Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

giáo dục trong sự di động của xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.4 KB, 31 trang )

TIỂU
LUẬN
GIÁO DỤC TRONG SỰ DI ĐỘNG CỦA XÃ
HỘI
Ba
ø
i

ta
ä
p:
* * * * * * *
X
A
Õ

H
O
Ä
I

H
O
Ï
C
* * * * * * *
GVHD: PGS.TS
L
E
Â



N
* * * * * *
*
trang 1
Ho
ï
c

v
i
e
â
n

t
h
ö
ï
c

hi
e
ä
n
:
TR
A
À
N


TH
Ò

H
A
Ï
NH

TH
A
Û
O
MỤC
LỤC
A MỞ ĐẦU
2
B NỘI DUNG
2
I TÍNH DI ĐỘNG CỦA XÃ HỘI
2
II VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG SỰ DI ĐỘNG CỦA

HỘI
7
III XÃ HỘI HỌC TẬP- VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỜI ĐẠI
11
CTHỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC
19
GIÁO DỤC Ở VIỆT

NAM
D KẾT LUẬN
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
A. MỞ ĐẦU:
Nhà xã hội học nổi tiếng người pháp Pierre Bourdieu quan niệm rằng trong cuộc
chơi của chúng ta trong xã hội, chúng ta đã thừa hưởng và mang theo bên mình
ba loại vốn ( Capitaux) – trong nghĩa đen cũng như trong nghĩa bóng:
• Vốn liếng kinh tế ( vd: Gia sản, lợi tức . . .)
• Vốn liếng xã hội ( mạng lưới những quan hệ xã hội )
• Vốn liếng văn bằng ( bằng cấp, trình độ học vấn ).
Chính những khác biệt về vốn đã đặt mỗi cá nhân vào những vị trí khác nhau
trong các tầng lớp xã hội khác nhau.
B. NỘI DUNG:
I. TÍNH DI ĐỘNG XÃ
HỘI.
1. Khái niệm phân tầng
xã hội.
1.1 Bất bình đẳng xã hội và sự phân tầng xã hội ( Stratification
sociale):
Con người trong xã hội mang nhiều đặc điểm khác nhau về giới tính, tuổi tác,
chủng tộc, tôn giáo, tài sản, uy tín xã hội, quyền hành … Chúng ta gọi những
khác biệt này là bất bình đẳng xã hội. Ở đây khái niệm bất bình dẳng chưa mang
một sự phê phán giá trị tốt hay xấu.
Các nhà xã hội học cố gắng khám phá nguồn gốc những bất bình đẳng trong cơ
cấu và trong văn hóa của chính các xã hội này. Họ cũng cho rằng có những khác
biệt bẩm sinh giữa những cá nhân và sự phát triển của từng cá nhân cũng đào
sâu những khác biệt này, nhưng mặt khác họ quan niệm nền văn hóa và cơ cấu
xã hội có thể cũng cố và duy trì những khác biệt, những bất bình đẳng cá

