BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
THÂN THỊ HẰNG
TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN LẠNG GIANG TỈNH BẮC GIANG
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.62.01.15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TUẤN SƠN
HÀ NỘI, NĂM 2015
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã
được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn
gốc.
Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn
Thân Thị Hằng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện nghiên cứu đề tài làm luận văn
tốt nghiệp cao học, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám đốc Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, Bộ môn Kế hoạch và Đầu tư đã truyền đạt cho tôi những kiến thức cơ bản
và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn sâu sắc Thầy hướng dẫn - PGS.TS. Nguyễn Tuấn
Sơn - Trưởng bộ môn Kế hoạch và Đầu tư về sự hướng dẫn nhiệt tình và những ý
kiến đóng góp quý báu để luận văn được hoàn thành tốt hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện Lạng Giang,
các xã Tân Thịnh, Quang Thịnh và Tân Hưng và người dân đã tạo điều kiện
thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, đồng nghiệp nơi cơ
quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do khác nhau, luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự thông cảm và
đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn học viên.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Thân Thị Hằng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
ii
Lời cảm ởn
iii
Mục lục iv
Danh mục viết tắt vii
Danh mục bảng viii
PHẦN I MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1 Mục tiêu chung 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu 4
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 4
1.4 Câu hỏi nghiên cứu 4
PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĂNG CƯỜNG THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG XẤY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI 5
2.1 Cơ sở lý luận về Dân chủ 5
2.1.1 Một số khái niệm chung 5
2.1.2 Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 17
2.2 Cơ sở thực tiễn về thực hiện QCDC trong xây dựng NTM 22
2.2.1 Sự cần thiết của việc ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn 22
2.2.2 Những nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở 24
2.2.3 Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực
hiện QCDC cơ sở 29
2.3 Kinh nghiệm thực hiện dân chủ cơ sở 35
2.3.1 Kinh nghiệm của một số tỉnh 35
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v
2.3.2 Kinh nghiệm của một số huyện trên địa bàn tỉnh 40
PHẦN III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
3.1 Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội huyện Lạng Giang 43
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 43
3.1.2 Tình hình kinh tế, xã hội 46
3.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở 52
3.2 Phương pháp nghiên cứu 53
3.2.1 Phương pháp chọn điểm và chọn mẫu nghiên cứu 53
3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 54
3.2.3 Phương pháp nhập và xử lý số liệu 54
3.2.4 Phương pháp phân tích số liệu 55
3.2.5 Hệ thống các chỉ tiêu phân tích 55
PHẦN IV KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 57
4.1 Thực trạng triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong xây
dựng NTM ở huyện Lạng Giang 57
4.2 Kết quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở
huyện Lạng Giang 62
4.2.1 Kết quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở
huyện Lạng Giang 62
4.2.2 Kết quả thực hiện những việc nhân dân giám sát 72
4.2.3 Tác động của việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với nhiệm vụ
xây dựng NTM trên các lĩnh vực 73
4.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang 77
4.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trong xây
dựng NTM ở huyện Lạng Giang 79
4.3.1 Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục 79
4.3.2 Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức
đoàn thể 84
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
4.3.3 Nâng cao nhận thức của người dân về thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở trong xây dựng NTM 85
4.3.4 Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức. 86
PHẦN V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 88
5.1 Kết luận 88
5.2 Kiến nghị 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BHYT Bảo hiểm y tế
BQL Ban quản lý
CC
Cơ c
ấu
CCVC Công chức viên chức
CNH-HĐH Công nghiệp hóa hiện đại hóa
GPMB Giải phóng mặt bằng
GTSX
Giá tr
ị sản xuất
GTNT Giao thông nông thôn
HC Hành chính
HĐND Hội đồng nhân dân
MTQG
M
ục ti
êu qu
ốc gia
MTTQ Mặt trận tổ quốc
NN Nông nghiệp
NS Ngân sách
NTM
Nông thôn m
ới
QCDC Quy chế dân chủ
SL Số lượng
THCS Trung học cơ sở
THPT
Trung h
ọc phổ thông
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii
DANH MỤC BẢNG
Số bảng Tên bảng Trang
3.1 Thống kê diện tích đất đai của huyện Lạng Giang năm 2014 46
3.2 Kết quả sản xuất và cơ cấu kinh tế của huyện qua 3 năm (2012-
2014) 49
3.3 Tình hình dân số và lao động của huyện qua 3 năm 2012- 2014 50
4.1 Ý kiến đánh giá của người dân về kết quả thực hiện thông báo công
khai dân chủ 65
4.2 Ý kiến đánh giá của người dân về thực hiện quy định những việc
nhân dân được bàn tham gia ý kiến 67
4.3 Tổng hợp nguồn vốn đầu tư cho xây dựng NTM trên địa bàn huyện
từ 2011-2014 69
4.4 Tổng hợp vận động nhân dân hiến đất xây dựng NTM trên địa bàn
huyện từ 2011-2014 69
4.5 Kết quả xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Giang năm 2014 71
4.6 Ý kiến đánh giá của người dân về kết quả thực hiện những việc
