Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.67 KB, 21 trang )

Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế
giới.Các vấn đề về xuất nhập khẩu,về đầu t nớc ngoài đang là những chủ
đIểm cho các cuộc hội thảo kinh tế ở Việt Nam .Làm sao để tăng cờng giá trị
xuất nhập khẩu ,thu hút đầu t đó là những vấn đề đáng quan tâm cho những
nhà hoạch định chính sách .
Nhìn nhận vấn đề xuất nhập khẩu ,đầu t chúng ta không thể bỏ qua
vấn đề về tỷ giá hối đoái, một thớc đo giá trị của dồng tiền này bằng đồng
tiền khác.Bạn có bao giờ nghĩ rằng tỷ giá sẽ ảnh hỏng đến cuộc sống của bạn
nh thế nào cha,giả sử bạn là một nhà xuất khẩu Việt nam bạn vay ngân hàng
1 triệu USD (=15 tỷ VND) để nhập khầu,khi bạn bán đợc hàng bạn thu đợc
16 tỷ VND tuy nhiên lúc này tỷ giá là 20000VND/1USD bạn đã bị lỗ ít nhất
3 tỷ đồng và đIều đó có thể khiến bạn trở thành kẻ đứng đờng.Hiểu biết về tỷ
giá và dự doán đúng sự biến động về tỷ giá là thành công của nhiều doanh
nghiệp,bởi vậy mới hình thành các phòng kinh doanh ngoại tệ ở các ngân
hàng.Vấn đề tỷ giá còn ảnh hởng trực tiếp đến vấn đề xuất nhập khẩu.Nếu
đồng tiền Việt nam mà lên giá sẽ bất lợi cho các nhà xuất khẩu bởi hàng hoá
việt nam đã đắt lên một cách tơng đối,ngợc lại sẽ làm cho các nhà nhập khẩu
bất lợi.
Từ thực tế trên em xin tìm hiểu đề tài về "Tỷ giá hối đoái và vấn đề
tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay nhằm giúp cho quá trình học tập và
nghiên cứu sau này của bản thân và cho bạn bè quan tâm nắm rõ hơn về vấn
đề này.
Trong quá trình thu thập thông tin còn nhiều hạn chế do vậy có thể
còn nhiều sai sót mong các bạn thông cảm và trân thành góp ý.
Em xin cảm ơn TS Trần Đăng Khâm đã hớng dẫn và giúp đỡ em hoàn
thành đề án này !
Trang
Mụclục 1
Mở đầu 2
Nội dung 3


Chơng I: Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái 3

1
I. Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm liên quan 3
1. Thị trờng ngoại hối và tỷ giá hối đoái 3
2. Tỷ giá hối đoái thực tế 4
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối
đoái
4
II. Các hệ thống tỷ giá 5
1. Chế độ tỷ giá cố định 5
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods 6
3. Sự can thiệp của nhà nớc vào hệ thống tỷ giá hối đoái 10
Chơng II: Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam 14
I. Sơ lợc về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam Từ năm 1955
đến nay
14
II. Vấn đề tỷ giá hiện nay 20
Chơng III: Những giả pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
I. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái
trong thời gian qua
22
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái 23
Kết luận 27
Danh muc tài liệu tham khảo 28
Phần II: Nội dung
Chơng I
tổng quan chung về hệ thống
tỷ giá hối đoái
I. Một

số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm có liên
quan.
Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trớc hết chúng ta cần phải
xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị tr ờng ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nớc khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay
những phơng thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ th-
ơng mại quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các nớc
với nhau, đó chính là thị trờng ngoại hối. Nh vậy thị trờng ngoại hối là thị tr-
ờng quốc tế trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền của quốc gia
khác.

2
Thông thờng tỷ giá hối đoái đợc hiểu là số lợng đơn vị nội tệ cần thiết
để mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trờng ngoại hối; là hệ số quy đổi của một
đồng tiền này sang một đồng tiền khác đợc xác định bởi mối quan
hệ cung cầu trên thị trờng tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá
hối đoái, ngời ta thờng sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nớc ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ
Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thờng liên quan đến sức
cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tỷc là giá trị của đồng nội tệ
giảm thì giá cả của hàng hoá trong nớc sẽ rẻ tơng đối so với giá cả của hàng
hoá ở nớc ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hớng tăng, nhập khẩu có xu hớng
giảm, khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu đợc vấn
đề này phải phân biệt đợc tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá tơng
đối của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức giá tơng

đối giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là mức giá t-
ơng đối của những hàng hoá mậu dịch tơng ứng với các hàng hóa phi mậu
dịch. Nh vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tơng ứng với giá so sánh giữa
hàng hoá thơng mại hoá và hàng hoá không thơng mại hoá đem lại đồng thời
sự cân bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có nghĩa là thị trờng hàng
hoá không thơng mại hoá đợc thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là
thâm hụt cán cân vãng lai đợc tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nớc
ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực
(RER) là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tơng ứng. Tỷ giá
hối đoái thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những
hàng hoá mậu dịch trong nớc. Nếu không có sự tăng giá tơng ứng ở các quốc
gia khác thì việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó : họ
sản xuất hàng hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nớc khác.
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phơng pháp nghiên
cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phơng thức cờng độ, tốc độ tác

