Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần sông đà đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 107 trang )

Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ sở vật chất kỹ thuật là nền tảng của mỗi quốc gia. Cơ sở vật chất
được tạo ra không thể thiếu phần đóng góp quan trọng của ngành xây dựng cơ
bản. Ngành xây dựng cơ bản không chỉ tạo ra bề nổi vật chất cho một Quốc
gia mà nó còn phản ánh nội lực kinh tế, chính trị, xã hội, bản sắc văn hóa dân
tộc. Mặt khác, với xu thế hội nhập và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay
đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống các công cụ
quản lý nền kinh tế, trong đó có ngành kế toán. Kế toán giữ vai trò tích cực
trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những khâu hết
sức quan trọng của hạch toán kế toán. Giá thành là chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp phản ánh trình độ quản lý, sử dụng vật tư, lao động, máy móc thiết bị,
trình độ tổ chức, là cơ sở để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh. Việc
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ ở chỗ tính
đúng, tính đủ mà còn phải tính đến việc cung cấp thông tin cho nhà quản lý
doanh nghiệp. Đây là một đòi hỏi khách quan cho là quản lý. Để phát huy tốt
chức năng đó thì công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm phải được cải tiến và hoàn thiện.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp, để quá trình xây lắp diễn ra thuận lợi
từ khâu lập toán đến khâu tổ chức thực hiện, nhà quản trị doanh nghiệp cần
phải cập nhật những thông tin về tình hình chi phí đi đôi với kết quả hoạt
động xây lắp. Từ đó đề ra những biện pháp giảm bớt chi phí không cần thiết,
khai thác tiềm năng vốn có của doanh nghiệp nhằm phát huy tối đa hiệu quả
của hoạt động xây lắp vì mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Những thông
tin kinh tế đó không chỉ được xác định bằng phương pháp trực quan căn cứ
vào hình thái vật chất của nó mà cò bằng phương pháp ghi chép tính toán dựa
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
vào sự phản ánh chi phí thực tế phát sinh trên sổ sách. Như vậy, có thể khẳng
định kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm


nói riêng là bộ phận không thể thiếu đối với việc tăng cường công tá quản trị
doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp, qua thời gian học tập tại
trường Học viện tài chính và thực tập tại công ty cổ phần Sông Đà Đông Đô,
từ thực tiễn kế toán tại đơn vị cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo
Nguyễn Vũ Việt và các cán bộ phòng Tài chính Kế toán của công ty cổ
phần Sông Đà Đông Đô, em đã chọn đề tài: “Tổ chức kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần Sông Đà Đông Đô” để
làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở công ty cổ phần Sông Đà Đông Đô
Chương 3: hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại công ty cổ phần Sông Đà Đông Đô
Do kiến thức lý luận cũng như thực tiễn của bản thân còn có những hạn
chế, vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của Thầy
Cô giáo, các cán bộ phòng Kế toán – Tài chính tại công ty cổ phần Sông Đà
Đông Đô để em có thể nâng cao sự hiểu biết và hoàn thiện bài luận văn của
mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.

1.1.1. Chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm.
 Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Quá trình sản xuất kinh doanh là sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản để tạo
ra các loại sản phẩm lao vụ, dịch vụ: Tư liệu lao động (nhà xưởng, máy móc
thiết bị, tài sản cố định khác), đối tượng lao động (nguyên vật liệu, nhiên
liệu), sức lao động (sức lao động của con người).
Sự tiêu hao các yếu tố này trong quá trình sản xuất kinh doanh đã tạo ra
các chi phí tương ứng, đó là chi phí về tư liệu lao động, đối tượng lao động và
lao động sống. Trên phương diện này, chi phí được xác định là tổng giá trị các
khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán, dưới hình thức các khoản
tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ làm giảm
vốn chủ sở hữu.
Như vậy, theo quan điểm của kế toán tài chính, chi phí sản xuất trong
doanh nghiệp xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động
sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi
ra để tiến hành các hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định.
Đứng trên góc độ của kế toán quản trị, mục đích của kế toán quản trị
chi phí là cung cấp thông tin thích hợp về chi phí, kịp thời cho việc ra quyết
định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy chi phí không chỉ là những chi
phí gắn liền với hoạt động xây lắp hàng ngày mà có thể là những chi phí ước
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
tính để thực hiện một dự án hay giá trị lợi ích mất đi khi lựa chọn phương án
này mà bỏ qua cơ hội kinh doanh khác.
Để quản lý chi phí một cách hiệu quả chúng ta cần nắm vững được bản
chất của chi phí. Khi xem xét bản chất của chi phí trong doanh nghiệp cần xác
định rõ: chi phí sản xuất của doanh nghiệp được đo lường bằng tiền và tính
toán trong một khoảng thời gian nhất định. Độ lớn của chi phí phụ thuộc và
hai nhân tố chủ yếu:
Một là khối lượng lao động, tư liệu sản xuất đã tiêu hao và sản xuất