nhân dân giám sát 74
4.7 So sánh kết quả thực hiện QCDC trong xây dựng NTM 76
4.8 Ý kiến đánh giá của cán bộ, công chức huyện Lạng Giang công tác
tuyên truyền, phổ biến QCDC trong xây dựng NTM 80
4.9 Ý kiến đánh giá của cán bộ, công chức huyện Lạng Giang công tác
tuyên truyền, phổ biến QCDC trong xây dựng NTM 82
4.10 Ý kiến đánh giá của cán bộ, công chức huyện Lạng Giang về hoạt
động của các Ban chỉ đạo trong thực hiện QCDCn 82
4.11 Ý kiến đánh giá của cán bộ, công chức huyện Lạng Giang về hoạt
động của các tổ chức đoàn thể thực hiện QCDC trong xây dựng
NTM 83
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc
ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời,
đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội
dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là
động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân
lao động tự quản lý nhà nước của mình” (Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn Quốc
lần thứ VI, 1986).
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh:
Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước nhằm thu hút công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang và đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, sử dụng trên thực tế quyền lực
của người làm chủ. Khi thực sự thu hút được sự tham gia của nhân dân vào quản
lý nhà nước, sức mạnh của Nhà nước sẽ nhân lên gấp nhiều lần (Văn kiện Đại
hội Đại biểu Toàn Quốc lần thứ VIII, 2006).
Theo phương hướng ấy, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) nhấn mạnh:
“Điều quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở
rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết
thực, đúng hướng và có hiệu quả” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, 1997). Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
Chỉ thị đã nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm
chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng, của công cuộc đổi mới”. Trong chỉ thị này, Đảng ta đã xác định:
“Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cơ sở” và yêu cầu: Nhà nước cần ban hành ngay quy chế dân chủ ở cơ sở có
tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực
hiện (Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, 1998).
Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/2/1998
của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở đã xác định rõ: Trước
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết, cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân
chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nâng lên một tầm cao mới. Tại
Bắc Giang, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, quy chế
dân chủ được xem là chìa khóa mở ra hướng đi mới góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Việc áp dụng, thực hiện tốt quy chế dân chủ
(QCDC) cơ sở là một trong những yêu cầu không thể thiếu trong quá trình triển
khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc
biệt là bảo đảm sự thành công của chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM).
Với chủ trương đó, tỉnh Bắc Giang nói chung và huyện Lạng Giang nói
riêng đã triển khai thực hiện tốt QCDC cơ sở nhất là việc thực hiện QCDC trong
xây dựng NTM, thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh Việc
triển khai xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong trong xây dựng
NTM thời gian qua đã chứng tỏ, đây là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân,
đáp ứng nhu cầu bức thiết và lợi ích to lớn trực tiếp của đông đảo quần chúng
nhân dân lao động, được nhân dân phấn khởi đón nhận và thực hiện, thể hiện tính
ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Từ đó, cán bộ, đảng viên và người
dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, dân chủ, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
trong việc xây dựng NTM.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số xã trên địa bàn huyện Lạng
Giang quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm, nhất là ở khu vực nông thôn,
miền núi. Những khiếu kiện tố cáo của dân liên quan đến đất đai, đến chính sách
đền bù, giải phóng mặt bằng, việc thiếu công khai minh bạch các khoản đóng góp
của dân, sử dụng quỹ trái phép, tình trạng tham nhũng, lợi dụng chức quyền của
một số cán bộ làm cho dân chúng bất bình không được giải quyết. Không ít nơi
đã xuất hiện các vụ tranh chấp, xung đột dẫn tới các điểm nóng chính trị - xã hội,
gây mất ổn định Trước những vấn đề đó, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền huyện
Lạng Giang phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở,
đẩy mạnh thực hiện QCDC trong việc xây dựng NTM nhằm giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, củng cố an ninh - quốc phòng ở địa phương.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước; yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của địa phương tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tăng cường
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Lạng
Giang, tỉnh Bắc Giang”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây
dựng nông thôn mới ở huyện Lạng Giang thời gian qua đề xuất giải pháp tăng
cường thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng
Giang thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở nước ta;
Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân ảnh hưởng đến việc thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang giai đoạn
2010-2014;
Đề xuất giải pháp tăng cường và nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang trong thời gian tới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở Bắc Giang.
