.
Hàng năm, Việt Nam phải nhập trên 80 nghìn tấn bông của Trung Quốc, Ấn Độ.
18
Trong khi đó, Campuchia lại hội đủ nhiều yếu tố lý tưởng để là khu vực trồng và cung
cấp bông cho ngành dệt may ở nước ta.
Về điều kiện đất đai, thổ nhưỡng: bông vải là cây chịu hạn, rất sợ bị úng vì vậy
khi trồng cần chọn đất cao ráo, dễ tiêu nước khi bị úng. Trong khi đó Campuchia có
các vùng đất tốt, giàu dinh dưỡng, tơi xốp, thoát nước, giữ ẩm, ít chua ( pH > 5 ) và có
độ mặn thấp < 0,4% (đất Bazan nâu đỏ, Bazan nâu đen, đất đen, đất xám và đất phù sa
không được bồi hàng năm). Tiêu biểu là hai tỉnh Batdambang và Ratavakiri (thuộc
Tây Bắc và Đông Bắc của Campuchia) với quỹ đất rộng, bằng phẳng, người thưa, đủ
điều kiện để mở rộng diện tích nếu có hiệu quả kinh tế.
Về điều kiện khí hậu: không có hoặc có rất ít những trận mưa bão cuối vụ nếu
bông sử dụng nước trời, tại những vùng có lượng mưa trên 1.000 mm và đều có thể
trồng bông không cần tưới. Campuchia thuộc khu vực có nhiệt độ và ánh sáng phù
hợp với nguồn gốc nhiệt đới của cây bông, bông là cây trồng ưa sáng và nhiệt độ tối
ưu cho bông nẩy mầm, sinh trưởng và phát triển là 25-30 độ C. Năng suất bình quân
có thể đạt 14 tạ/ ha.
Về bối cảnh kinh tế: Khu vực trồng bông Campuchia hầu như không phát triển

từ sau năm 1979 do thiếu thị trường tiêu thụ và giá bán quá thấp và không tìm được
đầu ra, đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam để đưa Campuchia trở thành
vùng cung cấp bông làm nguyên phụ liệu cho ngành dệt may.
2. Cơ hội hợp tác về vốn, công nghệ với các nước phát triển trong khu vực-
Hợp tác với Thái Lan:
Kết quả nghiên cứu tính cạnh tranh của Thái Lan so với Việt Nam, Trung
Quốc, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ, Pakistan và Philippines của văn phòng này cho
thấy rằng chi phí sản xuất ở Việt Nam thấp hơn tại Thái-lan 19,48% bởi các nhân tố
miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thô, nhân công và chi phí nhiên liệu rẻ hơn.
Do đó, hiện nay các doanh nghiệp dệt may của Thái Lan đang có xu hướng đầu tư
19
chuyển dây chuyền sản xuất vào Việt Nam. Tận dụng được cơ hội này, Việt Nam có
thể hợp tác để xây dựng chuỗi cung ứng cho ngành dệt may nói chung cũng như khâu
đầu tiên của chuỗi cung ứng là nguyên phụ liệu nói riêng.
Bên cạnh đó, Thái Lan là quốc gia phát triển mạnh về nông nghiệp và giống
cây trồng, nên cơ hội này mở ra hướng hợp tác cho ngành trồng cây bông vải và trồng
dâu nuôi tằm ở Việt Nam như: lai tạo giống, nâng cao năng suất, hiện đại hoá quy
trình trồng và thu hoạch…
3. Cơ hội từ tự do dịch chuyển hàng hoá- tự do dịch chuyển vốn và công
nghệ- tự do dịch chuyển nguồn nhân lực:
Tự do thương mại về hàng hoá: theo lộ trình cắt giảm thuế nhằm tạo khu vực
tự do mậu dịch hàng hoá, thuế suất giảm xuống 0-5% đối với tất cả các mặt hàng
thuộc IL (mặt hàng nằm trong danh mục thực hiện CEPT) từ Lào và Myanmar vào
năm 2008 và Campuchia vào năm 2010, đây đều là những quốc gia có nguồn cung
nguyên phụ liệu cho ngành dệt may.
Tự do dịch chuyển vốn và công nghệ: khi tham gia AEC sẽ mở ra cơ hội dịch
chuyển vốn và công nghệ một cách tự do giữa các quốc gia trong nội khối ASEAN,
đây là cơ hội tốt để Việt Nam thu hút vốn và công nghệ tiên tiến từ các nước như
Singapore, Thái Lan nhằm phát triển chuỗi cung ứng cho ngành dệt may nói chung và
ngành nguyên phụ liệu nói riêng.

