QUY CHẾ DÂN CHỦ LÀNG XÃ , QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Đảng và chính phủ ta luôn đề cao phương châm: “Xây dựng một nước
Việt Nam công bằng, dân chủ và văn minh”. Vậy để biết được dân chủ là gì?
Và việc thực hiện quy chế dân chủ ở nước ta như thế nào? Đặc biệt là dân chủ
làng xã ,và dân chủ cơ sở .
Sau đây nhóm chúng tôi xin đi vào nghiên cứu cụ thể như sau:
1. Dân chủ là gì?
- Theo từ điển: Dân chủ là chính phủ được thành lập bởi nhân dân trong
đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi
nhân dân hoặc bởi các đạ diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự
do.
- Theo Abraham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân , do dân
và vì dân”.
Dân chủ thực tế là một tập hợp các thông lệ và các thủ tục đã được đúc
kết lại từ quá trình lâu dài, thường không bằng phẳng của lịch sử. Một cách
ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể định
rõ được các nguyên tắc cơ bản đã được thử thách qua thời gian. Đối với một
chính phủ lập hiến thì vấn đề phân quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà
bất cứ một xã hội nào được gọi là dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần
phải có.
Còn đối với nhà nước Việt Nam, dân chủ là bản chất của chế độ Nhà
nước ta. Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tạo ra sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào thành công của Cách
mạng.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực đã được ghi trong Hiến
pháp, luật và các văn bản pháp luật của Nhà nước. Ví dụ: Điều 11 trong hiến
pháp có quy định: “Công dân thực hiện quyền làm chủ cơ sở của mình bằng
1
cách tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của
công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.
Dân chủ, hiểu theo nghĩa truyền thống, là người dân làm chủ mọi quyền
lực xã hội; hay nói cách khác, dân chủ là quyền lực xã hội thuộc về nhân dân,
trước hết là nhân dân lao động.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh một thực tiễn mang tính chân lý: dân
chủ là khát vọng lớn lao, là đòi hỏi bức xúc của con người, là một nhu cầu đặc
biệt quan trọng mà con người mong muốn vươn tới; đồng thời, dân chủ cũng là
một động lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển. Sự phát triển của dân chủ
đánh dấu những nấc thang tiến bộ của xã hội loài người.
Dân chủ là bản chất của chế độ Nhà Nước ta .Đảng và Nhà nước ta luôn
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ,tạo ra sức mạnh to lớn trên
mọi lĩnh vực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người sáng lập
và lãnh đạo Đảng ta, đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ trong việc xây
dựng Nhà nước Việt Nam là:
"NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân".
(1)
Đồng thời, Người luôn đề cao vai trò quyết định của nhân dân đối với
vận mệnh của đất nước, bởi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người khẳng
định: "Cho nên việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên
dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng:
Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong".
(2)
2
Ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30 CT-TW về việc xây
dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Việc ban hành Chỉ thị quan trọng
này chính là để tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát Nhà nước, khắc
phục tình trạng quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.
Đảng và Nhà nước ta chỉ ra là: "cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng", và điều đó cũng có nghĩa: quần chúng nhân dân là lực lượng quyết
định thắng lợi của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn xác định:
việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của mình. Trong sự nghiệp đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định: việc mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực
bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Để dân chủ đi vào thực tế của đời sống xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: muốn
phát huy sức mạnh và sự sáng tạo vô địch của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải tạo ra được những thể chế, chủ
trương, chính sách thích hợp để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi quyền làm chủ của người dân được tôn trọng
và bảo đảm, sẽ tạo nên nền tảng, cơ sở vững chắc để các chủ trương, đường lối
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện có hiệu quả
trong thực tế. Muốn thực hiện được điều đó, việc dân chủ hóa mọi hoạt động
của Đảng và của cả hệ thống chính trị nhằm tập hợp được đông đảo mọi tầng
lớp nhân dân tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội, đóng góp
trí tuệ và vật chất để xây dựng, bảo vệ đất nước sẽ là một quan điểm hết sức
đúng đắn, sáng suốt. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" đã được thể hiện trong nhiều văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và
được thể chế thành pháp luật của Nhà nước.
3
NỘI DUNG CỦA QUY CHẾ DÂN CHỦ
Chương 1:Những quy định chung về quy chế dân chủ.
Chương 2:Những việc cần thông báo để nhân dân biết của cấp có thẩm
quyền ở cơ sở.Nội dung của chương trình này quy định 14 loại công việc mà
nhân dân cần được thông báo rõ khi cần thiết,có liên quan đến người dân.Và 6
điều nữa về các hình thức tiến hành thông báo đến nhân dân.
Chương 3:Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp.Trong
chương này nêu 6 khoan mà nhân dân cần được tham gia trực tiếp đóng góp ý
kiến của mình.Những phần hoạt động này liên quan đến các hoạt động sống
trực tiếp của các cộng đồng XH trong thôn,làng,ấp, bản.Nhân dân còn được bàn
những khoan họ cần đóng góp để xây dựng cho quê hương mình.Để thực hiện
được những điều đó Quy chế đã đề ra các cách thức tổ chức thực hiện để phát
huy cao nhất sự đóng góp của nhân dân,qua đó cũng thể hiện sự lãnh đạo sâu
sát của Đảng và chính quyền với hoạt động của làng xóm.