trong một thời kỳ nhất định.
Hai là giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công của một đơn
vị lao động đã hao phí.
Chi phí thực chất là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đối
tượng tính giá thành nhất định, nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình
sản xuất. Và doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc quản lý chi phí, bởi
nếu chi phí không hợp lý, không đúng với thực chất của nó, đều gây ra khó
khăn trong quản lý và lảm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Đứng trên góc
độ của kế toán tài chính, chi phí được nhìn nhận như những khoản phí tổn
phát sinh gắn liền vơi hoạt động của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở
chứng từ tài liệu, bằng chứng chắc chắn. Trên góc độ của kế toán quản trị
thông qua chi phí để có được thông tin thích hợp ra quyết định kịp thời do đó
chi phí không chỉ gắn liền với hoạt động sản xuất hàng ngày mà cũng có thể
là những phí tổn ước tính lựa chọn, thực hiện một dự án.
 Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Quá trình sản xuất là quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào thành các
yếu tố đầu ra, vì vậy nó bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
sản xuất. Mặt hao phí sản xuất được phản ánh qua chỉ tiêu chi phí sản xuất và
mặt kết quả sản xuất phản ánh qua chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
chi phí tính cho từng công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp
hoàn thành đến giai đoạn quy ước hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao và được
chấp nhận thanh toán.
Bản chất của giá thành trong doanh nghiệp xây lắp là sự dịch chuyển
giá trị các yếu tố chi phí vào sản phẩm xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm xây lắp là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác
định, vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan. Đó là chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình xây lắp,

cũng như tính đúng đắn của những giải pháp quản lý mà doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao lợi
nhuận.
Khác với các doanh nghiệp khác, ở doanh nghiệp xây dựng giá thành
sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt : mỗi công trình, hạng mục công
trình hay khối lượng xây lắp đã hoàn thành đều có một giá thành riêng.
Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu :
 Chức năng thước đo bù đắp chi phí: là toàn bộ chi phí mà doanh
nghiệp đã bỏ ra được bù đắp bằng số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm để
hoàn thành một khối lượng công tác xây lắp. Căn cứ vào đơn giá bán trên thị
trường, hoặc đơn giá theo giá đấu thầu và căn cứ vào giá thành đơn vị sản
phẩm ta sẽ biết được doanh nghiệp có bù đắp được chi phí bỏ ra hay không.
 Chức năng lập giá: để bù đắp chi phí đã bỏ ra khi xác định giá bản của sản
phẩm phải căn cứ vào giá thành của nó.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
1.1.2. Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
 Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với
nhau, đều là biểu hiện hai mặt của quá trình sản xuất kinh doanh. Chúng
giống nhau về chất nhưng khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm đều biểu hiện bằng tiền của những hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá. Tuy nhiên, chúng có sự khác nhau về giới hạn và phạm vi:
 Chi phí sản xuất chỉ tính đến những hao phí lao động phát sinh trong
một kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm có giới hạn chi phí gắn liền với một
công trình, hạng mục công trình hoặc một khối lượng công tác xây lắp hoàn
thành nhất định.
 Chi phí sản xuất gồm những chi phí phát sinh trong kỳ đó còn giá
thành sản phẩm có thể gồm một phần chi phí phát sinh ở kỳ trước và một
phần chi phí phát sinh của kỳ sau nhưng được ghi nhận trong kỳ. Công thức:

Giá thành
sản xuất
=
CPSX dở
dang đầu kỳ
+
CPSX phát
sinh trong kỳ
-
CPSX dở
dang cuối kỳ
 Mặt khác giá thành sản phẩm không tính đến những chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ, chi phí thiệt hại nhưng lại gồm chi phí sản xuất dở dang đầu
kỳ.
Trong trường hợp đặc biệt không có chi phí dở dang đầu kỳ và cuối kỳ
hoặc chi phí dở dang đầu kỳ bằng chi phí dở dang cuối kỳ thì chi phí sản xuất
bằng giá thành sản phẩm.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế có ý
nghĩa quan trọng trong công tác quản lý doanh nghiệp, có mối quan hệ mật
thiết với doanh thu, kết quả hoạt động xây lắp. Nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện cạch tranh gay gắt.
Tổ chức, quản lý kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
một cách khoa học hợp lý và đúng đắn có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản
lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tổ chức kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lý của chi phí sản xuất phát sinh ở các doanh nghiệp, ở từng bộ phận,
từng đối tượng, góp phần tăng cường quản lý tài sản, vật tư lao động, tiền vốn
một cách tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời tìm ra giải pháp tiết kiệm chi phí,
nâng cao chất lượng sản phẩm, đó là một trong những điều kiện quan trọng