nhân đó.
Mỗi xã hội có những phương cách khác nhau trong việc sở hữu các tư liệu sản
xuất và các tư liệu này chi phối quá trình tái sản xuất, và đào tạo các thế hệ kế
tiếp. Những bất bình đẳng chỉ trở thành phân tầng xã hội khi các cá nhân được
sắp xếp theo các vị trí cao thấp theo những thuộc tính của mình như lợi tức, của
cải, quyền hành, uy tín, tuồi tác, tôn giáo, dân tộc …
Như vậy :Khái niệm phân tầng xã hội ( Social Stratification) ám chỉ những
phương thức mà xã hội sắp xếp các thành viên của mình trên cơ sở sự giàu
có, quyền lực hay uy tín xã hội.
• Hệ thống phân tầng xã hội thường được biện minh bởi hệ ý thức, như hệ
ý thức Mac xít, hệ ý thức tư bản, hệ ý thức Balamôn …
Thí dụ: - Tư tưởng nho giáo trước đây cũng nhấn mạnh việc mọi người phải
chấp nhận và làm tròn vai trò của mình ( quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.
Hay tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử).
- Triết lý bà la môn cũng chỉ là một triết thuyết biện minh cho hệ thống
đẳng cấp ở An Độ. Tôn giáo như vậy cũng thường hợp thức hóa các hệ
thống phân tầng xã hội.
Các định chế xã hội, như định chế giáo dục, chuẩn bị cho con người chấp
nhận các vị trí của mình trong xã hội. Nhưng tại sao con người, kể cả những
người ở tận đáy xã hội, lại phải chấp nhận vị trí của mình trong xã hội? Bởi vì
họ không còn chọn lựa nào khác, họ không có cơ hội, phương tiện kinh tế cũng
như chính trị để thay đổi cuộc sống của mình. Họ cũng có thể nổi loạn để chống
lại sự bất công. Nhưng một trong các lý do khiến họ chấp nhận vị trí của mình
chính là sự phân tầng xã hội cũng là một bộ phận hữu cơ trong nền văn hóa
của họ và nền văn hóa này đã ăn sâu trong nếp nghĩ của họ.
Nói cách khác con người chấp nhận vị trí của mình trong một phân tầng xã hội
chính bởi vì hệ thống đó được củng cố bởi những giá trị tiềm tàng trong nền văn
hóa của họ. Những khía cạnh của văn hóa biện minh cho hệ thống phân tầng
xã hội đã được học hỏi trong quá trình xã hội hóa. Trong một ý nghĩa nào đó,
xã hội phong kiến, qua những câu tục ngữ như: “ Đói cho sạch, rách cho

thơm”, “ con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”, … chỉ dạy cho
con người chấp nhận sự phân tầng xã hội đang tồn tại.
• Những thay đổi trong những hệ thống phân tầng xã hội có thể xảy ra với sự
sắp xếp lại về mặt quyền lực xã hội cũng như do những thay đổi về văn hóa,
kinh tế và quyền lực. Quyền lực trong ý nghĩa như vậy bao gồm cả quyền
lực chính đáng và không chính đáng. Quyền lực chính đáng còn gọi là uy
quyền ( authority) – là quyền lực được mọi người thừa nhận và đây là yếu
tố chủ yếu trong việc duy trì tương quan hiện hữu trong các đẳng cấp, trong
các giai cấp. Khi thiếu quyền lực chính đáng để duy trì trật tự xã hội người
ta phải sử dụng nhiều vũ lực. Quy luật này không chỉ ứng dụng các xã hội vi
mô mà cả cho các nhóm nhỏ, các tổ chức xã hội nói chung.
Như vậy, để hiểu tại sao các tầng lớp nhân dân chấp nhận vị trí của họ trong xã
hội, không chỉ nghiên cứu vai trò của văn hóa, của hệ ý thức mà còn phải tìm
hiểu quyền lực và uy quyền được sử dụng để duy trì các mối quan hệ đang tồn
tại giữa các giai cấp.
1.2 Sự di động xã hội ( Social
mobility):
• Xã hội trong đó ranh giới giữa các tầng lớp xác định rõ rệt, và các thành viên
thuộc tầng lớp xã hội này không thể chuyển qua một tầng lớp xã hội khác
một cách dễ dàng, được gọi là những xã hội đóng kín ( Closed societies).
Đặc điểm của các xã hội có phân tầng đóng kín đặt cơ sở trên những
đẳng cấp ( castes), là những tầng lớp trong đó con người được sinh ra và gắn
liền suốt đời. Thành viên của một đẳng cấp khi sinh ra thì gắn liền với vị trí
xã hội đã được chỉ định.
Các thành viên của một đẳng cấp không thể có hy vọng rời bỏ đẳng cấp của
mình. Hệ thống đẳng cấp thường dựa trên nền tảng hệ ý thức, tôn giáo, tín
ngưỡng.
Thí dụ: Kinh Rig Veda dạy rằng, xã hội Hindu, do ý muốn của thần thánh, được
chia làm bốn đẳng cấp chính:
- Bramin ( tu