3
động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố quan trọng,
trực tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái,
đó là:
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nớc.
-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hởng đến cung cầu ngoại tệ, thông
qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi
sức mua của đồng tiền.
-Chênh lệch mức giá giữa các nớc, giữa thị trờng tín dụng nội địa và
quốc tế.
-Thực trạng hoạt động của các thị trờng tài chính, ngoại hối và các xu h-

ớng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hởng đến tỷ giá.
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trờng Tài chính trong n-
ớc và quốc tế.
- Các phơng thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà nớc.
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà nớc
trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ.
II. Các hệ thống tỷ giá.
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tợng tham
gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thơng mại hay nhà đầu t. Tỷ
giá hối đoái cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ giá
có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số phụ thuộc
vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của
nhà nớc khác nhau đến tỷ giá hối đoái đã tạo nên những cơ chế tỷ giá hối
đoái khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế tỷ
giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng tiền)
và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá đợc xác định dựa vào cung cầu trên thị trờng).
Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức
độ cố định thả nổi tỷ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định
hay thả nổi tỷ giá hối đoái. Điều này đã đa đến các nguyên tắc khác nhau về
điều hành tỷ giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc
gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỷ giá hối đoái ở trên
thế giới.
1. Chế độ tỷ giá cố định.

4
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái
ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng
vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định ngời ta có thể sử
dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :

Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính
bằng tiền nớc họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nớc thành
vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao
dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền
đồng tiền trong nớc với số vàng nhà nớc có. Chính phủ chỉ có thể phát hành
tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi
tiền giấy của họ thành vàng thì lợng tiền lu hành sẽ giảm đi. Dới chế độ bản
vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế
nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tơng đ-
ơng trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất
giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng đợc thực hiện bằng vàng
nh vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối
trong thơng mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã đợc sử dụng
hầu nh suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nớc. Bản vị vàng có một u điểm
lớn và một nhợc điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn
toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại
trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ lạm phát một cách th-
ờng xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm
đầy đủ là sự giảm giá và tiền lơng nội địa mà phải mất nhiều năm để điều
chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì của bản
vị vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thơng dẫn tới
những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đợc cố định một
cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế,
trong đó các tỷ giá hối đoái thông thờng đợc cố định nhng một đôi lúc các n-
ớc đợc phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này đợc ra đời gần
cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia đợc tổ chức ở Brentton
Woods New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối đoái có trật

tự thuận lợi cho luồng thơng mại tự do". Theo hệ thống này tỷ giá chính thức

5
giữa đồng tiền của các nớc thành viên đợc hình thành trên cơ sở so sánh hàm
lợng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ đợc phép dao
động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã đợc đăng kí tại quỹ tiền tệ
quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn đợc biết với đến với tên gọi bản vị
đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền đợc chuyển đổi theo đôla chứ
không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định, các ngân hàng trung -
ơng cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lợng đôla
hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị trờng ngoại hối để bảo vệ tỷ giá
hối đoái cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không
còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể
in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nớc. Nếu tình trạng thâm hụt
ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của
mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nớc sẽ cạn kiệt dự trữ
ngoại hối, lúc đó nhà nớc sẽ phải phá giá tỷ giá hối đoái của mình chuyển sang
một nớc giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thờng xuyên sức
cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay đợc coi là bền vững thì sẽ tạo
cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, nh vậy sẽ
thúc đẩy đầu t và thơng mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự hạn chế
đối với chính sách tiền tệ trong nớc vì do tỷ giá hối đoái cố định nên không
khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không
cần thiết phải có sự quan tâm thờng xuyên của ngân hàng trung ơng. Tỷ giá
hối đoái cố định sẽ là tối u nếu các ngân hàng trung ơng có thể thực hiện đợc
sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tơng đối cân bằng và thực hiện việc cố định
tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với
chính sách tiền tệ và có thể đợc coi là phù hợp trong tình huống các công cụ

tài chính và thị trờng tài chính cha phát triển đủ mức cho sự vận hành của
chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trờng.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trờng hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh
hởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn
định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hởng tới dự trữ ngoại hối; tỷ giá hối
đoái cố định có thể làm ngời ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trờng sẽ buồn tẻ,
khó có thể xác định đâu là tỷ giá hối đoái tối u, hay hợp lý cho một nền kinh
tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ơng đều cần thiết phải hiểu hơn
ai hết đâu là mức cân bằng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định có thể là
quan trọng nhng nó không quyết định tỷ giá hối đoái thực tế mà nó chỉ đợc

6
coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỷ giá hối đoái cố định
đòi hỏi ngân hàng trung ơng phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trờng ngoại
hối để đảm bảo mức tỷ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó có thể đa ra về
mức độ cần can thiệp nh thế nào để tác dộng vào nền kinh tế nhằm đạt đợc
mục tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ơng cần thiết phải duy trì một mức nhất
định về dự trữ ngoại hối, nh vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. Tỷ giá hối
đoái này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác, và đó là
điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ
nào đó.
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:
Là tỷ giá hối đoái đợc hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có hai
loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng
nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức
là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân
bằng) Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lợng trong nớc và tỷ giá
hối đoái thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lợng ở nớc ngoài
và tỷ giá hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tế trong nớc và nớc ngoài đều ở
trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lợng tiềm năng,thì chỉ có một tỷ giá

chính thức duy nhất đồng thời tơng ứng với sự cân bằng bên ngoài.ở bầt kì
mức tỷ giá hối đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có sức cạnh tranh
kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn, nền kinh tế sẽ bị
thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Ngợc lại ở bất kì một mức tỷ giá hối đoái
thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập khâủ thấp hơn, nền kinh
tế nội địa sẽ có một khoản thặng d trong vãng lai. Chỉ có một tỷ giá hối đoái
thực tế duy nhất tơng ứng với sự cân đối bên trong và bên ngoài.