Đối tượng khảo sát của đề tài là huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
trong xây dựng NTM của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Lạng Giang.
Về mặt không gian:
Nghiên cứu tại địa bàn huyện Lạng Giang.
Về mặt thời gian:
Số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu trong giai đoạn từ 2010 đến 2015 (5
năm); giải pháp đề xuất đến năm 2020.
Thời gian nghiên cứu: Tháng 4/2014 đến tháng 5/2015.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung trả lời các câu hỏi sau đây liên quan đến thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang thời gian
qua:
1. Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở
huyện Lạng Giang thời gian qua diễn ra như thế nào?
2. Trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM
ở huyện Lạng Giang gặp những thuận lợi, khó khăn gì?
3. Những giải pháp nào cần đề xuất nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân
chủ cơ sở trong xây dựng NTM ở huyện Lạng Giang thời gian tới?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG XẤY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1 Cơ sở lý luận về Dân chủ
2.1.1 Một số khái niệm chung
2.1.1.1 Dân chủ và dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Dân chủ:
Dân chủ là bản chất của Nhà nước XHCN mà cốt lõi của vấn đề dân chủ
trong Nhà nước XHCN đó là “Dân làm chủ và dân là chủ”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac - LêNin:
Dân chủ là một hình thái nhà nước, một chế độ xã hội, trong đó thừa nhận
về mặt pháp luật những quyền tự do, quyền dân chủ, quyền bình đẳng của nhân
dân (tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do bầu cử…). Dân chủ được quy định
thành quyền, nghĩa vụ của công dân với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước
với công dân (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Dân chủ là một phạm trù chính trị, bởi vì nó gắn liền với bản chất giai cấp
thống trị xã hội, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị (trong lịch sử phát triển
đã có hình thức dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản hay còn gọi là
dân chủ XHCN). Theo nghĩa này, không có dân chủ thuần túy, phi giai cấp, đồng
thời dân chủ sẽ mất đi khi nào trong xã hội không còn giai cấp (V.I.Lê-nin toàn
tập, 2005).
Mặt khác, dân chủ là một phạm trù lịch sử khi gắn với chế độ Nhà nước.
Dân chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột,
đòi quyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá trị
cao nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân chủ sẽ tồn tại lâu dài khi xã hội
còn giai cấp và nhà nước. Dân chủ chi phối tính dân tộc, phản ánh tính chất của
chế độ chính trị, văn hoá xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể (V.I.Lê-nin toàn
tập, 2005).
Dân chủ là một nhu cầu khách quan, tất yếu của nhân dân lao động, dân
chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
Dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức chính
trị - xã hội, cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số
phục tùng đa số.
Trên thế giới hiện nay tồn tại hai hình thức của nền dân chủ: Dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện.
* Dân chủ trực tiếp là một hình thức của Chính phủ, trong đó quyền được
đưa ra các quyết định chính trị được thực hiện một cách trực tiếp dưới các thủ tục
của quy tắc đa số. Hình thức này chỉ khả thi đối với các thực thể nhỏ. Do đó,
không có hệ thống dân chủ hiện đại nào là nền dân chủ hoàn toàn trực tiếp, mặc
dù hầu hết trong đó đều có các yếu tố dân chủ trực tiếp. Các cơ quan dân chủ trực
tiếp là các tổ chức Quốc hội, các sáng kiến lập pháp phổ biến, các cuộc triệu tập,
các cuộc trưng cầu dân ý, v.v (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
* Dân chủ đại diện là một hình thức của Chính phủ trong đó người dân
thực hiện quyền giống nhau nhưng không phải là theo từng cá nhân mà thông qua
các đại diện do họ chọn ra và chịu trách nhiệm với họ. Dân chủ đại diện có liên
quan đến hai hệ thống chính quyền cơ bản: dân chủ nghị viện và dân chủ tổng
thống (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Dân chủ nghị viện: Dưới hình thức chính quyền này, Nghị viện có vai trò
trung tâm, Thủ tướng hay người lãnh đạo Nội các đứng đầu cơ quan hành pháp
và phụ thuộc vào sự tin cẩn của Nghị viện; người đứng đầu nhà nước thường có
ít hay không có quyền lực hành pháp mà chỉ đóng vai trò đại diện.
Dân chủ tổng thống: Người đứng đầu hành pháp là người đứng đầu nhà
nước, người trực tiếp được dân bầu ra và không phụ thuộc vào sự tin cẩn của
Nghị viện.