Chương 4 của Quy chế đề cập đến quy phạm thực hiện những mối liên hệ
của nhân dân đối với các cơ quan chính quyền cấp trên.Những quy định cụ thể
này quan tâm đến mọi suy nghĩ,hành động của Đảng đối với quần chúng nhân
dân.
Chương 4 đề cập đến những quy định để xây dựng các cộng đồng trong
nông thôn.Trong đó quan trọng nhất là những quy định dành cho xây dựng
hương ước ( những quy định của cộng đồng làng,thôn,ấp ,bản),xác định những
vị trí XH chủ chốt trong cơ cấu XH của xóm thôn.Những quy định này đã trở
thành định hướng quan trọng chỉ đạo việc thể chế hóa luật pháp vào cộng đồng
làng xã,khắc phục tình trạng giữa Nhà nước,XH và công dân có 1 “khoang”
ngăn cách như trong cách thức tổ chức nông thôn trong thời kì trước đổi mới.
I : QUY CHẾ DÂN CHỦ LÀNG XÃ
4
1 : KHÁI NIỆM:
A :LÀNG , XÃ
LÀNG
Làng là một từ chỉ đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng hoàn chỉnh của người
nông dân Việt.
Làng là một đơn vị của xã hội nông thôn ,nó là một sân khấu thể hiện
mức độ tự diễn ra của đời sống nông thôn và các chức năng của nó ( Tô Duy
Hợp )
Khi nói đến làng với tư cách cộng đồng xã hội, làng thường được quan
niệm như là “một đơn vị cộng cư” có một vùng đất cvhung của cư dân nông
nghiệp ( Trần Quốc Vượng )
XÃ
Xã là từ chỉ đơn vị hành chính thấp nhất ở các vùng nông thôn Việt
Xã có thể bao gồm nhiều làng hoặc cũng chỉ có duy nhất một làng
Có thể coi làng xã như một đơn vị tụ cư ,đơn vị kinh tế ,đơn vị sinh hoạt
văn hoá cộng đồng nhằm tái duy trì truyền thống công xã nông thôn ,khẳng
định bản sắc truyền thống dân tộc
Vì thế có thể hiểu dân chủ làng xã chính là quyền làm chủ của nhân dân
trong làng xã đó.
II : DÂN CHỦ LÀNG ,XÃ
LÀNG XÃ VIỆT NAM TRƯỚC – ĐƠN VỊ CAI TRỊ CƠ SỞ
Người đứng đầu là viên trưởng làng hay lý trưởng .Và chủ yếu có 2 hình
thức để chọn ra người đứng đầu làng :chỉ định và bầu cử
Nhiều học giả nhấn mạnh nhân vật xã trưởng từ khoảng thế kỉ XV do dân
hàng xã (hay một tổ chức cổ truyền đại diện cho dân hàng xã ) bầu lên .Giới
nghiên cứu gọi đó là nên “dân chủ làng mạc”
5
Tuy nhiên những nhân vật nắm quyền hành cai trị trong xã hội đều thuộc
về các tầng lớp trên .Hôi đồng làng gồm các dân làng thuộc “giai cấp thượng
lưu”
Cơ cấu chính trị ở cấp xã dưới triều Nguyễn cho tới tận buổi đầu của chế
độ thuộc địa ,gồm 3 bộ phận :dân hàng xã (nam giới 18 tuổi trở lên có trách
nhiệm đóng thuế thực hiện lao dịch và binh dịch .Dân hàng xã có quyền bầu cử
và tham gia bàn việc làng việc nước ở cấp xã .) , hội đồng kì mục (những người
có điền sản có chức vụ hay phẩm hàm ,có chức trách đè ra các chủ trương và
biện pháp cai trị ), lý dịch (là chức viên cấp xã của chính quyền ,đứng đầu là lý
trưởng .Lý dịch thực hiện những chủ trương của hội đồng kì mục và chịu trách
nhiệm về việc làng trước chính quyền Trung Ương)
Có thể thấy dân hang xã có quyền bầu cử ,hội đồng kì mục có quyề đại
diện và lý dịch có quyền “hành pháp” .Đó là nguyên tắc phân quyền nổi tiếng
làm cơ sở cho việc tổ chức Nhà nước của các nền dân chủ hiện đại.
Tuy vậy dưới con mắt của chính quyền quân chủ ,lý dịch những viên
chức của chính quyền vẫn không chiếm được vị trí cao trong hệ thống ngôi thứ
làng xã .Phần lớn lý dịch trong các làng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc
Bộ thường chỉ là trung nông lớp trên nếu không thì cũng chỉ là địa chủ nhỏ .Các
bô lão cao tuổi nhát còn được trọng vọng hơn cả lý dịch .