7
Chơng II
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I. Sơ l ợc về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ
năm 1955 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nớc trên thế giới
đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhng các nớc xã hội chủ
nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nớc luôn can thiệp mạnh vào
mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn
tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỷ giá cố định, Việt Nam cũng
không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỷ giá chính thức của VND đợc công bố
vào ngày 25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung quốc
là 1NDT =1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1 Rúp
bằng 735 đồng Việt Nam. Tỷ giá này đợc xác định bằng cách so sánh giá
bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nớc
nhằm giả quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nớc trong những năm kháng
chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nớc khác đ-
ợc thiết lập dựa trên tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch),
nhà nớc còn đa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết
toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại
thơng). Nh vậy hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa
tỷ giá, tỷ giá đợc xác định trên ý đồ phục vụ kế hoạch của nhà nớc, các quyết

định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền kinh tế thị trờng trong
và ngoài nớc, tỷ giá giữ vai trò thụ động, cha phải là công cụ điều chỉnh kinh
tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn
cho việc quản lý đều hành của nhà nớc trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh
tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có
tình trạng nh vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá
kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách nhà nớc làm cho việc tính toán và
thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm trọng, công tác điều hành ngân sách nhà
nớc khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân sách nhà nớc. Từ năm
1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô viện trợ cho nớc ta khoảng 15 % thu nhập
của cả nớc, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỉ rúp trong 1 năm nếu tính theo tỷ giá kết
toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng 1/3 tổng thu ngân sách, nhng nếu tính
sức mua trên thị trờng của đồng rúp thì tỉ trọng này vào khoảng 6070 %. Vì
vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng,đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ

8
nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì nếu để tỷ giá cũ làm cho việc bù lỗ
nhập khẩu vợt mức chịu đựng của ngân sách nhà nớc, thủ tiêu động lực xuất
khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nớc bắt đầu thực hiện công cuộc
đổi mới nền kinh tế, từng bớc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển
dần sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Đây là thời kì có sự
chuyển biến mạnh mẽ trong t duy quản lý và diều hành kinh tế của nhà nớc,
nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách
đợc đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nớc chính công bố xoá bỏ tỷ giá
kết toán nội bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thơng. Tỷ
giá chính thức đuợc Ngân hàng nhà nớc chính thức công bố căn cứ vào chỉ số
lạm phát, lãi suất trên thị trờng, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá
trên thị trờng tự do và giá vàng trên thị trờng quốc tế và trong nớc. Trên cơ sở

tỷ giá này, các ngân hàng thơng mại xây dựng cho mình một tỷ giá dùng để
giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải
pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trờng ngoại hối,
xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc biệt trong lĩnh
vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhng tỷ
giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm
1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là
do ảnh hởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính
của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào
cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã can thiệp để nâng giá đồng Việt
Nam trên thị trờng ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát
bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu đợc ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây,
Việt Nam đã nhập khẩu một số lợng lớn lợng nguyên, nhiên vật liệu để đáp ứng
nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nớc, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm
của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho
giá thành sảm phẩm sản xuất trong nớc tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng.
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn địnhkhác thì việc giá
thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn
làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nớc kiên trì quan điểm
ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trờng ngoại tệ, nhu cầu về ngoại tệ
của các doanh nghiệp cơ bản đợc đáp ứng, lạm phát gần nh đợc chặn lại, tạo

9
lòng tin cho dân chúng và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả đợc
tâm lý đầu cơ. đó là những nguyên nhân cơ bản nhất khiến cho xu hớng lên
giá của đồng Đô la sẽ bị chặn lại, tỷ giá VND/USD không những không tăng
mà còn giảm xuống. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong viêc điều chỉnh
này về tỷ giá hối đoái quá mạnh đã gây sức rất ép lớn đối với sản xuất công

nghiệp và nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng của Việt
Nam và là một thị trờng vừa lớn lại vừa gần. T giá hối đoái do thị trờng quy
định của Trung Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991, biến động
khoảng từ 6-8 NDT / 1 đô la và có thời gian ngắn lên 10 NDT
Nh vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam
lần đầu tiên đạt mức tỷ giá danh nghĩa nh năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ bị
phá giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại Trung
Quốc là 25%, do đó mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc
là rất đáng kể và các nhà máy Việt Nam đã phải vất vả vì tình trạng này.
Nhà nớc đã đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỷ giá
và phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng
hạn nhập (Quota), cấm nhập khẩu cũng nh hạn chế cấp tín dụng cho nhập
khẩu cùng với một số chính sách u đãi đối với nhà xuất khẩu nh : Giảm thuế,
bảo hiểm giá đối nông sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản phẩm xuất
khẩu mới Nhng do biên giới với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại và do việc
buôn lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận nên hầu nh không thể ngăn chặn việc
buôn bán tại vùng này tuy có thể làm cho những hoạt động đó mang lại ít lợi
nhuận hơn. Tất nhiên những biện pháp này sẽ không giúp đợc gì cho các nhà
xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá bằng USD vẫn không
thay đổi).
Diễn biến cụ thể của tỷ giá hối đoái trong 2 năm 1991, 1992 nh sau
Năm 1991 :
Tháng 12/90 1/91 3/91 6/91 12/91
VNĐ/USD 7400 7900 8830 10050 12550
VNĐ/USD 1350 1370 1460 1850 2350
Du
Năm 1992 :
Tháng 12/91 1/92 3/92 6/92 9/92 12/92 1/93
VND/USD 12.900 11.800 11.550 10.285 10.950 10.720 10.500