Vậy, qua một số quan điểm ở trên có thể thấy đặc điểm quan trọng nhất,
bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân con người.
Công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, công nhận
các quyền bình đẳng và bất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hoà
bình trên thế giới.
Nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
Chủ nghĩa xã hội là giải phóng toàn bộ nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Vì thế, dân chủ XHCN là một nền dân chủ kiểu mới, một nền dân chủ của những
con người thoát khỏi áp bức, bóc lột. Mặc dù kế thừa các giá trị quý báu của mọi
nền dân chủ đã có của nhân loại, nhưng dân chủ XHCN có đặc điểm riêng: Dân
chủ là bản chất của chế độ XHCN; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của
cách mạng XHCN; dân chủ XHCN là nền dân chủ của dân, do dân và vì dân. Vì
vậy, không có dân chủ nghĩa là không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ XHCN
chính là sự hiện thực hóa khát vọng dân chủ của toàn thể nhân dân lao động.
(V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Vậy, dân chủ XHCN ra đời như là kết quả tất yếu của lịch sử đấu tranh lâu
dài của nhân dân lao động vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân dân lao động.
Dân chủ XHCN được hình thành dần dần và từng bước được hoàn thiện cùng với
sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Cùng ở trình độ hiện đại trong lịch sử hình
thành và phát triển của dân chủ, nhưng dân chủ XHCN khác về bản chất và
nguyên tắc so với dân chủ tư sản. Sự khác biệt này được thể hiện:
Thứ nhất: Dân chủ tư sản chỉ phục vụ lợi ích của một thiểu số nắm quyền
lực về kinh tế và chính trị trong xã hội tư sản. Đó là giai cấp tư sản nắm quyền sở
hữu tư liệu sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đồng thời nắm
quyền lực trong thể chế Nhà nước tư sản và chi phối xã hội về ý thức, tư tưởng,
lối sống, đạo đức với hệ tư tưởng tư sản. Pháp quyền tư sản thừa nhận trên
nguyên tắc pháp lý những quyền của con người, nhưng trên thực tế, việc thực
hiện những quyền đó đối với quần chúng thường bị hạn chế. Những thành quả
dân chủ và tiến bộ xã hội đạt được chủ yếu phải thông qua cuộc đấu tranh của
quần chúng lao động, của phong trào công nhân chứ không phải do giai cấp tư
sản cầm quyền tự nguyện thực hiện (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Dân chủ XHCN hướng mục tiêu vào việc khẳng định và thực hiện quyền
lực của đa số. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực
đó. Họ được cách mạng giải phóng và trở thành người chủ, có địa vị làm chủ xã
hội. Thể chế Nhà nước và các thiết chế dân chủ khác đều hướng đích vào việc
thực hiện lợi ích, quyền lực của nhân dân, phản ánh nguyện vọng, ý chí của nhân
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
dân. Quyền lực nhân dân, đó là cơ sở và là mục tiêu của việc xây dựng thể chế,
phát triển và hoàn thiện nền dân chủ (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Thứ hai: Dân chủ là hình thức tổ chức quyền lực trong xã hội, thông qua
Nhà nước và biểu hiện trực tiếp ở nhà nước. Một chế độ dân chủ (hay nền dân
chủ) muốn tự biểu hiện mình, tất yếu phải thông qua chế độ nhà nước, song
không phải chế độ nhà nước nào cũng đồng thời là chế độ dân chủ, trùng hợp tự
nhiên với chế độ dân chủ.
Thể chế tư sản dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sở hữu thuộc về giai cấp tư sản nên nhà nước
ấy trước sau vẫn chỉ là công cụ nhằm bảo vệ lợi ích và duy trì quyền lực của giai
cấp tư sản, một nhóm nhỏ trong xã hội. Nó đối kháng và xung đột với lợi ích của
giai cấp công nhân và lợi ích phổ biến của xã hội. Quyền lực nhân dân tức là
quyền lực công cộng của xã hội uỷ quyền vào nhà nước đã bị tha hoá, chỉ còn
mang tính hình thức mà căn nguyên sâu xa của nó là ở chế độ tư hữu, dẫn tới tha
hoá lao động, tha hoá bản chất con người. Muốn thực hiện được dân chủ cho đa
số trong xã hội phải xoá bỏ trật tự hiện tồn tư bản chủ nghĩa, thực hiện giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội bằng một cuộc cách mạng, như vậy mới có thể nhân
đạo hoá hoàn cảnh, làm cho hoàn cảnh trở nên có tính người, làm cho chế độ có
nhân tính (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Nền dân chủ của mỗi quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế -
xã hội, trình độ dân trí và năng lực thực hành dân chủ của đông đảo quần chúng
của Quốc gia ấy. Mà nền dân chủ XHCN hoạt động và thể hiện thực tế thông qua
hệ thống chính trị XHCN. Vậy, hệ thống chính trị XHCN là gì?