Vậy là đén thế kỉ XIX khi mà chế độ quân chủ Việt Nam đạt tới đỉnh cao
với triều Nguyễn ,thì Nhà nước vẫn phải tôn trọng “nền dân chủ làng mạc”
(Nguyễn Từ Chi ,1996)
Có thể nói làng Việt Nam trong xã hội truyền thống là hiện thân của tổ
chức chính trị nông thôn vị trí xã hội trong làng được sắp đặt theo chế độ tự
quản .chính vì thế có tổ chức chính trị xã hội ,đồng thời là tổ chức chính trị của
xóm làng .Do tính chất tự quản nên trong làng đôi khi có những quy định trái
ngược với pháp luật của chính quyền .Chính vì thế ngoài phép nước trong các
6
l;àng còn có lệ làng .Và mỗi làng là 1 thế giới xã hội tương đối độc lập. “Phép
vua thua lệ làng” là vậy
LÀNG XÃ VIỆT NAM HIỆN NAY VỚI QUY CHẾ DÂN CHỦ
Sau khi cách mạng thành công nông thôn Việt nam có hệ thống chính trị
mới ,các hội đồng làng và trên làng bị giải tán .Thay vào đó là tổ chức chính trị
của người dân nông thôn đó là hệ thống tổ chức của Đảng và các đoàn thể xã
hội
Từ khi có nhà nước dân chủ nhân dân (8-1945) xã luôn là cấp cuối cùng
của cơ quan quyền lực Nhà nước ,là đơn vị hành chính kiểm soát hộ khẩu và
thực thi ,chịu trách nhiệm với xã hội về mọi mặt hoạt động của đia phương
mình .Vì thế quyền lực xã hội phần nào tập trung về xã .Nhưng xã không nắm
trực tiếp dân mà phải nắm qua hệ thống cảu các ban xóm làng .Đây là biểu hiện
của sự tập trung dân chủ thong qua đại diện của xóm làng .Trong làng ,khi có
công việc cần làm ,dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng ,các ban chức năng được
lập ra để theo dõi và chịu trách nhiệm với làng .Ban quản lý làng chịu trách
nhiệm điều hành các thành viên trong làng thực thi những nghĩa vụ cảu các
thành viên trong cộng đồng lanbgf xóm .Họ thực thi theo các quy định của làng
(hương ước mới) .
Trong các cộng đồng làng xã có các tổ chức đoàn thể như:Đoàn Thanh
Niên,Hội bảo thọ,Hội cựu chiến binh,Hội người cao tuổi,Hội nông dân,Hội phụ
nữ,các phường hội khác nhau mang màu sắc truyền thống…Trong thời kì đổi
mới,các hội,đoàn có vai trò XH nhất định trong hệ thống các tổ chức XH ở
nông thôn.
Hoạt động của các tổ chức chính trị ở nông thôn còn chịu sự ảnh hưởng
và chi phối của truyền thống,đặc biệt là truyền thống của thiết chế làng xã.Để
tăng cường dân chủ trong nông thôn,Đảng và Chính phủ đã triển khai Quy chế
dân chủ ở xã theo Nghị định số 29/1998 ngày 11/5/1998.Nhờ vào quy chế này
quyền làm chủ,sức sáng tạo của nhân dân ở xã được phát huy.Quy chế này động
7
viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân để phát triển kinh tế,ổn
định chính trị ,XH,tăng cường đoàn kết nông thôn,cải thiện dân sinh,nâng cao
dân trí,xây dựng Đảng bộ,chính quyền và các đoàn thể trong sạch,vững
mạnh;ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái,quan liêu,tham nhũng,góp
phần vào sự nghiệp dân giàu,nước mạnh,XH công bằng,văn minh,theo định
hướng XHCN.
Quy chế dân chủ đã tạo ra trong nông thôn Việt Nam một thiết chế chính
trị mới-một thiết chế dân chủ thực sự.Mọi tổ chức XH,các đoàn thể đều chuyển
đổi hoạt động của mình sao cho phù hợp với việc coi trọng ý kiến của dân.Một
lần nữa Quy chế dân chủ ở xã đã đặt người dân nông thôn vào trung tâm của
đối tượng tác động của thiết chế chính trị dân chủ dưới sự lãnh đạo trực tiếp và
toàn diện của ĐCS VN
Hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đối với phường
và Thị trấn
Điều 2 Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định: "Ban Tổ chức - Cán
bộ Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Quy chế này đối với phường và thị
trấn".
Xã, phường, thị trấn là đơn vị Hành chính cơ sở cùng cấp, có cùng chức
năng, nhiệm vụ, Quyền hạn. Tuy nhiên, phường và thị trấn là loại hình đơn vị
hành chính đô thị, có những đặc thù khác với xã, nên ngoài những quy định
trong "Quy chế thực hiện dân chủ ở xã", Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ
hướng dẫn áp dụng một số điểm sau đây:
I. QUY ĐỊNH CHI TIẾT ĐIỀU 4:
8
Chính quyền địa phương có trách nhiệm thông tin kịp thời và công khai
để nhân dân biết những công việc chính sau:
1. Chính sách, Pháp luật của Nhà nước.
2. Các quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương về Thủ tục hành
chính giải quyết các công việc liên quan đến dân.
3. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và hàng năm của phường, thị
trấn.
4. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của phường, thị trấn.
5. Các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các quyết định của Uỷ ban nhân dân
phường, thị trấn và của cấp trên liên quan đến phường, thị trấn.
6. Dự toán và quyết toán ngân sách hàng năm của phường, thị trấn.
7. Dự toán và quyết toán, thu, chi các quỹ, dự án, các khoản huy động đóng góp
Xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng của phường, thị
trấn.
8. Các công trình, dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ
trực tiếp cho phường, thị trấn.
9. Chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển Sản xuất, xoá đói giảm nghèo.
10. Điều chỉnh địa giới hành chính phường, thị trấn và các đơn vị hành chính
liên quan.
11. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của
cán bộ phường, thị trấn.
12. Công tác văn hoá, xã hội, phòng chống tệ nạn, giữ gìn an ninh, trật tự an
toàn xã hội.