sĩ)
- Kshatriya ( Chiến
sĩ)
- Vaisay ( nông dân và thương
nhân)
- Sudra ( đầy tớ và thợ thủ
công)
- Ngoài ra còn có những người hoàn toàn bị gạt ra ngoài xã hội, “ những
người không được đụng đến”.
Phương cách mà con người tập hợp lại tùy theo mức độ họ có thể sử dụng được
các tài nguyên hiếm hoi xác định những cơ hội sinh tồn ( life chances) của họ,
nghĩa là những cơ hội có thể có được hay sẽ bị từ chối suốt cuộc đời do vị trí xã
hội của họ.
• Ngược lại, những xã hội mở rộng ( open societies), là những xã hội trong đó
con người có thể dễ dàng vượt qua giữa những tầng lớp. Đặc điểm phân
tầng của các xã hội mở rộng là giai cấp. Giai cấp là những tầng lớp xã hội
chủ yếu dựa trên những tiêu chuẩn kinh tế, như vị trí trong hệ thống sản
xuất, nghề nghiệp, lợi tức, tài sản… Giai cấp của các xã hội không đồng
nhất, trong bất kỳ một giai cấp nào đều có các nhóm khác nhau tùy theo mức
độ uy tín mà họ nhận được từ xã hội nói chung. Những nhóm như vậy thường
được gọi là nhóm địa vị ( status group). Như trong xã hội người Mỹ,
những người giàu da trắng, theo đạo Tin Lành, gốc Anglo – saxon được
trọng vọng nhất trong tầng lớp những người giàu ở Mỹ.
Việc di chuyển cá nhân từ tầng lớp xã hội này sang tầng lớp xã hội khác
được gọi là di động xã hội
Sự di động này có thể là sự di động đi lên ( upwardly mobile). Như trong trường
hợp khi một gia đình giàu lên và bắt đầu sở hữu các phương tiện sản xuất và
sinh họat của tầng lớp trên. Và ngược lại là di động đi xuống (downwardly
mobile).
Mỗi tầng lớp xã hội đều có lối sống riêng ( life – styles), có những ngành nghề

riêng , hưởng những nền giáo dục với chất lượng khác nhau, sử dụng thời gian
nhàn rỗi khác nhau.
1.3 Tư liệu sản xuất, sự phân tầng xã hội và di động xã hội trong xã
hội hiện
đại:
Những lực lượng chủ yếu dẫn dến sự phân tầng trong xã hội được tạo nên bởi
việc sở hữu những tư liệu sản xuất trong một xã hội nhất định. Ví dụ như đối
những người nông dân bình thường , chiếm đại bộ phận dân cư trên thế giới,
phân tầng xã hội dựa trên sở hữu đất đai và lao động nông nghiệp. Với những
người thuộc các tầng lớp thấp nhất, các bần nông, cố nông chẳng hạn, do không
sở hữu hay chỉ sở hữu ít ruộng đất họ phải làm công việc nặng nhọc, phải đem
sức lao động của mình ra bán, trong khi những người thuộc tầng lớp trên, như
các điền chủ, có nhiều ruộng đất – nên có thể sống một đời sống tương đối tiện
nghi. Trong xã hội công nghiệp hiện đại, tương quan của cá nhân đối với các tư
liệu sản xuất vẫn là yếu tố cơ bản trong việc xác định vị trí của một cá nhân
trong hệ thống phân tầng xã hội.
Xã hội công nghiệp hiện đại đựợc đánh dấu bởi di động cơ cấu ( Structural
mobility), là việc loại bỏ cả những giai cấp, hay giảm bớt số lượng thành viên
trong một giai cấp do sự phát triển của kỹ thuật trong sản xuất, do sự thay đổi
các tư liệu sản xuất.
- Trong cuộc cách mạng công nghiệp đã giảm giai cấp nông dân ở Mỹ từ tỷ
lệ 90% vào đầu thế kỷ xuống chỉ còn 2,9% dân số hoạt động ( 1991). So với
Anh: 2.2%; Đức: 3.3%; Pháp:6%; Nhật: 6,7%; Trung Quốc: 59,5%, Việt
Nam: 72,2%
.
+ Di động cơ cấu là sự chuyển dịch cơ cấu các lĩnh vực hoạt động kinh tế như
xu hướng giảm lao động trong lĩnh vực đệ nhất đẳng và đệ nhị đẳng và xu
hướng gia tăng lao động trong lĩnh vực dịch vụ trong các xã hội công nghiệp
hiện nay.
+ Đặc điểm thứ hai của xã hội công nghiệp hiện đại là tính di động không