Tự do dịch chuyển nguồn nhân lực: nguồn nhân lực chất lượng cao và có tay
nghề từ các nước trong khối sẽ đổ về Việt Nam để tìm kiếm cơ hội phát triển, ngành
dệt may Việt Nam có thể có các biện pháp thu hút để tận dụng nguồn nhân lực này .
Điều này mang lại cơ hội xây dựng khâu thiết kế để phát triển ngành dệt may, đây là
khâu quan trọng có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn nguồn nguyên phụ liệu đầu vào,
nên sẽ tạo được cầu cho nguyên phụ liệu trong nước hoặc nội khối thay vì chọn nguồn
cung từ Trung Quốc như hiện nay, giúp tạo tiền đề cho ngành nguyên phụ liệu nước ta
phát triển lâu dài và bền vững.
III. Một số thách thức từ AEC cần giải quyết để đẩy mạnh phát triển nguyên
phụ liệu:
20
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại nội khối sẽ dần xóa bỏ những hàng rào thuế
quan và phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên AEC. Theo kế hoạch đến 2015, sẽ
xóa bỏ thuế cho tất cả các sản phẩm ngoại trừ các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm
và nhạy cảm cao. Tính đến 7/2013, Việt Nam đã giảm 10.000 dòng thuế xuống 0-5%
chiếm 98% dòng thuế trong biểu thuế (theo ATIGA), điều này dẫn đến một trở ngại
lớn đó là việc tràn ngập các loại hàng hóa các nước trong khu vực Asean ở thị trường
Việt Nam, trong đó có hàng may mặc. Không còn các hàng rào thuế quan đồng nghĩa
với tăng lợi thế cạnh tranh về giá của các sản phẩm nhập ngoại, ngoài ra việc chất
lượng sản phẩm dệt may ở các thị trường như Thái Lan và Malaysia… được đánh giá
tốt hơn Việt Nam, vì thế các doanh nghiệp dệt may trong nước chịu tác động cạnh
tranh gay gắt hơn, thị phần sẽ dần mất vào tay đối thủ trong khu vực là điều không
tránh khỏi.
Lợi thế cạnh tranh ngày càng mất đi: theo thống kê giá nhân công, giá điện
tăng dần qua các năm điều này làm môi trường Việt Nam đang dần kém hấp dẫn hơn
các nước trong khu vực như Lào, Campuchia, Myanmar. Đối với ngành dệt may thâm
dụng lao động rất lớn thì việc giá nhân công tăng cao là rào cản thu hút đầu tư, thêm
vào đó, AEC được kí kết, nguồn vốn tự do dịch chuyển thì các nhà đầu tư trong Asean
dễ dàng tiếp cận với các thị trường mới nổi như Campuchia, Myanmar để tận dụng lợi
thế giá rẻ mà các thị trường này mang lại.

Gia nhập AEC, ngành nguyên phụ liệu đứng trước những thách thức không
nhỏ, nhưng cũng tràn đầy cơ hội để nắm bắt. Quan trọng các doanh nghiệp trong nước
cần nắm bắt các cơ hội AEC đem lại, tận dụng nguồn lực bên ngoài để giải quyết khó
khăn.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ AEC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH NGUYÊN PHỤ LIỆU CUNG ỨNG CHO NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM
I. Giải pháp ngắn hạn- Tìm nguồn cung nguyên liệu từ các nước trong khu
vực AEC
21
Tình hình hiện tại, nguồn nguyên phụ liệu trong nước chủ yếu nhập từ Trung
Quốc, Đài Loan, Mĩ…với giá thành cao và nguồn cung không ổn định. Khi Việt Nam
tham gia vào cộng đồng kinh tế AEC, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan sẽ được
dỡ bỏ vì vậy giá nguồn nguyên phụ liệu AEC khi vào Việt Nam sẽ thấp, giảm giá
thành sản xuất cho ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên để tăng tính chủ động nhập
khẩu nguyên phụ liệu thì các doanh nghiệp nhập khẩu cần xây dụng mối liên kết chặt
chẽ với nguồn cung nguyên phụ liệu trong AEC. Để làm được điều này thì chính phủ
và ngành dệt may Việt Nam làm được các vấn đề sau:
- Thứ nhất, cần thiết phải xây dựng mạng lưới thông tin sẵn có về các nhà
cung cấp nguyên phụ liệu để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nhà
cung cấp có khả năng cung cấp các loại nguyên liệu đặc biệt và phải tin cậy
về chất lượng, thời gian giao hàng.
- Thứ hai, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp để nâng cao vị
thế của từng doanh nghiệp trong mối quan hệ với các nhà cung cấp. Điều
này đòi hỏi vai trò quan trọng của hiệp hội dệt may trong việc đại diện tiếng
nói cho các doanh nghiệp.
- Thứ ba, chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mối liên kết
giữa các doanh nghiệp với các nhà cung cấp thông qua các hiệp định hợp
tác và xúc tiến thương mại với các nước của nhà cung cấp.
II. Giải pháp trung và dài hạn:

1. Phát triển vùng trồng nguyên phụ liệu ở Campuchia:
Diện tích bông ở Việt Nam ngày càng thu hẹp, nguyên nhân là do trồng bông
Việt Nam không có hiệu quả vì điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu không phù hợp. Tuy
nhiên theo khảo sát, đất nước Campuchia có nhiều vùng có điều kiện tự nhiên, thổ
nhưỡng phù hợp trồng bông vải. Trong tiến trình hội nhấp AEC, sự tự do dịch chuyển
vốn, công nghệ là tự do giữa các nước trong khu vực, nắm bắt cơ hội này, các doanh
nghiệp trong nước cần đầu tư vốn, công nghệ sang đất nước Campuchia để phát triển
vùng trồng bông nhằm tận dụng đặc điểm tự nhiên thuận lợi để nâng cao năng suất
22
nhằm hướng đến mục tiêu cung cấp nguồn bông ổ định cho ngành sản xuất nguyên
phụ liệu trong nước.
2. Thu hút đầu tư vốn, công nghệ, và nguồn nhân lực tức các nước nội khối
AEC:
Việc xây dựng và phát triển được nguồn nguyên phụ liệu cho ngành dệt may
Việt Nam đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về vốn, công nghệ, đặc biệt là khả năng quản lý
hiệu quả. Trong khi nguồn lực trong nước chưa đáp ứng được thì Chính phủ cần có
những chính sách thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Đặc biệt trong bối cảnh gia nhập AEC có nhiều thuận lơi từ việc tự do dịch
chuyển nguồn vốn, nguồn nhân lực thì chính phủ cùng các doanh nghiệp cần tích cực
kêu gọi đầu tư từ các nước nội khối AEC vào ngành thông qua các chính sách ưu đãi
đi kèm. Trong phần phân tích hoạt động dệt nhuộm một vấn đề khó khăn đó là xử lý
nước thải.
Vì vậy về phía chính phủ cần quy hoạch vùng phát triển dệt nhuộm, đầu tư vào
đó hệ thống xử nước thải tốt nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư yên tâm
sản xuất. Về phía hiệp hội dệt may cần kết nối thông tin giữa các doanh nghiệp sản
xuất nguyên phụ liệu và các doanh nghiệp may mặc để đảm bảo đầu ra ổn định cho
sản phẩm, về phía các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản lý, giám sát để tăng
tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
3. Giải pháp từ ngoại khối- Công nghệ xanh của Nhật Bản:
. Nhật Bản là một quốc gia rất phát triển về công nghệ xanh, trong những năm

qua Nhật Bản đã rất tích cực đầu tư vào Việt Nam về nguồn vốn (ODA), và chuyển
giao công nghệ. Tận dụng thuận lợi này, Việt Nam cần thu hút đầu tư của Nhật Bản
vào các dự án xử lý nước thải tại các cụm công nghiệp dệt nhuộm thông qua việc hợp
tác về vốn và công nghệ xử lý nước thải; xây dựng các cụm công nghiệp dệt-nhuộm
công nghệ cao với quy trình xử lý nước thải khép kín và đạt tiêu chuẩn thân thiện với
môi trường; cũng như nâng cao hiệu suất hoạt động của các nhà máy dệt-nhuộm.
23
III. Một số kiến nghị nhằm giải quyết các thách thức từ AEC để nâng cao hiệu
quả của các giải pháp tận dụng cơ hội từ AEC:
Trong những năm qua, ưu thế về giá nhân công giá rẻ của Việt Nam đang dần
mất đi khi giá nhân công trong nước đang cao hơn so với Campuchia và
Myanmar, những thị trường đầu tư hấp dẫn mới nổi trong khu vực.
Chính vì thế Việt Nam cần cải thiện môi trường đầu tư với các nhà đầu tư nước
ngoài thông qua:
1. Ổn định các điều kiện sản xuất thông qua các cam kết ổn định nguồn cung
cấp điện, nước, bên cạnh đó cần thiết về sự bình ổn về giá cả, tạo lợi thế
cạnh tranh trong việc thu hút nước ngoài.
2. Ưu đãi về chính sách và các thủ tục hành chính trong việc cấp phép đầu tư
vào các dự án trọng điểm của ngành dệt may.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Công khải và Bùi Thị Tuyết Nhung , 11/08/2011, Chuỗi giá trị ngành dệt
may Việt Nam- tài liệu giảng dạy kinh tế Fulbright.
2. Nguyệt A. Vũ, 4/2014, báo cáo ngành VietinbankSc- ngành dệt may Việt Nam.
3. Số liệu về nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu dệt may Việt Nam (2005-2-
13)- nguồn Vitas.
4. Số liệu nhập khẩu bông, xơ, sợi của Việt Nam giai đoạn 2005-2013- nguồn
Vitas.
5. Cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may năm 2013- nguồn Vitas.
24
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ

Bảng 1: Số liệu về nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu dệt may Việt Nam
(2005-2-13)
Bảng 2: Số liệu nhập khẩu bông, xơ, sợi của Việt Nam giai đoạn 2005-2013
Hình 1: Đồ thị biểu diễn giá trị gia tăng của chuỗi giá trị dệt may
Hình 2: Cơ cấu nguyên liệu nhập khẩu qua các năm
Hình 3: Cơ cấu nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may năm 2013
25

×