13. Sơ kết, tổng kết của Hội đồng, Uỷ ban nhân dân phường, thị trấn.
14. Các quy định về quản lý đô thị; mức thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ.
9
15. Quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị liên quan đến phường, thị trấn.
16. Những công việc triển khai trên địa bàn phường, thị trấn: làm mới, Sửa
chữa điện, đường, cấp - thoát nước, điện thoại, chặt tỉa cây xanh.
17. Những việc khác mà chính quyền thấy cần thiết và nhân dân yêu cầu được
thông báo.
II. QUY ĐỊNH CHI TIẾT ĐIỀU 6:
Nhân dân ở phường, thị trấn, cụm dân cư, tổ dân phố bàn và quyết định trực
tiếp các công việc chủ yếu sau:
1. Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc
lợi công cộng (đường, ngõ, hẻm; các điểm vui chơi, giải trí và sinh hoạt văn
hoá).
2. Lập, thu, chi các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật.
3. Xây dựng quy ước cụm dân cư, tổ dân phố về nếp sống văn minh, giữ gìn an
ninh, trật tự, vệ sinh đường phố, bài trừ mê tín, dị đoan và các tệ nạn xã hội.
4. Các công việc trong nội bộ cụm dân cư, tổ dân phố phù hợp với pháp luật của
Nhà nước.
5. Biện pháp thực hiện những quy định của chính quyền các cấp về quản lý đô
thị.
6. Thành lập Ban giám sát Công trình xây dựng do dân đóng góp.
7. Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh.
III. QUY ĐỊNH CHI TIẾT ĐIỀU 9:
Những việc chủ yếu đưa ra nhân dân bàn hoặc tham gia ý kiến trước khi Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phường, thị trấn quyết định (hoặc trình cấp có
Thẩm quyền quyết định) gồm có:
10
1. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, hàng năm
của phường, thị trấn; phương án phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm cho
Người lao động.
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của phường, thị trấn.
3. Dự thảo quy hoạch khu dân cư; kế hoạch và dự án huy động các khoản đóng
góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng do phường, thị trấn quản lý.
4. Dự thảo đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính phường, thị trấn.
5. Dự thảo kế hoạch triển khai các Chương trình quốc gia về y tế, Nước sạch,
vệ sinh Môi trường.
6. Chủ trương, phương án đền bù giải phóng mặt bằng.
7. Giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phường, thị trấn.
8. Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quy định của Uỷ ban nhân
dân phường, thị trấn về quản lý đô thị.
9. Những việc khác Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thấy cần thiết.
IV. QUY ĐỊNH CHI TIẾT ĐIỀU 11:
Những việc nhân dân ở phường, thị trấn giám sát, kiểm tra gồm có:
1. Hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân phường, thị trấn.
2. Kết quả thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định của Uỷ
ban nhân dân phường, thị trấn.
3. Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân phường, thị trấn, của cán bộ Uỷ
ban nhân dân và cán bộ, Công chức Nhà nước hoạt động tại địa phương.
4. Giải quyết các Khiếu nại, tố cáo của công dân.
5. Dự toán và quyết toán ngân sách phường, thị trấn.
11
6. Kết quả nghiệm thu và quyết toán công trình do nhân dân đóng góp xây dựng
và các chương trình, dự án do Nhà nước, các tổ chức và cá nhân đầu tư, tài trợ
trực tiếp cho phường, thị trấn.
7. Quản lý và sử dụng đất đai.
8. Thu, chi các loại quỹ và lệ phí theo quy định của Nhà nước, các khoản đóng
góp của nhân dân.
9. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng liên
quan đến cán bộ phường, thị trấn.
10. Việc thực hiện chế độ chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với nước, chính sách Bảo hiểm
xã hội, cứu tế xã hội.
11. Tham gia giám sát quá trình triển khai các công trình do Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân đầu tư, tài trợ trực tiếp cho phường, thị trấn.
12. Giám sát hoạt động của các cơ quan đóng trên địa bàn trong việc chấp hành
luật pháp và các quy định về trật tự an toàn xã hội, và vệ sinh môi trường.
V. CHƯƠNG VI:
Xây dựng Cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản:
1. Chương này áp dụng cho tổ dân phố của phường và thị trấn.
2. Tổ trưởng dân phố là đại diện cho nhân dân của tổ dân phố, chịu sự quản lý
và chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân phường, thị trấn, do nhân dân trong tổ bầu trực
tiếp, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường, thị trấn Công nhận.
Do mức độ đô thị hoá khác nhau, do điều kiện thực tế của từng vùng khác nhau,
dựa vào "Quy chế thực hiện dân chủ ở xã" và Thông tư hướng dẫn của Ban Tổ
chức - Cán bộ Chính phủ, Hội đồng nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc
12
Trung ương có những quy định chi tiết, cụ thể, vận dụng sát hợp với đặc điểm
của phường và thị trấn ở địa phương./.