giúp doanh nghiệp đứng vững trong thị trường cạnh tranh khốc liệt.
Mặt khác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
cũng có ý nghĩa quan trọng trong kế toán quản trị. Đó là cơ sở để xác định giá
bán sản phẩm, phân tích chi phí, đồng thời là căn cứ để xác định kết quả kinh
doanh, cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Tuy
nhiên nó là trung tâm của toàn bộ công tác kế toán ở doanh nghiệp, chi phối
đến chất lượng các phần hành kế toán khác cũng như chất lượng và hiệu quả
công tác quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, việc quản lý tốt và hiệu quả chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm đã trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp.
 Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Để thực hiện tốt chức năng kiểm tra và cung cấp thông tin, tính giá
trong doanh nghiệp nói chung cũng như kế toán giá thành nói riêng phải tuân
thủ yêu cầu chính xác và nhất quán. Yêu cầu chính xác đòi hỏi việc tính giá
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
thành phải đảm bảo tính trung thực, phù hợp với giá cả hiện thời và số lượng,
chất lượng của công trình xây lắp. Nếu việc tính giá thành không chính xác,
thông tin do tính giá thành cung cấp sẽ mất tính xác thực, không tin cậy, ảnh
hưởng đến việc đề ra các quyết định trong doanh nghiệp. Để thực hiện tốt
chức năng của mình, kế toán giá thành cũng phải đảm bảo yêu cầu thống nhất.
Yêu cầu này có nghĩa là việc tính giá thành phải thống nhất về phương pháp
giữa các kỳ khác nhau.
Sản phẩm xây lắp là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, kết
cấu phức tạp, mang tính chất đơn chiếc. Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch
toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công).
Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo.
Thời gian từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành công trình bàn giao đưa
vào sử dụng thường kéo dài. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau. Đặc điểm này

đòi hỏi sự quản lý, giám sát thi công chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật đồng
thời hạn chế những hao hụt, mất mát.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận
với chủ đầu tư từ khi ký hợp đồng, do đó tính chất hàng hóa không thể hiện
rõ.
Thực tế nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thách
thức. Tình trạng khủng hoảng của kinh tế thế giới cũng đang có tác động
mạnh mẽ đến nhiều doanh nghiệp trong nước, nó đòi hỏi các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển thì phải hạch toán một cách khoa học và hợp lý chi
phí sản xuất,giá thành sản phẩm nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Nói tóm lại, quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là một yêu
cầu khách quan đối với mọi doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây
lắp nói riêng. Quản lý chi phí tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí
sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao lợi thế cạnh tranh từ đó giúp nâng
cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
1.1.3. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
 Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ
giá thành công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động của các doanh
nghiệp xây lắp:
 Tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm xây lắp là tiền đề cho việc xác định, phân tích kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
 Dựa trên những số liệu mà kế toán chi phí và giá thành cung cấp, nhà
quản lý có thể biết được chi phí, giá thành thực tế của từng công trình, hạng
mục công trình. Qua đó, nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế

hoạch sản xuất, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng
phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với
hoạt động của doanh nghiệp.
 Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng góp phần
hoàn thiện công tác xây dựng hệ thống chi phí định mức.
 Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm
Để tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,
đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
nghiệp, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp xây lắp cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
 Căn cứ vào đặc điểm tổ chức kinh doanh, quy trình công nghệ sản xuất,
khả năng hạch toán và yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp để xác định
đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp.
 Tổ chức chứng từ, hạch toán ban đầu, hệ thống tài khoản, sổ kế toán
phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ kế toán.
 Phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh
trong kỳ và kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng đối tượng kế
toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác định, theo yếu tố chi phí và khoản mục
giá thành.
 Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân
công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp
thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch,
các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng…trong sản xuất để đề xuất những biện
pháp ngăn chặn kịp thời.
 Tính toán lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn
thành của doanh nghiệp
 Tổ chức lập và phân tích báo cáo kế toán về chi phí, giá thành sản