Theo lý luận của Chủ nghĩa Mac - Lênin thì hệ thống chính trị XHCN ra
đời từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền Nhà
nước, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được hoàn thiện dần trong quá
trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể bao gồm: Đảng Cộng sản, Nhà
nước XHCN, các tổ chức Chính trị - xã hội hợp pháp, các tầng lớp nhân dân cùng
các mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó, hoạt động trên nguyên tắc bảo đảm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
quyền lực thuộc về nhân dân và nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
(V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Đảng Cộng sản là hạt nhân của hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận
lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội bằng việc đề ra chủ
trương, đường lối, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trên nền tảng của Chủ nghĩa
Mac – Lê Nin (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Nhà nước XHCN là cơ quan thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân
lao động; thay mặt nhân dân lao động, được nhân dân ủy quyền, chịu trách nhiệm
trước nhân dân, quản lý mọi hoạt động của xã hội bằng hệ thống pháp luật và
những thiết chế nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự bảo vệ,
giám sát của nhân dân (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Các tổ chức Chính trị - xã hội hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.
Đó là nơi làm chủ tập thể của nhân dân, là khâu trung gian nối liền Đảng Cộng
sản, Nhà nước XHCN với quần chúng nhân dân. Thông qua các tổ chức này,
nhân dân giới thiệu các đại biểu của mình tham gia vào chính quyền, đóng góp ý
kiến cho Đảng, nhà nước, đồng thời qua đây nhân dân thể hiện tâm tư, nguyện
vọng của mình với Đảng, Nhà nước (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Ba bộ phận này cùng với cơ chế vận hành của chúng (Đảng lãnh đạo -
Nhà nước quản lý - nhân dân lao động làm chủ) hợp thành hệ thống chính trị
XHCN, gắn bó chặt chẽ với nhau vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
đó, Nhà nước XHCN là nhân tố cơ bản nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân
(V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Hoàng Chí Bảo (2007), chỉ rõ “Dân chủ XHCN là nền dân chủ được xây
dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất
của giai cấp công nhân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện và đảm bảo
quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội”.
2.1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Trong toàn bộ di sản văn hoá và tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư
tưởng dân chủ là một phần giá trị to lớn. Người là nhà văn hoá, nhà yêu nước,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
nhà cách mạng giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX. Một trong những giá trị văn hoá
đáng tự hào, đáng trân trọng là tư tưởng dân chủ của Người, Người đã góp phần
to lớn đưa dân tộc này từ kiếp nô lệ trở thành người tự do, đưa nhân dân lên địa
vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của
nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân
trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý
luận và thực tiễn, Người đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong chế độ dân chủ, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân bao giờ cũng đi
liền với nhau. Do đó không thể xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh nếu mỗi công dân không tự giác thực hiện đúng luật pháp và hoàn thành
nghĩa vụ của mình đối với xã hội. Pháp luật có liên quan rất mật thiết với vấn đề
dân chủ. Yếu tố bảo đảm để dân chủ vận hành trong một hành lang an toàn,
không bị thiên lệch chính là pháp luật.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người dành trọn cuộc đời, hy sinh,
tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân, những giá trị về
độc lập dân chủ phải mất bao công sức, xương máu giành được là vô cùng quý
giá và phải được bảo vệ, giữ gìn. Không cho phép bất cứ kẻ thù nào lợi dụng, phá
hoại chế độ dân chủ cũng như những giá trị dân chủ đã được xây dựng nên. Hồ
Chí Minh toàn tập (1996): "Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công
dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, của nhân dân".
Có thể khái quát tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sáu
phạm trù cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hồ Chí Minh toàn tập (1996) “Dân chủ là quý báu nhất của
nhân dân”.
Dân chủ là của báu vì đó là lý tưởng, là ước vọng của toàn thể nhân dân ta
về một xã hội tốt đẹp trong tương lai, một xã hội dân chủ theo đúng nghĩa của nó
“dân làm chủ, dân là chủ”; vì “nó” đem lại quyền làm chủ vận mệnh của mình
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
cho nhân dân, tạo ra những điều kiện, những tiền đề để toàn xã hội, cũng như
mỗi cá nhân trong xã hội phát triển và hoàn thiện. Con người nhờ có dân chủ và
thông qua dân chủ mới có hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh
toàn tập (1996) đã khẳng định rõ điều này "Có dân chủ mới làm cho cán bộ và
quần chúng đề ra sáng kiến".