Quy chế này quy định cụ thể những việc hội đồng nhân dân và uỷ ban
nhân dân xã (sau đây gọi là chính quyền xã) phải thông tin kịp thời và công
khai để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám
sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ ở xã. Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở
xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát
triển kinh tế-xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng
cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong
sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham
nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị định cũng quy định cụ thể về: Những việc cần thông báo để nhân dân biết;
những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc nhân dân bàn,
tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định; những việc nhân dân giám sát,
kiểm tra; xây dựng cộng đồng dân cư thôn
III : KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ LÀNG XÃ
Mười năm qua, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã
đạt được những kết quả rất tích cực, góp phần tạo động lực thúc đẩy và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước, khắc phục một phần tệ
nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một
13
bộ phận cán bộ, công chức nhà nước; đóng góp tích cực vào việc cải cách hành
chính; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đóng góp tích
cực vào thành tựu chung của cả nước Có thể đánh giá khái quát những kết quả
đã đạt được qua 10 năm thực hiện Quy chế Dân chủ ở xã, phường, thị trấn như
sau:
1 - Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và toàn xã
hội về dân chủ và dân chủ trực tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến
tích cực. Thực tiễn cho thấy, thực hiện Quy chế Dân chủ ở xã, phường, thị trấn
là một chủ trương đúng đắn, hợp "ý Đảng, lòng dân", nên được nhân dân đồng
tình, ủng hộ và hưởng ứng. Chính quá trình thực hiện Quy chế Dân chủ đã giúp
cho cán bộ, đảng viên, công chức trong toàn bộ hệ thống chính trị ở cơ sở nhận
thức sâu sắc hơn về quyền làm chủ và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp đổi
mới. ở nhiều địa phương, trong hoạt động, chính quyền cơ sở đã chủ động, tích
cực hơn trong việc đối thoại và lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân.
2 - Góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Việc thực hiện Quy chế Dân
chủ đã thực sự trở thành động lực cho quá trình phát triển tất cả các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội của cơ sở. Với trí tuệ, kinh nghiệm, nhân lực và vật lực, nhiều
địa phương đã tổ chức cho nhân dân bàn bạc để tháo gỡ mọi khó khăn, vướng
mắc, tập trung chuyển đổi ngành nghề, áp dụng khoa học - kỹ thuật nhằm giải
quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân. Kết quả là, tại nhiều địa
phương, trong những năm qua, số hộ giàu ngày càng tăng, số hộ nghèo ngày
càng giảm; nhân dân đã tự giác đóng góp hàng nghìn tỉ đồng, hàng triệu ngày
công lao động để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đô thị, tạo nên diện mạo
mới cho nhiều địa phương.
3 - Tác động tích cực trong việc xây dựng đời sống văn hóa - xã hội ở cơ sở.
Chẳng hạn, việc xây dựng các hương ước, quy ước với những nội dung mới
theo hướng văn minh, tiến bộ đã có tác động rất hiệu quả tới việc gìn giữ và
phát triển các truyền thống, phong tục, tập quán, lễ hội tốt đẹp tại cộng đồng
14
dân cư; xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, góp phần xây dựng nền văn
hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4 - Góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Nét nổi bật qua 10 năm thực
hiện Quy chế Dân chủ là đã tạo nên một không khí mới đối với toàn bộ hệ
thống chính trị ở cơ sở theo hướng dân chủ, tích cực và hiệu quả hơn. Các cấp
ủy đã đổi mới phương thức hoạt động theo hướng dân chủ, dựa vào dân, chịu sự
giám sát để xây dựng Đảng; không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của tổ chức đảng. Chính quyền địa phương ở cơ sở đã làm việc theo hướng
ngày càng khoa học và hiệu quả hơn. Phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ
cán bộ, công chức từng bước được chuyên nghiệp và có chuyển biến rõ về thái
độ, ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân; năng lực và trình độ ngày càng được
nâng cao. Việc thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước đã được
thực hiện, bước đầu có hiệu quả, thành nền nếp, tạo một sự chuyển biến rất rõ
nét trong việc phục vụ nhân dân của các cơ quan nhà nước ở địa phương. Hệ
thống các cơ quan Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng ngày càng
được đổi mới về tổ chức và hoạt động, theo hướng thiết thực, hiệu quả, có trách
nhiệm với dân; hạn chế một bước tình trạng hoạt động phô trương và hình thức.
Về phía người dân, trong quá trình thực hiện Quy chế Dân chủ, do được
cung cấp thông tin đầy đủ hơn, kịp thời hơn nên họ đã nhận thức đầy đủ và sâu
sắc hơn quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật. Qua đó,
góp phần quan trọng vào việc xây dựng Đảng, bộ máy chính quyền và Mặt trận
Tổ quốc ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả; làm giảm bớt tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, nâng cao ý thức phục vụ
nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và ở xã, phường, thị trấn nói
riêng. Đây là nhân tố quan trọng để bảo đảm cho tình hình an ninh, trật tự, an
toàn xã hội được ổn định tại nhiều nơi, nhiều vùng, địa phương trong cả nước.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc các cấp
đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các tổ chức thành viên để tuyên
15
truyền, phổ biến rộng rãi trong đoàn viên, hội viên và nhân dân những chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng
và thực hiện Quy chế Dân chủ, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù
hợp với từng đối tượng. Quan tâm phát huy vai trò người cao tuổi, chức sắc tôn
giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư, nhằm thông
qua các vị này, tuyên truyền, phổ biến việc thực hiện Quy chế Dân chủ trong
các tầng lớp nhân dân; đồng thời, để họ thực sự là những người gương mẫu
trong thực hiện Quy chế Dân chủ. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã tích cực, chủ
động phối hợp với các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức thành viên để thực
hiện các nội dung của Quy chế Dân chủ, trong đó chú trọng tới việc lồng ghép
nội dung các phong trào, các cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc vào các nội
dung thực hiện Quy chế Dân chủ; tích cực tham gia vào việc bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bầu trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố;
vận động nhân dân tham gia xây dựng hương ước, quy ước ở khu dân cư, v.v
Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc các cấp cũng đẩy mạnh các hoạt động giám sát
và vận động nhân dân giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ, thông qua các
hình thức như: củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân
dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; tham gia công tác tiếp dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia các kỳ họp của Hội đồng nhân
dân cấp xã, các buổi tiếp xúc cử tri để giám sát hoạt động của chính quyền, đại
biểu Hội đồng nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức xã.