phẩm, cung cấp những thông tin cần thiết giúp nhà quản trị ra quyết định
nhanh chóng, phù hợp.
1.2. Phân loại, nhận diện chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
1.2.1. Phân loại, nhận diện chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh
nghiệp xây lắp nói riêng phát sinh thường xuyên trong hoạt động của doanh
nghiệp, nhưng để phục vụ cho quản lý chi phí sản xuất và cung cấp tài liệu
cho việc tính giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất cần được tập hợp theo từng
thời lỳ nhất định (tháng, quý, năm).
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Chi phí là nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Nhiệm vụ kiểm soát chi phí, dự toán biến động của chi phí đối với các nhà
quản trị là rất quan trọng. Việc phân loại chi phí của doanh nghiệp là nhằm
phục vụ cho quản trị hoạt động xây lắp của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây lắp bao gồm nhiều loại có nội
dung kinh tế, mục đích, công dụng cũng như yêu cầu quản lý khác nhau. Vì
vậy, để đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí cũng như công tác kế toán, chi phí
sản xuất được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, bao gồm :
- Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
- Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng kinh tế
- Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí và mối
quan hệ với đối tượng chịu chi phí
- Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng hoạt động
- Phân loại chi phí sản xuất theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng kế toán chi phí
- Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng
kế toán tập hợp chi phí sản xuất
 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Nội dung :

Theo cách phân loại này các chi phí sản xuất có chung nội dung kinh tế
được xếp vào một loại chi phí, không phân biệt mục đích, công dụng của chi
phí đó. Trong doanh nghiệp xây lắp được chia thành các yếu tố chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu : gồm toàn bộ giá trị nguyên liệu, nhiên liệu,
phụ tùng thay thế, vật liệu, thiết bị xây dựng cơ bản, dụng cụ…mà
doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
- Chi phí nhân công : là các khoản chi phí về tiền lương, tiền công và
các khoản trích theo lương của người lao động trong quá trình sản
xuất.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là chi phí khấu hao máy móc thiết
bị sản xuất và những tài sản cố định khác dùng cho hoạt động sản xuất.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là chi phí về dịch vụ nhận từ bên ngoài để
phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp như chi phí về điện, nước, điện
thoại…
- Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi phí bằng tiền phát sinh trong
quá trình sản xuất ngoài các yếu tố nói trên.
Tác dụng :
Việc phân loại chi phí sản xuất theo nội dung tính chất kinh tế là cơ sở
để lập và phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất theo yếu tố.
Nó giúp nhà quản lý biết được kết cấu, tỷ trọng của từng yếu tố chi phí chi ra
trong quá trình sản xuất lập dự toán, tổ chức thực hiện dự toán. Bên cạnh đó,
đây còn là căn cứ để lập phần “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” trên
Thuyết minh Báo cáo tài chính, lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ chức lao
động tiền lương và tính toán nhu cầu vốn…
 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp theo mục đích, công dụng kinh tế
Nội dung :
Theo cách phân loại này, những chi phí có cùng mục đích và công dụng
được xếp vào một khoản mục chi phí. Toàn bộ chi phí xây lắp được chia

thành các khoản mục như sau :
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: gồm toàn bộ trị giá nguyên vật liệu
sử dụng trực tiếp cho thi công công trình mà đơn vị xây lắp bỏ ra (vật
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
liệu chính, vật liệu phụ, cấu kiện bê tông chế sẵn…) chi phí này không
bao gồm thiết bị do chủ đầu tư bàn giao.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, tiền công phải trả cho số
ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công
tác xây lắp, công nhân phục vụ xây lắp kể cả công nhân vận chuyển,
bốc dỡ vật liệu trong phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn
bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi công, không phân biệt công nhân
trong danh sách hay thuê ngoài.
- Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân
công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và
được chia làm 2 loại: chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời. Đây là
khoản mục chi phí đặc thù riêng có đối với các doanh nghiệp xây lắp.
- Chi phí sản xuất chung: là chi phí tổng hợp bao gồm nhiều khoản chi
phí khác nhau thường có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây
lắp như: tiền lương nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo lương
của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân sử dụng máy thi công và
nhân viên quản lý đội, khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt động
của đội và các chi phí khác liên quan đến hoạt động chung của đội xây
lắp.
Tác dụng :
Trong doanh nghiệp xây lắp, đây là cách thức phân loại được sử dụng
phổ biến nhất. Điều này xuất phát từ phương pháp lập dự toán trong xây dựng
cơ bản, dự toán được lập theo theo từng khoản mục chi phí và cho từng công
trình, hạng mục công trình. Đây là căn cứ để có thể so sánh, kiểm tra, phân
tích chi phí sản xuất xây lắp thực tế phát sinh với dự toán.

SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
 Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí và mối
quan hệ với đối tượng chịu chi phí
Nội dung :
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành hai
loại :
- Chi phí trực tiếp : là các chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với từng đối
tượng chịu chi phí ( từng loại sản phẩm được sản xuất, từng công việc được
thực hiện…). Các chi phí này được kế toán căn cứ trực tiếp vào các chứng từ
phản ánh chúng để tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng liên quan.
- Chi phí gián tiếp : là những chi phí sản xuất liên quan đến nhiều đối
tượng chịu chi phí, chúng cần được tiến hành phân bổ cho các đối tượng chịu
chi phí theo tiêu thức phân bổ thích hợp.
Tác dụng :
Cách phân loại này có tác dụng trong việc xác định phương pháp kế toán
tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất cho các đối tượng tập hợp chi phí một
cách hợp lý.
 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng hoạt động
Nội dung :
Theo cách phân loại này chi phí được phân theo cách ứng xử của chi
phí hay là xem xét sự biến động của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi.
Chi phí được phân thành ba loại :
- Biến phí: là chi phí sản xuất có sự thay đổi về tổng số khi có sự thay
đổi về mức độ hoạt động của doanh nghiệp.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
- Định phí: là những chi phí sản xuất có tổng số ít thay đổi khi khối
lượng hoạt động thay đổi.
- Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố của

định phí và biến phí.
Tác dụng :
Việc phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức này là cơ sở để phân tích
mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng và lợi nhuận, từ đó góp phần tăng cường
công tác kiểm soát chi phí, phân tích thông tin chi phí để đưa ra quyết định
doanh nghiệp.
 Phân loại chi phí sản xuất theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối
tượng kế toán chi phí
Nội dung :
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia làm hai loại :
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng kế toán tập hợp chi phí. Chúng ta có thể quy nạp, hạch toán trực tiếp
vào từng đối tượng chịu chi phí như chi phí NVLTT, chi phí NCTT. Loại chi
phí này thường chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí. Tuy nhiên chúng dễ
được nhận dạng và hạch toán chính xác. Vì vậy sẽ thuận lợi cho việc kiểm
soát chi phí và xác định nguyên nhân gây ra chi phí.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối
tượng tập hợp chi phí khác nhau như chi phí NVL phụ, chi phí nhân công
phục vụ sản xuất…Đối với chi phí gián tiếp, nguyên nhân gây ra chi phí và
đối tượng chịu chi phí rất khó nhận dạng. Vì vậy, chúng ta thường phải tập
hợp chúng sau đó mới lựa chọn tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng chịu chi
phí.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Tác dụng
Cách phân loại này có ý nghĩa về mặt kỹ thuật quy nạp chi phí vào đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Thông qua cách phân loại này, các nhân viên kế toán quản trị có thể tư
vấn cho các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra và thực hiện một cơ cấu tổ chức
sản xuất kinh doanh hợp lý để đa số các khoản chi phí có thể quy nạp trực tiếp

cho từng đối tượng tập hợp chi phí. Từ đó giúp cho việc quản lý chi phí được
thuận lợi hơn.
 Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí với đối
tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Nội dung
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia thành hai loại :
- Chi phí cơ bản : Là các chi phí có liên quan trực tiếp đến quy trình
công nghệ sản xuất sản phẩm xây lắp như chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi
phí khấu hao TSCĐ dùng trực tiếp vào quá trình sản xuất.
- Chi phí chung : Là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý sản
xuất có tính chất chung như chi phí quản lý các đội xây dựng, chi phí quản lý
doanh nghiệp.
Tác dụng
Cách phân loại này giúp nhà quản trị doanh nghiệp xác định phương
hướng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đối với chi phí cơ bản thì
chúng ta không thể cắt giảm một loại chi phí cơ bản nào mà phải giảm bớt chi
phí bằng cách quản lý định mức tiêu hao hoặc cải tiến quy trình công nghệ.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Ngược lại, đối với chi phí sản xuất chung cần thiết phải tiết kiệm triệt để, hạn
chế các khoản chi phí không cần thiết, tăng cường quản lý theo dự toán.
Ngoài các cách kể trên, tùy theo mục đích, nhu cầu quản lý, doanh
nghiệp có thể phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác.
1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng nhu cầu của quản lý hạch toán và kế hoạch hóa giá thành
sản phẩm cũng như yêu cầu xác định giá cả, giá thành được xem xét dưới
nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau. Do đặc điểm của ngành xây dựng
cơ bản và sản xuất sản phẩm xây lắp là công trình, vật kiến trúc … mang nét
đặc thù riêng so với các ngành khác mà cách phân loại giá thành sản phẩm
cũng khác nhau. Trong kế toán quản trị, chỉ tiêu giá thành có thể xác định