Dân chủ không chỉ là của quý của nhân dân mà đối với sự nghiệp cách
mạng, dân chủ cũng là của quý bởi phát huy dân chủ sẽ động viên được lực
lượng của toàn dân hoàn hành những nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh toàn tập
(1996) khẳng định "Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất
cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên".
Dân chủ là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của
các thành phần kinh tế và các giai tầng trong xã hội. Sự nhất trí đó tổng hợp
thành sức mạnh của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua khó
khăn, thử thách.
Qua các vấn đề trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy dân chủ - một sản
phẩm của nền văn minh, là sản phẩm của chính nhân dân giành được trong quá
trình tranh đấu để giải phóng con người trong quan hệ với xã hội, tự nhiên và
giữa con người với con người.
Thứ hai: Hồ Chí Minh toàn tập (1996) “Địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có
liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể
chế, lựa chọn người đứng đầu nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân,
nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự
do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có
quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan, nơi mình sống và
làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội
thông qua bầu cử và bãi miễn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
Vì quan niệm dân là trên hết, nên Người cho rằng “mọi lợi ích là vì dân”,
“mọi quyền hạn là của dân”, “mọi công việc do dân”. Trong thiết chế của nền
dân chủ ấy, nhân dân ở địa vị cao nhất. Hồ Chí Minh toàn tập (1996) nói “Trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”.
Nhân dân bao gồm các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc khác
nhau trên đất nước ta. Và trong quan niệm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh quyền dân chủ theo từng địa vị xã hội của họ. Đối với công nhân,
Người khẳng định “Công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp”, Người lại nói
“Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ
việc phân phối sản phẩm lao động”; đối với nông dân, là lực lượng đông đảo và
to lớn nhất của dân tộc, Người khẳng định một luận điểm quan trọng là “Bao giờ
ở nông thôn, nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì
mới là dân chủ thực sự”, Người lại nói “Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì
phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở”; đối với trí thức, Người
nhấn mạnh sắc thái “Tự do tư tưởng”, Người nói “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư
tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ”. Như thế, con người tự do là con người biết phục tùng chân lý; đối với
quân đội (và cả công an nhân dân) tư tưởng dân chủ của Người thật sự sáng tỏ
“Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật
chất và tinh thần của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu đói.
Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở,
cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới dân chủ, mới đoàn kết, mới tất
thắng”; riêng với Thanh niên, Người tập trung vào yêu cầu quyền được cống hiến
của tuổi trẻ. Người thường nói thanh niên không nên đòi hỏi ở nước nhà mà chỉ
nên tự hỏi mình rằng đã làm gì cho nước, cho nhà. Người nói “Trong xã hội
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Tuy thế
Người vẫn không quên nêu ra những quyền lợi học tập, vui chơi, giải trí của
thanh niên.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
Tóm lại, trong tư tưởng của Người, nhân dân là lực lượng dựng xây đất
nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy
nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Thứ ba: Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng để xây dựng chính quyền
dân chủ mới ở nước ta.
Luận điểm về chính quyền dân chủ của Người, bao gồm một hệ thống
quan niệm rất hoàn chỉnh. Người nói một cách rõ ràng, dễ hiểu về bản chất và
mục tiêu, về nội dung, chức trách và nhiệm vụ, về cơ cấu và cơ chế quyền lực, về
phương pháp hoạt động, về trách nhiệm phẩm chất và năng lực của nhân viên
trong một nhà nước dân chủ.
Người luôn luôn khẳng định bản chất nhân dân và bản chất dân chủ của
chính quyền ta. Người cũng nói đến chuyên chính, nhưng Người coi chuyên
chính là “cái khoá, cái cửa” để đề phòng kẻ phá hoại của quý báu nhất là dân chủ
mà thôi. Hồ Chí Minh toàn tập (1996) khẳng định “Mở rộng dân chủ đi đôi với
tăng cường chuyên chính để cho chính quyền ta thật sự là chính quyền của dân,
phục vụ nhân dân, chống lại kẻ thù của nhân dân”.
Người cho rằng chính quyền luôn lấy việc phục vụ lợi ích của nhân dân
làm mục tiêu. Cho đến trước lúc ra đi, Người vẫn còn nhắc lại những mục tiêu
chiến lược ấy: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Đó chính là
những chiến lược lâu dài, cần có quyết sách thông minh và tài năng tổ chức điều
hành để thực hiện.