Quá trình tổ chức thực hiện tốt 6 nội dung của cuộc vận động "Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", với mục tiêu chủ yếu là
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí và phát huy dân chủ ở cộng đồng dân cư, đã
thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Thực tiễn cho thấy,
nơi nào cấp ủy, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ
với Mặt trận Tổ quốc, tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" thì nơi đó, Quy chế Dân chủ
16
được thực hiện có hiệu quả thiết thực; bộ máy chính quyền và đội ngũ cán bộ ở
cơ sở được kiện toàn, củng cố.
Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, Mặt trận Tổ quốc đã tiến hành lấy
phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã bầu và
trưởng thôn. Qua thời gian thực hiện, chủ trương này đã được các cấp ủy, chính
quyền và đông đảo nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ và đã thu được
nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Trong 2 năm (năm 2005 và năm 2006) tiến
hành việc lấy phiếu tín nhiệm, có 165 chức danh là Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã (chiếm tỷ lệ khoảng 0,6% trong tổng số
những người được lấy phiếu tín nhiệm) và 2.304 trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân
phố (chiếm tỷ lệ khoảng 2,7% trong tổng số những người được lấy phiếu tín
nhiệm) đã bị xem xét miễn nhiệm do không nhận được sự tín nhiệm cao của
nhân dân và Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở. Qua đó, góp phần tích cực trong việc
xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền ở cơ sở ngày càng trong sạch, có đủ
phẩm chất đạo đức và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, cùng với những thành tích bước đầu đã đạt được, quá trình
thực hiện Quy chế Dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng bộc lộ những hạn chế,
yếu kém. Đó là, do nhận thức về dân chủ còn hạn chế, chưa thấy hết được tầm
quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, tính cấp bách và lâu dài của vấn đề dân chủ cũng
như của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung và thực hiện Quy
chế Dân chủ nói riêng nên không ít cán bộ, đảng viên còn có biểu hiện thiếu
trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu gương mẫu trong việc thực
hiện Quy chế Dân chủ. Đồng thời, do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng
của cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư" nên chưa cụ thể hóa việc thực hiện Quy chế Dân chủ vào nội dung
cuộc vận động. ở nhiều nơi, chỉ tập trung thực hiện Quy chế Dân chủ trong thời
gian đầu, khi mới triển khai, chưa có được sự duy trì, kiểm tra, giám sát, đôn
dốc thường xuyên. Một số nơi, triển khai thực hiện Quy chế Dân chủ nhưng
chưa gắn kết một cách chặt chẽ, khoa học với việc thực hiện các nhiệm vụ phát
17
triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, cải cách hành chính, xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sở, v.v Bên cạnh đó, trình độ dân trí của một bộ phận nhân
dân còn hạn chế, ý thức làm chủ chưa được nâng cao, sự hiểu biết về dân chủ
và pháp luật còn chưa đầy đủ; tư tưởng tự do, vô tổ chức, bè cánh, dòng họ còn
khá nặng nề; năng lực giám sát của nhân dân còn hạn chế nên nhiều người dân
còn thờ ơ với việc thực hiện Quy chế Dân chủ, hoặc chỉ quan tâm tới quyền lợi
mà xem nhẹ trách nhiệm, nghĩa vụ; thậm chí, tại nhiều địa phương còn để xảy
ra tình trạng một số phần tử xấu đã lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật, làm
mất trật tự xã hội.
IV NHỮNG NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết, chúng ta cần tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nâng
lên một tầm cao mới. Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng tại Đại hội X:
"Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân.
Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ
chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân"
(3)
.
Tại Đại hội X, Đảng ta còn chỉ ra rằng, phát huy dân chủ là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của nước ta.
Trong bối cảnh mới, vấn đề nâng cao hiệu quả của việc thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn cần được cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các
cấp quan tâm, chú trọng và đẩy mạnh; coi đây là khâu then chốt trong quá trình
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Trong thời gian tới, cần
thực hiện tốt những nhiệm vụ và giải pháp sau đây:
18
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt
sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương chỉ đạo của Đảng
và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn như: Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Chỉ thị số 10 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khóa IX), Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực thực hiện dân chủ cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân; coi đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên
của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
Để công tác tuyên truyền, giáo dục đạt hiệu quả cao, cần phải đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục và thường xuyên đổi mới; chú trọng
đến trình độ, phong tục, tập quán của từng đối tượng để lựa chọn những hình
thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp. Trong điều kiện cho phép, các ngành, các
cấp cần tổ chức biên soạn, in ấn các tài liệu cần thiết về thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn để trang bị đầy đủ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên
quyết khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm được đầy đủ
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn do không được cung cấp thông tin, tài liệu.