theo các phạm vi khác nhau tùy theo mục đích sử dụng thông tin về giá thành
sản phẩm của các nhà quản trị doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp xây lắp,
giá thành sản phẩm được phân loại theo các tiêu thức sau :
- Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp theo cơ sở số liệu và thời điểm
tính giá thành.
- Phân loại giá thành sản phẩm theo phạm vi các chi phí cấu thành.
 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp theo cơ sở số liệu và thời điểm
tính giá thành
- Giá thành dự toán : Là tổng chi phí dự toán để hoàn thành sản phẩm
xây lắp . Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức và đơn giá
chi phí do Nhà nước qui định( đơn giá bình quân khu vực thống nhất). Giá
thành này nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần thu nhập chịu thuế tính trước và thuế
giá trị gia tăng đầu ra :
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Giá trị dự toán của Công trình, hạng
mục công trình + Thuế giá trị gia
tăng đầu ra.
=
Giá thành dự toán công
trình, hạng mục công
trình + thu nhập chịu
thuế tính trước.
- Giá thành kế hoạch : là giá thành được xây dựng trên cơ sở những
điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức , đơn giá , biện pháp tổ
chức thi công . Giá thành kế hoạch thường nhỏ hơn giá thành dự toán xây lắp
ở mức hạ giá thành kế hoạch.
- Giá thành thực tế : là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí thực tế để
hoàn thành sản phẩm xây lắp. Giá thành này được tính trên cơ sở số liệu kế
toán về chi phí sản xuất đã tập hợp được cho sản phẩm xây lắp thực hiện

trong kỳ. Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị
đưa vào lắp đặt, bởi vì thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho
doanh nghiệp nhận thầu xây lắp.
 Phân loại giá thành sản phẩm theo phạm vi các chi phí cấu thành
Do quá trình thi công và hoàn thành sản phẩm xây lắp kéo dài, khối
lượng sản phẩm xây lắp lớn nên để thuận tiện cho việc theo dõi chi phí phát
sinh người ta phân chia giá thành thành hai loại là: giá thành hoàn chỉnh và
giá thành khối lượng hoàn thành quy ước.
- Giá thành hoàn chỉnh: Phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến công
trình, hạng mục công trình hoàn thành và đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chất
lượng theo thiết kế hợp đồng bàn giao và được bên chủ đầu tư nghiệm thu,
chấp nhận.
- Giá thành khối lượng hoàn thành quy ước: Phản ánh giá thành của khối
lượng công tác xây lắp đạt tới điểm dừng kỹ thuật nhất định, nó cho phép
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp ở giai
đoạn sau, phát hiện nguyên nhân gây tăng giảm chi phí.
1.3. Tổ chức kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
1.3.1. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
 Khái niệm đối tượng kế toán chi phí sản xuất
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp là phạm vi giới hạn chi phí
sản xuất xây lắp cần được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát
chi phí và yêu cầu tính giá thành. Thực chất của việc xác định đối tượng kế
toán chi phí sản xuất là việc xác định nơi gây ra chi phí hoặc đối tượng chịu
chi phí.
 Căn cứ xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thực chất là xác
định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi phí. Đối với doanh nghiệp
xây lắp, đối tượng kế toán chi phí sản xuất là nơi phát sinh chi phí và nơi chịu

chi phí chính là công trình, hạng mục công trình. Xác định đối tượng kế toán
chi phí sản xuất là khâu đầu tiên và quan trọng trong kế toán chi phí sản xuất.
Để xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất thích hợp, nhà quản trị
phải căn cứ vào đặc điểm phát sinh chi phí, căn cứ vào cơ cấu tổ chức sản
xuất kinh doanh, các yếu tố, tính chất sản xuất như đặc điểm quy trình công
nghệ sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất, loại hình sản xuất, yêu cầu và trình
độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Như vậy đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong từng doanh nghiệp cụ
thể có thể xác định là từng sản phẩm, loại sản phẩm, chi tiết sản phẩm cùng
loại, toàn bộ quy trình công nghệ, từng giai đoạn công nghệ, từng phân xưởng
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
sản xuất, từng đội sản xuất, từng đơn đặt hàng, từng công trình, hạng mục
công trình.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ
và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi
công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình,
hoặc có thể là đơn đặt hàng, bộ phận thi công hay từng giai đoạn công việc.
Tuy nhiên trên thực tế các đơn vị xây lắp thường hạch toán chi phí theo công
trình, hạng mục công trình.
1.3.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây
lắp
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là cách thức mà kế toán sử dụng
để tập hợp, phân loại các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong một kỳ theo
các đối tượng tập hợp chi phí đã xác định.
Có hai phương pháp chủ yếu để tập hợp chi phí sản xuất cho các đối
tượng như sau :
 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp

- Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp là phương pháp tính
trực tiếp chi phí sản xuất phát sinh cho từng đối tượng chịu chi phí. Phương
pháp này đảm bảo mức độ chính xác cao, nó được áp dụng trong trường hợp
chi phí sản xuất phát sinh chỉ liên quan đến một đối tượng tập hợp chi phí.
 Phương pháp phân bổ gián tiếp
- Phương pháp phân bổ gián tiếp là phương pháp tính toán thông qua
một tiêu chuẩn phân bổ hợp lý để xác định chi phí cho từng đối tượng.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh liên
quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, không thể hạch toán ban
đầu riêng cho từng đối tượng. Muốn xác định chi phí cho từng đối tượng, phải
phân bổ theo tiêu chuẩn thích hợp. Chi phí phân bổ cho từng đối tượng theo
công thức :
Ci =
C
x t
i
T
i
Trong đó : Ci: Chi phí sản xuất phân bổ cho đối tượng thứ i.
C: Tổng chi phí sản xuất cần phân bổ
T
i
: Tổng đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ
t
i :
Đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ của đối
tượng i
1.3.3. Tổ chức chứng từ và hạch toán ban đầu

Mọi hoạt động kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp đều phải lập các chứng từ kế toán.
Chứng từ kế toán là các giấy tờ chứng minh cho các hoạt động kinh tế
sảy ra, là phương tiện thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh và
trật tự hoàn thành và là cơ sở để ghi sổ kế toán.
Chứng từ được lập phải đầy đủ kịp thời theo mẫu biểu , nội dung và
phương pháp lập được quy định trong Chế độ kế toán của Bộ Tài Chính. Việc
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
ghi nhận các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được căn cứ vào các loại
chứng từ chủ yếu sau:
- Hợp đồng giao khoán: là bản ký kết giữa người giao khoán và người
nhận khoán nhằm xác nhận về khối lượng công việc khoán hoặc nội
dung công việc khoán, thời gian làm việc, trách nhiệm, quyền lợi của
mỗi bên khi thực hiện công việc đó, đồng thời là cơ sở thanh toán chi
phí cho người nhận khoán.
- Biên bản thanh lý ( nghiệm thu) hợp đồng giao khoán: là chứng từ
nhằm xác nhận số lượng, chất lượng công việc và giá trị của hợp đồng
đã thực hiện, làm căn cứ để hai bên thanh toán và chấm dứt hợp đồng.
- Bảng chấm công: dùng để theo dõi ngày công thực tế làm việc, nghỉ
việc, nghỉ hưởng BHXH…làm căn cứ tính trả lương, bảo hiểm xã hội
trả thay lương cho từng người và quản lý lao động trong đơn vị.
- Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành: là chứng từ xác
nhận số sản phẩm hoặc công việc hoàn thành của đơn vị hoặc cá nhân
người lao động, làm cơ sở lập bảng thanh toán tiền lương, tiền công.
- Bảng thanh toán tiền lương, tiền thưởng: là chứng từ làm căn cứ để
thanh toán tiền lương, phụ cấp, các khoản thu nhập tăng thêm ngoài
lương cho người lao động, kiểm tra việc thanh toán lương cho nười lao
động làm việc trong doanh nghiệp.
- Phiếu xuất kho: là căn cứ để hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành

sản phẩm, dịch vụ và kiểm tra việc thực hiện định mức tiêu hao vật tư.
- Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ: theo dõi vật tư còn lại cuối kỳ ở đơn
vị sử dụng, làm căn cứ ghi giảm chi phí, tính giá thành và kiểm tra tình
hình thực hiện định mức tiêu hao.
- Bảng phân bổ nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ: dùng để phản
ánh tổng trị giá nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ trong tháng
theo giá thực tế và giá hạch toán; phân bổ giá trị nguyên liệu, vật liệu,
công cụ dụng cụ xuất dùng cho các đối tượng sử dụng hàng tháng.
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
- Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ: dùng để phản ánh số khấu hao
TSCĐ phải trích và phân bổ số khấu hao đó cho các đối tượng sử dụng
hàng tháng.
- Phiếu theo dõi ca máy thi công: là chứng từ xác nhận số giờ, ca xe máy
thi công đã hoạt động ở từng công trình, làm căn cứ để tính phân bổ
chi phí sử dụng máy thi công cho từng công trình, hạng mục công
trình.
Đứng trên góc độ yêu cầu quản trị, doanh nghiệp cần thiết kế thêm các
chứng từ về tiêu hao vật chất, chứng từ phân biệt định phí, biến phí để phục
vụ tốt hơn cho công tác quản trị chi phí của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, với những nghiệp vụ kinh tế, tài chính đặc thù chưa được
quy định mẫu chứng từ, doanh nghiệp có thể tự xây dựng cho phù hợp với đặc
điểm của doanh nghiệp dựa trên các văn bản hướng dẫn hoặc phải được Bộ tài
chính chấp thuận.
1.3.4. Tổ chức tài khoản kế toán
 Nguyên tắc tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản
Do những đặc thù của ngành xây dựng: sản phẩm thường mang tính
chất đơn chiếc với quy mô lớn, thời gian thi công dài, quy trình công nghệ
phức tạp, việc tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản trong kế toán chi phí và
giá thành cũng có những khác biệt. Theo quyết định 15/2006/QĐ-BTC ban