Trong quan niệm về chức trách và nhiệm vụ, Người nhấn mạnh tính chất
“Người đầy tớ công cộng” của chính quyền đối với nhân dân. Người dùng chữ
“công bộc” (người đầy tớ trung thành) để nói một ý nghĩa mới của một chính
quyền dân chủ.
Để cho quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện, để quyền lực nhà nước
được bảo đảm, Người nhấn mạnh ba yếu tố sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14
- Phải có Hiến pháp “thích hợp với sự phát triển của chế độ, bảo đảm được
quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân”.
- Phải có luật pháp “thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng
rãi cho nhân dân lao động”.
- Phải có một bộ máy chính quyền có đủ năng lực, phẩm chất, tinh giản,
nhạy bén.
Năng lực và đạo đức phục vụ nhân dân, tập trung thành những yêu cầu:
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người lên án thói quan liêu, miệng thì nói
dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối “quan chủ”, miệng thì nói phụng sự quần
chúng, nhưng họ làm trái ngược lợi ích quần chúng. Người chỉ rõ “nguyên nhân
của bệnh quan liêu là do xa nhân dân, sợ nhân dân, không yêu thương nhân dân”.
Lo lắng về hiểm hoạ ấy, mà Người gọi đó là nguy cơ của một thứ xâm lược bên
trong “nội xâm” và thang thuốc để trị bệnh ấy cơ bản và trọn vẹn vẫn chỉ là thực
hành dân chủ.
Người còn chú ý đến nhiều điều kiện khác nữa, trong đó có sự nhấn mạnh
đến giải pháp “dân trí”. Người từng nói “Quan tham vì dân dại, nếu dân hiểu biết
không chịu đút lót thì quan dù không liêm cũng phải hoá ra liêm”. Rõ ràng Đảng
và Nhà nước ta không thể tự cải tạo, chỉnh đốn, đổi mới nếu biệt lập nó với quá
trình thực hiện dân chủ hoá sâu sắc và mạnh mẽ, với quá trình tôn trọng và phát
huy dân trí và dân quyền của toàn xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ vẫn còn giữ nguyên giá trị trong
việc củng cố và xây dựng một chính quyền nhà nước dân chủ để phục vụ nhân
dân có hiệu quả, hiệu lực, một chính quyền thật sự vì dân và do dân, chứ không
phải là quyền lực riêng của một cá nhân hoặc là một nhóm người nào đó.
Thứ tư: Đảng cũng ở trong xã hội. Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên.
Trong tư tưởng dân chủ, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò
“cầm quyền” của Đảng, nhưng Người rất ít nói đến quyền uy, quyền lực của
Đảng đối với dân, với nước. Người luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phục vụ, phụng
sự, làm đầy tớ của nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15
Đảng cũng ở trong xã hội, trước hết cần hiểu rằng, khi nói Đảng ở trong
xã hội, nghĩa là Đảng không bao giờ là một lực lượng siêu nhiên, siêu xã hội.
Đảng bao gồm những con người của đời thường, chịu những dấu ấn của mọi mối
quan hệ xã hội hiện hữu. Đảng không phải là tập thể của những thánh nhân,
không bao giờ mắc sai lầm.
Tuy thế, hiện thực của xã hội đang đặt ra vấn đề Đảng phải đổi mới sự
lãnh đạo và mọi hoạt động của mình. Các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của
Đảng đều xác định yêu cầu Đảng phải vươn lên ngang tầm của nhiệm vụ lịch sử.
Không phải chỉ vì trong Đảng đã xuất hiện sự trì trệ và lạc hậu về tư duy, lề lối,
tác phong và về đội ngũ cán bộ, mà còn là vì đất nước ta, xã hội và nhân dân ta
đã phát triển và đạt tới một trình độ cao hơn trước, phong phú hơn trước về mọi
mặt. Hơn nữa, đòi hỏi mở rộng nền dân chủ trong xã hội là một tất yếu của tiến
trình đổi mới.
Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên, được hiểu thế nào? Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm “do dân” trở thành một yếu tố định hình, chi
phối toàn bộ các lập luận. Bất cứ một hình thái tổ chức xã hội nào đều do yêu cầu
của dân mà thành lập, mà hoạt động. Do dân còn là do trình độ dân trí mà tổ chức
cho phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng cho rằng Đảng không có mục
đích tự thân, Đảng không tồn tại, không tổ chức nên vì chính mình. Vì thế, tư duy
“do dân tổ chức nên” chính là cỗt lõi triết học của khoa học tổ chức Đảng. Không
phải ngẫu nhiên mà trong công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
yêu cầu Đảng phải gắn với dân, bám sát dân, đặc biệt là phải luôn nhạy cảm với
thực tế.