Hai là, nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là những kiến thức
về pháp luật, để nhân dân có thể hiểu, biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý
thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; từ đó có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực để tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp
bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài, nhưng đòi hỏi chúng ta phải có nhiều
giải pháp để nỗ lực thực hiện. Nếu trình độ dân trí không cao, ý thức chấp hành
pháp luật của nhân dân còn yếu thì chúng ta rất khó xây dựng được một nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại và nhân văn; việc thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn cũng vì thế mà sẽ mất đi ý nghĩa và hiệu quả không cao.
Ba là, các cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc cần phối hợp chặt
chẽ, thường xuyên, có nền nếp trong việc tổ chức thực hiện tốt Quy chế Dân
19
chủ; coi đây là tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở, phải thể
hiện không khí dân chủ; đồng thời, tích cực vận động và tạo điều kiện tối đa để
nhân dân có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động của mình. Cán bộ, đảng viên
phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn để hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phải là những tấm gương về thực hiện dân
chủ. Cần coi việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một
tiêu chuẩn quan trọng để xem xét chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh; đảng
viên, cán bộ có đủ tư cách hay hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; các cơ quan
trong bộ máy chính quyền có đủ tín nhiệm đối với Đảng và nhân dân.
Công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
của các cấp phải được duy trì thường xuyên và nghiêm túc. Ban chỉ đạo thực
hiện Quy chế Dân chủ các cấp cần được củng cố, kiện toàn và bổ sung để hoạt
động ngày càng thiết thực và hiệu quả hơn; xứng đáng là nơi tham mưu đắc lực
nhất cho Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Định
kỳ, có sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm, nhằm thực hiện có hiệu quả hơn chủ
trương thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Bốn là, gắn việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Cần có chính sách động viên, khen thưởng kịp
thời những địa phương, cá nhân làm tốt; đồng thời, xử lý nghiêm minh đối với
những trường hợp mất dân chủ hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối, vi phạm pháp
luật, gây bức xúc trong xã hội và nhân dân.
Năm là, để hoàn thành tốt các nhiệm vụ tham gia thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục tổ chức quán triệt sâu
rộng các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước và các hướng dẫn của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về
xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, nhất là nội dung Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản hướng dẫn thực
20
hiện Pháp lệnh của các cơ quan trung ương cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ
quốc các cấp, đặc biệt là ở cấp xã và Ban Công tác Mặt trận Tổ quốc ở khu dân
cư (thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố ). Tham gia thực hiện tốt 6 nội dung cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư".
Đặc biệt, cần chuẩn bị và tổ chức tốt Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
cấp, nhất là cấp cơ sở, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam lần thứ VII theo tinh thần Chỉ thị số 18, ngày 22-11-2007 của Ban Bí thư.
Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, nhằm nâng
cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc; về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
nhất là trong giai đoạn hiện nay. Thông qua Đại hội để củng cố, kiện toàn tổ
chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp, nhất là ở
cơ sở, Ban Công tác Mặt trận Tổ quốc ở khu dân cư. Trên cơ sở đó, sẽ có tác
dụng tích cực đối với việc thực hiện dân chủ ở xã, phường.
Trong thời gian tới, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ là Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã được thực hiện theo tinh thần của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn. Do đó, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tổ chức quán triệt, tập
huấn cho đội ngũ cán bộ Mặt trận những quy định mới trong Pháp lệnh; Nghị
quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN, ngày 17-4-2008, của
Chính phủ và Uy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn thi
hành một số điều của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các
văn bản khác của trung ương hướng dẫn về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các
chức danh là Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp xã.
Mặt trận Tổ quốc các địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với
Thường trực Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện tốt Quy
chế phối hợp giữa hai bên; bổ sung hoặc ban hành mới những văn bản hướng
dẫn, chỉ đạo triển khai nhằm hoàn thiện các văn bản để thực hiện việc lấy phiếu
21
tín nhiệm theo tinh thần của Pháp lệnh, phù hợp với tình hình của địa phương,
nhất là các văn bản hướng dẫn về hình thức bản kiểm điểm của những chức
danh được lấy phiếu tín nhiệm; văn bản hướng dẫn kinh phí cho việc triển khai,
thực hiện,v.v
Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động giám sát
và vận động nhân dân giám sát việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
tập trung củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Thanh
tra nhân dân xã, phường, thị trấn và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; coi
đây là nhân tố cơ bản quyết định tới hiệu quả của công tác Mặt trận Tổ quốc
trong việc tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã được thực tiễn
khẳng định là một chủ trương đúng đắn, tác động tích cực tới nhiều mặt của đời
sống xã hội, nhất là đã trực tiếp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
và củng cố chính quyền ở cơ sở, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để việc xây dựng và
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ngày càng có hiệu quả, mang tính bền
vững và lâu dài, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp
ủy, sự thực thi nghiêm túc, sáng tạo, có trách nhiệm của chính quyền và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân.
Trong quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, chúng ta
phải kết hợp thực hiện nhiều nhiệm vụ và giải pháp một cách đồng bộ, nhịp
nhàng và linh hoạt; không được áp dụng một cách cứng nhắc, máy móc và phải
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, cơ sở. Có như vậy, việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn mới thực sự trở thành động lực, phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy mọi phong trào thi đua
yêu nước trong các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng vào việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.