10

Đến cuối năm 1992, đồng Việt Nam tăng 20 % so với đồng đô la vì thế vào
năm 1993, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trờng sẽ bị giảm mạnh.
Sau đó Nhà nớc lại tăng giá đồng đô la trong cuối quý I năm 1993 là cho
đồng Nhân dân tệ tăng gía, sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị tr-
ờng Việt Nam giảm
Tỷ giá năm 1993 của đồng Việt Nam so với đô la là
Tháng 12/92 1/93 3/93 6/93 7/93 9/93 12/93
VND/USD 10.720 10.500 10.500 10.580 10.680 10.750 10.835
Trong năm 1993, tỷ giá VNĐ/USD có xu hớng ổn định, Ngân hàng Nhà
nớc đã thành công trong việc giữ cho đồng Việt Nam không lên giá, điều này
giúp cho hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh đợc, kích thích xuất khẩu đợc
giúp Việt Nam có thể hạn chế đợc ảnh hởng của đồng đô la với nền ngoại th-
ơng của mình
Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nớc ban hành quyết định
số 203 / QĐ - NH9 về việc thành lập thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân
hàng Nhà nớc thực hiện vai trò là ngời mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá
chính thức vẫn đợc Ngân hàng Nhà nớc công bố, chỉ có biên độ dao động là
thay đổi. Trong 3 năm 9396, đồng đô la hầu nh không tăng theo giá trị
thực của nó trên thị trờng, trong khi thị trờng dờng nh đợc thả nổi theo cung
cầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là lợng vốn của nớc ngoài đầu t vào
Việt Nam trong thời kỳ này tăng rất nhanh, chính sách thắt chặt tiền tệ của
chính phủ đã kiềm chế đợc lam phát ở mức vừa phải và do chênh lệch lãi
xuất giữa VNĐ và USD quá lớn nên rất nhiều nhà đầu t đã bán đô la để lấy
VNĐ gửi tiết kiệm lấy lãi
Tình trạng giá trị đồng nội tệ cao đã làm cho vào năm 1996, mức thâm
hụt cán cân thơng mại nớc ta lên đến 16 %, cao gấp rỡi so với các nớc có
mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu về USD lại tăng gây sức ép giảm
giá VND

Nh vậy có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng
Nhà nớc từ 1990 đến trớc tháng 3 / 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định
có điều tiết nhẹ của Nhà nớc, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VNĐ theo
USD qua 1 tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu qua đô la Mỹ, DM, bảng Anh, ) trong
đó đôla Mỹ chiếm tỉ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng minh chính sách này chỉ
phù hợp với giai đoạn tiền tệ còn cha ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu

11
khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Xu hớng của tỷ giá trong thời gian
này là tăng quá chậm so với tốc độ tăng trởng lạm phát (tính theo chỉ số liên
hoàn qua nhiều năm), VND đợc đánh giá quá cao so với giá trị thực của nó.
Từ năm 19921996, tỷ giá tăng khoảng 5,2 % trong khi lạm phát tăng
40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hớng
mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định (lạm phát thấp, lãi
suất giảm, cán cân thanh toán tổng thể có bội chi nhỏ, dự trữ ngoại tệ khá
hơn ) buộc chính sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại, vì thế đến năm
1997, Ngân hàng Nhà nớc có quyết định để thay đổi biên độ giao dịch: Ngân
hàng Nhà nớc nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thơng
mại so với tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nớc công bố, lần lợt là 5%
vào tháng 3/1997 rồi đến 10% vào tháng 10/1997, từ mức 0,5 - 1 % đợc áp
dụng trong suốt 2 năm 1995, 1996
Trong thời kỳ 1997 - 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD xích
lại gần nhau. Thời gian này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
khu vực, về cuộc khủng hoảng này, nhiều nhà kinh tế cho rằng một trong
những nguyên nhân gây ra khủng hoảng là ở Thái Lan đã duy trì một cơ chế
gắn đồng Bath vào đồng đô la một cách rất cứng nhắc của Ngân hàng Trung -
ơng Thái Lan trong nhiều năm. Sau cuộc khủng hoảng này, hầu hết các đồng
tiền của các nớc trong khu vc giảm giá (tiền Indonexia mất giá 130 %, đồng
Thái Lan mất giá 100 %, đồng Malaixia mất giá 60 % ) đồng thời lợng vốn
nớc ngoài đầu t vào Việt Nam giảm sút. Xu hớng rút tiền đồng Việt Nam để

chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996 khối lợng L/c trả chậm
khá lớn và phần lớn đến hạn trả vào năm 1997, do vậy làm tăng nhu cầu mua
ngoại tệ trong nớc để trả nợ đến hạn. Tất cả các điều kiệ trên gây áp lực giảm
giá VNĐ. Trớc tình hình đó chính phủ đã thực hiện phá giá từ 11113VND/
USD năm 1996 lên 13980 VND/ USD năm 1998
Việc điều chỉnh tỷ giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, việc cố định một tỷ giá đợc coi là cao hơn tỷ
giá thực tế là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó cản
trở xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế" khả năng đề kháng
của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tỷ giá cho rằng, mức tỷ giá đó là
phù hợp trong giai đoạn đó. Việc tăng tỷ giá đã góp phần giảm tỉ nhập siêu từ
20,3 % năm 1997 xuông 17,6 % năm 98
Ưu và nh ợc điểm của việc phá giá trong giai đoạn này: Nó làm cho tốc
độ xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, do vậy tỉ lệ nhập siêu giảm xuống
song" độ nhạy giữa việc thay đổi tỷ giá với việc thay đổi xuất nhập khẩu là

12
thấp. Bởi vì để đẩy mạnh xuất khẩu ngoài việc phụ thuộc vào tỷ giá còn phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác nh chất lợng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủ
tục về xuất nhập khẩu mà ở Việt Nam vấn đề này còn rất bức xúc và thức
tế đã chứng tỏ điều đó.
Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm của các doanh
nghiệp tăng giảm sức cạnh tranh và đến lợt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất
khẩu và làm cho nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu
t tăng lên. Trong năm 1998,sau khi nới rộng biên độ giao dịch, cầu ngoại tệ
trên thị trờng rất cao nên hầu nh việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng
thơng mại thờng xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhng giá
trên thị trờng tự do còn cao hơn nhiều, có lúc lên đến 14000 VND/ 1 USD,
đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khả năng
khủng hoảng của VND. Đứng trớc tình hình này, những tháng đầu năm 1998,

Ngân hàng Nhà nớc đã đa ra một loạt các biên pháp nhằm ổn định thị trờng
nh : Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới,
quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng, đối với các tổ chức tín
dụng đợc phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là 2 lần chủ động điều chỉnh tỷ
giá: lần thứ nhất vào 16/02/1998, Ngân hàng Nhà nớc(NHNN) quyết định
nâng tỷ giá từ 11175 VND/1 USD lên 11800 VND/ 1 USD làm tỷ giá trao đổi
của các ngân hàng thơng mại(NHTM) xấp xỉ với tỷ giá trên thị trờng tự do.
Lần thứ hai diễn ra vào ngày 07/8/1998, tỷ giá chính thức đợc nâng từ 11888
VND/ 1 USD lên 11.998VND/ 1 USD, tăng 16,3 %, bên cạnh đó, biên độ
giao dịch cũng đợc thu hẹp lại còn 7 % chứ không phải là 10 % nh trớc đây
nữa. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng
cách giữa tỷ giá trên thị trờng tự do và tỷ giá của các NHTM. Vào những
tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trờng này thờng xuyên sấp xỉ nhau
Tuy nhiên để xoá bỏ hiện tợng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tập trung hơn
nữa ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nớc, ngày 12/09/1998, Chính phủ ban hành
quyết định số 173/ QĐ-TTG về mua và bán ngoại tệ đã mang lại một số kết quả
khả quan. Suốt quý IV năm 1998, doanh số mua bán ngoại tệ tăng liên tục.
Quan hệ cung cầu ngoại tệ đợc cải thiện đáng kể đã góp phần nhằm ổn định tốt
hơn tỷ giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng đợc
duy trì trong biên độ quy định, khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trờng
ngoại tệ liên ngân hàng và thị trờng tự do là khá thấp (< 1 %).
II.Vấn đề tỷ giá hiện nay.
Từ ngày 01 /01/1999, sự kiện ra đời chính thức đồng Euro đã đem đến
cho khu vực này một chế độ không có tỷ giá hối đoái hay cũng có thể gọi là"

13
cơ chế tỷ giá cố định tuyệt đối. ở Việt Nam nhiều quan điểm cho rằng, cần
giảm bớt sự quản lý đối với tỷ giá bằng cách mở rộng biên độ giao dịch để
thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, có quan điểm lại cho rằng cần duy trì tỷ giá
hối đoái ổn định hơn nữa. Do cần phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá sao cho

phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trờng, NHNN đã đa ra hai quyết định
số 64 và 65 ngày 26/02/99, tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá trên cơ sở
bám sát các nguyên tắc điều hành tỷ giá đợc nêu trong" điều hành tỷ giá linh
hoạt theo cung cầu phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam trên
cơ sở đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý có hiệu quả tỷ giá hối
đoái Thực chất hai quyết định đã nêu hoàn toàn không đề cập đến điều
chỉnh mức tỷ giá đã hoàn thành ổn định trong thời gian này. Thế nhng đây là
dấu hiệu cho thấy xu hớng tự do hoá rõ rệt hơn tỷ giá hối đoái có sự điều tiết
của Nhà nớc. Tỷ giá thực tế ở thời điểm có quyết định mới (26/02/1999) có
nhiều biểu hiện phù hợp với sức mua, đối nội và đối ngoại của đồng tiền Việt
Nam hoàn toàn không có lý do phải có sự điều chỉnh. Bằng vào việc công bố
hai loại tỷ giá : tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân mua vào bán ra thực tế
trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng nh trớc đây để chỉ còn công bố một tỷ
giá gọi là tỷ giá giao dịch bình quân (của đồng Việt Nam so với đôla Mỹ)
trên thị trờng này đã đa đến một sự thay đổi khác hẳn theo cách ổn định,
công bố và điều hành tỷ giá hối đoái lâu nay
Theo cách mới, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ
sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng của ngày
giao dịch gần nhất trớc đó. Căn cứ vào đó các NHTM đợc phép kinh doanh
ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vợt quá 0,1 % so
với tỷ giá này. Qua tỷ giá áp dụng cơ chế này, tỷ giá giao dịch bình quân mà
NHNN công bố xoay quanh mức 13.888 VNĐ / 1 USD còn tỷ giá mua bán
thực tế của các NHTM nằm trong khoảng 13902 VNĐ / 1 USD (nghĩa là chỉ
tăng khoảng 0,1-0,3 % so với trớc đây). Riêng tỷ giá của thị trờng tự do sau
khi có đột biến tăng nhẹ (khoảng 0,3 %) do yếu tố tâm lý vào những ngày
đầu, nay đã trở về mức cũ. Chênh lệch giữa thị trờng tự do và thị trờng ngoại
tệ liên ngân hàng không đáng kể (khoảng 0,1 %)
Quyết định số 65 còn quy định các NHTM đợc phép tăng tối đa 0,58 %
của tỷ giá giao dịch trần để xác định tỷ giá kỳ hạn 1 tháng, nhng nay theo
quy định số 289 / 2000 / QĐ - NHNN ngày 30/08/2000, các ngân hàng chỉ

đợc phép tăng tối đa 0,2 %. Nh vậy các NH không lợi dụng đợc chênh lệch
giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn cho cuộc cạnh tranh mua bán ngoại tệ.
Nhng muốn giải pháp này hiệu quả cần phải có những quy định khác đi kèm.

14
Hiện nay do biến động của thị truơng thế giới ,đặc biệt sau chiến tranh
tại IRAQ khiến cho đồng dolla ngày càng lên giá,1$ đổi đựoc 15430
đồng.Đây là một vấn đề khá quen thuộc sau các cuộc chiến tranh do Mỹ phát
động,vấn đề chúng ta dự kiến đợc để có những sự đIều chỉnh phù hợp mà
thôi.

15
Chơng III
Những giải pháp hoàn thiện chính sách
về tỷ giá hối đoái
I. Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh TGHĐ
trong thời gian qua.
Mặc dù đã luôn đợc cố gắng hoàn thiện, nhng chính sách TGHĐ ở Việt
Nam cần phải đợc thờng xuyên điều chỉnh, phải luôn sửa đổi, bổ xung các giải
pháp. Nếu không tiếp tục sửa đổi thì có thể có một số khó khăn nh sau:
Thứ nhất là tâm lý chờ đón phá giá VNĐ vẫn luôn thờng trực gắn liền
với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN khiến tỷ
giá thực tế của thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng luôn có xu hớng tăng thêm
với mức đợc phép là 0,1 % tạo thành cấp số luỹ thừa liên tục của hệ số 1,001
là khá lớn.
Để tránh xu hớng này, NHNN phải thờng xuyên sử dụng dự trữ ngoại tệ
can thiệp nhằm kiểm soát tỷ giá giao dịch thực tế của thị trờng liên ngân
hàng, NHNN phải trực diện chịu áp lực thị trờng khi cung cầu ngoại tệ căng
thẳng, mà khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng.
Do thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng cha phát triển hoàn hảo, cha phản

ánh đợc toàn bộ cung cầu ngoại tệ của đất nớc nên bản thân liều lợng dự trữ
bỏ ra để can thệp hết sức hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát dao động của
tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hạn hẹp tơng ứng. Theo đó xét cả
về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn có độ cứng
nhắc khá cao.
Do các khó khăn trên, việc công bố tỷ giá bình quân của NHNN sớm
muộn phải quay trở lai mức ổn định chủ quan theo hớng cố định và giảm dần
(không khác với cách tính toán và công bố tỷ giá danh nghĩa). Về bản thân
việc bỏ neo tỷ giá danh nghĩa vào những lúc thị trờng biến động phức tạp thì
chính NHNN sẽ mất quyền chủ động kiểm soát tỷ giá thực tế.
Cầu ngoại tệ theo hình thức giao dịch kì hạn sẽ gia tăng mạnh do tỉ lệ %
cộng thêm vào mức trần tỷ giá giao ngay xét ra là khá cao (nội dung quyết
định 65). Đây cũng là một trong những áp lực đối với tỷ giá.
Việc bỏ hẳn ấn định TGHĐ danh nghĩa sẽ đa đến khó khăn nhất định
trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế nh : cán cân vay trả nợ nớc

16
ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tông cầu tiền tệ của nền kinh
tế, thu chi ngân sách Đặc biệt sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa
trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích đầu t.
Hiện nay có nhiều quan điểm trái ngợc nhau trong điều hành TGHĐ và
quản lý ngoại hối.
+ Có quan điểm cho rằng, phải bằng mọi biện pháp để ổn định tỷ giá,
thậm chí"đông cứng để tạo động lực cho sự ổn định kinh tế, giảm rủi ro cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu t n-
ớc ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị và các công nghệ tiên
tiến phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tránh nguy cơ tụt
hậu. Đồng nội tệ mạnh chính là một điều kiện cho một nền kinh tế vững
mạnh, tăng trởng năng động.
+ Có quan điểm lại phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên, cho rằng trong

điều kiện đồng USD đang lên giá so với các đồng khác, nếu chúng ta giữ cố
định VNĐ thì sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nớc sẽ có giá
cao tơng đối so với các nớc trong khu vực, kéo theo một môi trờng đầu t kém
hấp dẫn. Do vậy, nhất thiết phải phá giá VNĐ ở mức cao hơn các nớc khu
vực đã làm.
II. Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối
đoái.