Thứ năm: Đoàn thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền
lợi của dân, liên lạc mật thiết giữa dân với Chính phủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đoàn thể trước hết phải là tổ chức của
dân. Trong dư luận xã hội có khi đoàn thể chỉ là của Đảng, của chính quyền hoặc
là của cán bộ đoàn thể mà thôi. Nếu làm cho dân chấp nhận được đoàn thể là của
chính họ, nhất định sẽ có phong trào quần chúng rộng rãi, sẽ có phương thức hoạt
động và sẽ có sự gắn bó chặt chẽ giữa đoàn thể và nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 16
Người cũng khẳng định nhiệm vụ của đoàn thể là phấn đấu cho dân và
bênh vực quyền lợi của dân. Chẳng hạn “công đoàn phải bảo vệ cho công nhân
có quyền thực sự trong xí nghiệp”. Đoàn thanh niên “muốn củng cố và phát triển
thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải tránh
thành kiến, hẹp hòi cô độc”. Với Hội nông dân, Hội phụ nữ, Người cũng đều nêu
những yêu cầu tương tự. Riêng với Mặt trận dân tộc thống nhất, trước sau Người
đều coi đó là một liên minh chính trị của các giai cấp, các tầng lớp tôn giáo và
dân tộc. Người cho rằng vai trò của Mặt trận chẳng những có ích trong việc đoàn
kết toàn dân, chống kẻ thù xâm lược, mà còn rất cần thiết cả trong giai đoạn tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ sáu: Thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống của nhân
dân, thực hiện dân chủ thực sự.
Phạm trù này chính là nói về giải pháp và phương thức thực hiện dân chủ.
Người quan niệm dân chủ là một hệ thống tổng hợp những thiết chế, luật lệ, vừa
là một chế độ xã hội, vừa là một phương thức văn minh của các mối quan hệ xã
hội hiện đại vừa là một phong cách sống văn minh. Dân chủ vừa là mục tiêu, là
nội dung, là động lực phát triển xã hội.
Muốn thực hiện dân chủ thực sự, không thể không tiến hành những cải
cách xã hội về mọi mặt. Dân chủ thực sự là kết quả tất yếu phải đạt tới, thông qua
nhiều cải cách khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Đồng thời dân
chủ cũng là nội dung, là biện pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thành những cải cách
ấy. Đời sống của nhân dân là chỉ báo, là dấu hiệu, là chất lượng của dân chủ, đồng
thời cũng chính là mục tiêu và kết quả của mọi cải cách xã hội. Ba yếu tố ấy (cải
cách xã hội, nâng cao đời sống, thực hiện dân chủ) gắn liền với nhau, đan xen
nhau, hài hoà cân đối, thúc đẩy lẫn nhau. Trong cải cách xã hội có nội dung dân
chủ. Để thực hiện dân chủ lại phải vạch ra những chương trình cải cách xã hội, dù
là về sở hữu, là quản lý sắp xếp bộ máy Nhà nước, về văn hoá hay giáo dục.
Sáu luận điểm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một hệ thống hàng
trăm luận đề có nội dung phong phú, sâu sắc khác nhau, liên quan tới mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, là một kho báu có giá trị lớn lao, luôn được Đảng và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 17
Nhà nước ta vận dụng trong quá trình thực hành dân chủ cũng như xây dựng và
phát triển đất nước.
2.1.1.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
Theo Hồ Chí Minh toàn tập (1996)
+ Phải cho dân biết: Quyền làm chủ của nhân dân, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước, thông tin thời sự, chính sách, cán bộ lãnh đạo, quản lý
mình.
+ Giải thích cho dân hiểu: "Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho
mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ
phải hăng hái làm cho kỳ được".
+ Bày cách cho dân làm: "phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm
của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành",và "Trong lúc thi hành phải theo
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân".
+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soát: "Khi thi hành xong phải cùng với
dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng".
2.1.2 Dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Như trên đã phân tích, dân chủ XHCN là nền dân chủ cho đại đa số người
- dân chủ của nhân dân lao động dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Nền dân chủ XHCN giành được do kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh lâu dài
vì tiến bộ xã hội của nhân dân lao động. Vậy, có thể đưa ra một số đặc điểm cơ
bản về dân chủ XHCN:
Về chính trị: Nền dân chủ XHCN thể hiện qua sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản đối với toàn xã hội, thực hiện
quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, mà trong đó có giai cấp
công nhân (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).
Về kinh tế: Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động (V.I.Lê-nin toàn tập, 2005).