22
V:HẠN CHẾ CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
LÀNG XÃ
Tình trạng dân chủ còn chưa đến nơi đến chốn, tập trung lỏng lẻo. Biểu
hiện:
Chúng ta chưa làm được nhiều việc. Không phổ biến thong tin cho dân
biết và không chịu lắng nghe dân .Bản than lãnh đạo lại áp đặt chủ quan của
mình không đi sát thực tế không phù hợp nguyện vọng của nhân dân và việc
này do sự áp đặt bằng ý chí của người cầm quyền .Hậu quả là dù chủ trương đó
đúng nhưng người dân cũng không chấp nhận .Mà dân đã không chấp nhận thì
dẫn đén việc người dân không tin ,sẽ không phát huy dân chủ .
Có tình trạng thực hiện quy chế dân chủ nửa vời ,cá biệt có những nơi
việc thực hiện dân chủ mang tính hình thức .Đơn cử như việc anh không thông
tin những điều mà người dân cần mà chỉ thong tin những điều người dân không
cần .Điều này sẽ dẫn đén việc khi làm một việc gì đó ảnh hưởng đến quyền lợi
cục bộ ,của một bộ phận người dân ,người dân sẽ không ủng hộ anh ,thậm chí
còn phản đối .Nguy hiểm hơn ,rất dễ bị một số kẻ xấu lợi dụng … Nếu lãnh đạo
mất dân chủ thì không chỉ mất dân chủ mà còn mất kỉ cương phép nước…
Muốn thực hiện quy chế dan chủ tốt ,dân chủ muốn thành công hay
không thì còn tuỳ thuộc vào người lãnh đạo .
Người lãnh đạo phải họp dân ,phải đẻ cho người dân thông tin cho mình
bằng nhiều hình thức ….
Người lãnh đạo phải minh bạch rõ rang công khai mọi việc .Mọi vấn
đề ,quyết sách từ lớn đến nhỏ phải được bàn trước ,thông báo trước cho mọi
người biết để tránh chuyện này chuyện khác
Người dân phải nâng cao ý thức dân chủ ,đòi hỏi phải biết thong tin đó
được tham gia ý kiến đó và ý kiến của họ phải được lắng nghe .Khi ý thức được
nâng cao ,tính dân chủ sẽ phát huy
23
Để thực hiện tốt dân chủ tại làng xã phải có:
Cơ chế để phát huy dân chủ một cách rõ ràng .Cơ chế này phải tạo điều
kiện cho người dân biết thong tin
Khi có thong tin rồi thì người dân phải được bàn .Có thể là ý kiến đồng
thuận hay không ddongpf thuận và dân có quyền phát biểu chính kiến của mình
nhưng phải rất có tổ chức và người lãnh đạo phải chú ý lắng nghe
Khi lắng nghe rồi thì người lãnh đạo phải biết chọn lọc ,tiếp thu .Những
điều dân nói đugns phải được một cách nghiêm túc ,có vấn đè phải nghiên cứu
và có thời gian trả lời cho dân .Vấn đè người dân chưa rõ phải được giải thích
một cách chặt chẽ …
Tóm lại để thực hiện tốt quy chế dân chủ làng xã thì nhận thức của cả cán
bộ lẫn người dân phải tốt
Dân chủ là điều sống còn và là quy luật rất khách quan của mọi chế độ
nhất là chế đọ XHCN
II : DÂN CHỦ CƠ SỞ
I : KHÁI NIỆM
Dân chủ cơ sở là gì?
Dân chủ cơ sở thực chất là vấn đề: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
mà Bác Hồ đã chỉ rõ. Quy chế định rõ những điều gì dân được biết, những điều
gì dân được bàn, bàn xong ai là người quyết định Quy chế dân chủ cơ sở nhằm
đảm bảo cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình, trực tiếp ở cơ sở nơi
mình cư trú và cơ quan đơn vị công tác.
Khái niệm quy chế dân chủ cơ sở: Quy chế dân chủ cơ sở nhằm đảm bảo cho
người dân thực hiện quyền làm chủ của mình trực tiếp ở cơ sở nơi cư trú và cơ
quan, đơn vị công tác.
Thực hiện quy chế dân chủ dân chủ ở cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là động lực to lớn, có ý nghĩa và tầm quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh
24
tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng tại địa phương. Vì vậy, Đảng bộ, chính
quyền, mặt trận tổ quốc, các cơ quan ban ngành đoàn thể, các đơn vị trực tiếp
triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở ở các laoij hình cơ sở. Hội nghị
lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 8) đã thông qua Nghị quyết về
“phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nươc
CHXHCNVN trong sạch, vững mạnh”. Và nghị quyết về “chiến lược cán bộ
thời kì đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước” với chỉ thị: “Về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”:
- Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân là mục tiêu, đồng thời là động lực đảm bảo cho thắng lợi của
Cách Mạng, của công cuộc đổi mới.
- Việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở cần quán triệt những quan điểm
chỉ đạo sau:
+ Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế
của hệ thống chính trị: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân
làm chủ”
+ Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và
hiệu lực của Quốc Hội, Chính Phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ớ các cấp
cơ sở để nhân dân bàn bạc và trực tiếp quyết định.
+ Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu
quả.
+ Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với
hiến pháp và pháp luật. Chống quan liêu, đồn thời tránh tình trạng vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.
+ Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác
cải cách hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách thủ tực hành
chính không phù hợp.
II : NỘI DUNG QUY CHẾ DÂN CHỦ CẦN LÀM RỎ NHỮNG VẤN ĐỀ
25