Nền kinh tế của nớc ta trong giai đoạn hiện nay vẫn là nền kinh tế trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chính vì vậy chúng ta càng cần phải
phát triển kinh tế ổn định, vững chắc với một cơ chế tỷ giá linh hoạt, không
cứng nhắc để có thể chống đối đợc các tác động tiêu cực từ phía thi trờng do
ảnh hởng cơ chế tỷ giá. Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam tơng đối ổn định,
bội chi ngân sách có thể kiểm soát đợc, nhng nợ nớc ngoài cũng khá cao : nợ
các quốc gia khác, nợ các tổ chức quốc tế nh IMF, WB tổng số nợ là khoảng
hơn 20 tỉ đôla. Nếu tỷ giá thay đổi, cụ thể là nếu đồng đôla tăng giá thì gánh
nặng về nợ ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhng xuất khẩu tăng. Ngợc lại
nếu đồng nội tệ tăng giá thì có thể sẽ ảnh hởng đến xuất khẩu, làm giảm sức
cạnh tranh trên thi trờng quốc tế, nh vậy phải tìm đợc một cơ chế tỷ giá phù
hợp để có thể dung hoà đợc các mâu thuẫn trên. Để quản lý ngoại hối và tỷ
giá hối đoái chỉnh phủ có thể thi hành, áp dụng nhiều biện pháp khác nhau,
tuy nhiên trong khuôn khổ đề án này, em có thể đa ra một số đề nghị về việc
quản lý đó nh sau:

17
Ngân hàng trung ơng phải có một lợng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn : Đây là
giải pháp mà trớc đây chúng ta cũng đã quan tâm nhng do trong thời gian tr-
ớc đây tỷ giá do ngân hàng nhà nớc công bố, còn mang nặng tính chất hành
chính cho nên nó tác động đến cung cầu nhiều hơn tác động của cung cầu
đối với nó. Trong thời kì này cung cầu có thể thay đổi song tỷ giá vẫn có thể

giữ nguyên nh cũ (nếu ngân hàng trung ơng tháy nh vậy là cần thiết). Vì thế
có những lúc lợng dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng nhng tỷ giá danh nghĩa vẫn
không hề thay đổi.
Trong cơ chế tỷ giá mới thì mọi vấn đề lại không phải là nh vậy, khi
cung cầu ngoại tệ thay đổi thì tỷ giá trên thị trờng sẽ thay đổi theo, nếu ngân
hàng trung ơng muốn giữ tỷ giá ổn định thì cần phải cố định tỷ giá, nhng vấn
đề cố định tỷ giá có rất nhiều ảnh hởng đến nền kinh tế và trong hoàn cảnh
bây giờ cũng không thể làm nh vạy, vì thế cần phải có những biện pháp bảo
đảm cho khả năng có thể cứu đợc tỷ giá của ngân hàng trung ơng khi có biến
động trên thị trờng. Để giải quyết vấn đề này NHNN có thể sử dụng các biện
pháp hành chính tác động đến việc mua bán ngoại tệ trên thị trờng, chính
phủ nên cấm việc mua bán ngoại tệ tự do, buộc các nhà xuất khẩu phải bán
hết ngoại tệ thu đợc cho nhà nớc (trừ những khoản dành cho chi tiêu hợp lý)
và khi có nhu cầu nhập khẩu thì có thể mua lại. Những quản lý hành chính
này thờng có hiệu lực tức thời nhng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng
vì sự khó khăn trong mua bán ngoại tệ có thể dẫn đến sự kém lu động của
nền kinh tế và có thể đẩy nền kinh tế vào tình trạng tồi tệ vì nó làm cho các
nhà đầu t nớc ngoài cảm thấy rủi ro cao trong đồng vốn bỏ ra, môi trờng đầu
t trong nớc kém hấp dẫn, vì thế đây chỉ là biện pháp tức thời. NHNN cũng có
thể sử dụng cách thứ hai là mua bán ngoại tệ trên thị trờng mở một cách liên
tục để làm cho cầu không tăng lên một cách đột ngột ảnh hởng đến tỷ giá.
Cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất: Giữa lãi suất và
tỷ giá luôn có mối quan hệ rất mật thiết với nhau và quan trọng hơn là sự
chênh lệch về lãi suất giữa việc gửi bằng ngoại tệ và gửi bằng ngoại tệ. Nếu
lãi suất tiền gửi ngoại tệ cao hơn gửi bằng nội tệ thì cầu ngoại tệ sẽ tăng và
kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ và ngợc lại.
Phải có sự quản lý đối với hàng hoá trong nớc: Điều tiết giá cả của hàng
hoá trong nớc, khuyến khích ngời Việt Nam dùng hàng Việt Nam, quản lý
chặt chẽ nguồn hàng sản xuất trong nớc cho phù hợp với yêu cầu của nguời
tiêu dùng, giúp đỡ quảng cáo và khuyến khích các dịch vụ sau bán và sẽ làm