hành ngày 20/03/2006, đối với hoạt động kinh doanh xây lắp về cơ bản chỉ
hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, không áp
dụng phương pháp kiểm kê định kỳ.
Doanh nghiệp xây lắp căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán do Bộ Tài
chính ban hành hoặc được Bộ Tài chính chấp nhận áp dụng cho doanh nghiệp
để chi tiết hóa theo các cấp ( cấp 2, 3, 4 ) phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
doanh, trình độ phân cấp quản lý kinh tế - tài chính, phù hợp với kế hoạch, dự
toán đã lập và yêu cầu cung cấp thông tin của kế toán quản trị trong doanh
nghiệp.
Việc chi tiết hóa các cấp tài khoản kế toán dựa trên các yêu cầu sau :
- Xuất phát từ yêu cầu cung cấp thông tin kế toán quản trị của từng cấp
quản lý.
- Các tài khoản có mối quan hệ với nhau cần đảm bảo tính thống nhất về
ký hiệu, cấp độ.
- Việc chi tiết hóa tài khoản không được làm sai lệch nội dung, kết cấu
và phương pháp ghi chép của tài khoản.
Đối với kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp xây lắp được mở chi tiết theo từng công việc, sản phẩm, bộ phận xây
lắp, tổ đội…
Ngoài ra tùy theo yêu cầu cung cấp thông tin mà doanh nghiệp thiết kế
chi tiết hóa các tài khoản kế toán cho phù hợp.
 Tổ chức tài khoản kế toán
Để tập hợp các phí sản xuất phát sinh trong kỳ, kế toán sử dụng các tài
khoản chi phí. Các tài khoản này được phân theo các khoản mục chi phí :
- TK 621 : Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp.
Để phản ánh các chi phí nguyên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt
động xây lắp, sản xuất sản phẩm công nghiệp, thực hiện lao vụ dịch vụ của
doanh nghiệp xây lắp, kế toán sử dụng Tài khoản 621 – Chi phí nguyên liệu,

vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trình, hạng
mục công trình, từng khối lượng xây lắp, các giai đoạn đạt điểm dừng kỹ
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05
Luận văn tốt nghiệp Học viện tài chính
thuật có dự toán riêng. Đối với công trình lắp máy, các thiết bị do chủ đầu từ
bàn giao đưa vào lắp đặt không phản ánh ở tài khoản này.
- TK 622 : Chi phí nhân công trực tiếp
Đây là tài khoản dùng để phản ánh chi phí lao động trực tiếp tham gia vào
hoạt động xây lắp công trình, hạng mục công trình, thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí lao động trực tiếp bao gồm cả các khoản phải trả cho lao động trực
tiếp thuộc doanh nghiệp quản lý và lao động thuê ngoài theo từng loại công
việc.
Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân liên quan đến công trình,
hạng mục công trình nào thì phải hạch toán trực tiếp cho công trình, hạng mục
công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc về lao động tiền lương. Trong
trường hợp không tính trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình thì
kế toán phải phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng theo tiền
lương định mức hay giá công định mức.
Các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp xây lắp không hạch
toán vào tài khoản này mà được tính vào chi phí sản xuất chung của hoạt
động xây lắp.
- TK 623 : chi phí sử dụng máy thi công
Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng xe, máy thi
công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây, lắp công trình trong trường hợp
doanh nghiệp thi công theo phương pháp hỗn hợp, vừa thủ công vừa kết hợp
bằng máy. Đây là tại khoản đặc thù trong doanh nghiệp xây lắp.
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn theo
phương thức bằng máy thì không sử dung tài khoản này mà hoạch toán toàn
SV:Dương Thị Kim Loan Líp: CQ 46/21.05

×