cho đồng Việt Nam tăng giá khi hàng trong nớc vẫn bán đợc. Mặt khác nhà

18
nớc có thể giúp đỡ bằng cách tích cực tiếp cận và đổi mới công nghệ, kỹ
thuật phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc.
Điều chỉnh chính sách thuế quan và phi thuế quan một cách hợp lý
nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc, tiến tới thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào
thuế quan. Chính sách bảo hộ nhập khẩu bằng cách tăng các mức thuế nhập
khẩu, hoặc dùng hạn ngạch, dán tem để có thể quản lý đợc nhập khẩu với các
mặt hàng xa xỉ hoặc các mặt hàng mà chúng ta đã sản xuất đợc, việc này sẽ
làm tăng mức giá cả của hàng nhập khẩu tơng đối so với hàng nội địa.
Khống chế mức lạm phát trong nớc: Lạm phát là nhân tố ảnh hởng cùng
chiều đến tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ. Lạm phát cao làm gia
tăng lãi suất tơng đối của tiền gửi bằng nội tệ so với đồng ngoại tệ kéo theo
sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là lạm phát có tác động ngợc chiều với giá
trị của đồng bản tệ. Ngoài những ảnh hởng trực tiếp thì lạm phát còn có ảnh
hởng gián tiếp đến thị trờng ngoại hối. Do vậy muốn quản lý đợc thị trờng
ngoại hối và điều tiết tỷ giá hối đoái theo một mục tiêu nhất định thì Chính
phủ cần khống chế đợc tỉ lệ lạm phát một cách hợp lý. Nếu không khống chế
đợc lạm phát một cách hợp lý thì diễn biến trên thị trờng ngoại hối và tỷ giá
hối đoái là khó có thể kiểm soát đợc dẫn đến những biến động ngoài mong
muốn.
Cơ chế quản lý ngoại hối cần đợc hoàn chỉnh hơn: Chính phủ cần phải
tăng cờng vai trò của mình trên thị trờng ngoại hối để có thể có những xử lý
kịp thời khi có những biến động trên thị trờng, bằng việc dự trữ ngoại hối
chính phủ có thể điều tiết tỷ giá trên thị trờng, quan tâm đến quản lý thị tr-
ờng, đến những việc mua bán ngoại tệ bất hợp pháp, ất cả các nhu cầu hợp lý
về ngoại tệ cần phải đợc đáp ứng đầy đủ.
Tóm lại, mỗi giai đoạn khác nhau, Chính phủ có thể đa ra những chính
sách hợp lý khác nhau và các quy điịnh khác nhau về quản lý ngoại hối. Tuy

nhiên, trong giai đoạn nào cũng có những yếu tố cơ bản xuyên suốt, cần phải
nắm bắt đợc những yếu tố đó để đa ra đợc những quyết định phù hợp nhất.
Trên cơ sở đó nhà nớc có thể kiểm soát đợc các luồng di chuyển ngoại tệ, thu
hút ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ, ổn định tỷ giá, thực hiên chính sách tiền
tệ quốc gia.

19
Phần III: Kết Luận
Từ thực trạng và giảI pháp trên cho ta thấy việc xác định một tỷ giá
phù hợp là yếu tố rất quan trọng cho phát triển nền kinh tế của một đất n-
ớc.VIệt Nam đã có những thành công bớc đầu trong việc xác định tỷ giá hợp
lý ,nhng việc thực hiện các đòng lối nhièu lúc không đạt hiệu quả.Xác lập
một tỷ giá thoả đáng sẽ kích thích xuất nhập khẩu từ đó làm cho nền kinh tế
càng phát triển hơnlà một vấn đề đặt ra cho các nhà chính sách và sự nỗ lực
của các thành viên trên thị trờng.
Việc hiểu biết và nắm bắt những đIều cần thiết về tỷ giá sẽ giúp cho
sinh viên nói riêng và những ngời quan tâm có những cáI nhìn tổng quát hơn
về nền kinh tế ,để từ đó có đIều chỉnh phù hợp trong công việc của mình
trong thời gian tới và tiến xa hơn là có những biện pháp cho chính phù nhằm
nâng cao giá trị của đồng nội tệ.
Với việc thực hiện đề tàI này mong muốn đầu tiên là tự nâng cao khả
năng hiểu biết của mình ,tiếp theo là chia sẻ với những ngời quan tâm. Em
mong trong thời gian không xa nền kinh tế nớc ta sẽ có những chuyển biến
tích cực để từ đó đảm bảo và nâng cao giá trị đòng nội tệ khiến nứoc ta càng
phát triển vững mạnh hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế học DAVID BEGG
2. Tạp chí tài chính, tạp chí ngân hàng
3. GS-TS Vũ Đình Bách (chủ biên) 2001Giáo trình kinh tế vĩ mô
ĐHKTQD nhà xuất bản thống kê 2001


20
4. Frederic s.MIShKIN 2001, Tiền tệ ngân hàng và thị trờng tài
chính nhà xuất bản khoa học kỹ thuật
5. TS. Nguyễn Đăng Dờn và ThS. Huỳnh Kim Phụng 2000 Diễn biến tỷ giá
USD/VNĐ thời gian qua và triển vọng trong thời gian tới. Tạp chí ngân
hàng số 12 năm 2000 trang 7-8

21

×