gian ( Spatical mobility) là việc di chuyển các cá nhân và các tập thể từ địa
phương này đến địa phương khác, đặc biệt là đến các thành thị. Hiện tượng này
do việc giảm vai trò của nông thôn và sự gia tăng tầm quan trọng của các
định chế tập trung ở thành thị, như các thị trường, các công ty các cơ quan
nhà nước. Nơi cư trú và nơi làm việc dần tách rời nhau, làm cho tình cảm của
cá nhân đối với cộng đồng địa phương cũng giảm đi.
Khi nghiên cứu sự di động xã hội ta phải phân biệt rõ di động cơ cấu và di động
xã hội thực ( mobilité nette). Như vậy: Di động cơ cấu là do tác động của tiến
bộ kỹ thuật lên cấu trúc nghề nghiệp xã hội, trong khi di động xã hội thực là
chuyển đổi nghề nghiệp thực sự do sự lựa chọn cá nhân.
Ta cũng phân biệt di động xã hội trong từng thế hệ, di động xã hội liên thế hệ.
Di động nội thế hệ đó là các cơ hội mà một cá nhân có thể đi lên hay rơi xuống
một tầng lớp xã hội khác trong quảng đời của mình. Còn di động liên thế hệ
thường được đo lường bằng cách so sánh địa vị trong giai cấp xã hội của hai thế
hệ cha và con ( cũng có khi cả ba thế hệ: Ông nội, cha, con).
Nước Di động xã hội đi lên Di động xã hội đi xuống
CHLB Đức (cũ) 29% 32%
Thụy Điển 31% 24%
Mỹ 33% 26%
Nhật 36% 22%
Pháp 39% 20%
Thụy Sĩ 45% 13%
Di động liên thế hệ tại 6 nước công nghiệp
( nguồn: S. M. Lipet, R. Bendix, Social mobility in industrial society,
Berkeley, Uni of California Press, 1967).
Phạm trù xã hội
nghềnghiệp của người cha
Phạm trù xã hội, nghề nghiệp của người con
g.c
thống trị

g.c
trung lưu
g.c
bình dân
Tổng
cộng
- g.c thống trị
- g.c trung lưu
- g.c bình dân
60,7%
25,0%
7,2%
32,2%
52,2%
5,8%
7,1%
22,8%
7,0%
100%
100%
100%
Nguồn: Alternatives economique, 6 – 1988.
Theo bảng trên, vào năm 1985, đối với 100 người con có cha thuộc “ giai cấp
thống trị”, thì 60 người cũng có nghề nghiệp thuộc giai cấp này, 25 rớt xuống
giai cấp trung lưu và 7,2 xuống giai cấp bình dân…. Nhìn chung cả ba giai cấp,
thế hệ con vẫn tiếp tục nghề nghiệp của thế hệ cha. Nhưng mặt khác, ở các giai
cấp trung gian, di động diễn ra nhiều hơn so với giai cấp khác.
Những cuộc nghiên cứu tính di động xã hội của ba thế hệ liên tiếp cho thấy tác
động của yếu tố “dòng họ”, đặc biệt là địa vị xã hội của người ông.
Ví dụ: Những đứa con có cha là cán bộ, ông nội làcông nhân thì cơ hội ở lại

giai cấp cán bộ của cha biến thiên từ 59,4% xuống 35,0% và nguy cơ rớt xuống
giai cấp thợ thuyền từ 2,7% lên 11%.
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG SỰ DI ĐỘNG CỦA XÃ HỘI.
Giáo dục được định nghĩa là những cách khác nhau trong đó kiến thức – kề cả
thông tin và kỹ năng thực tế cũng như quy phạm và giá trị văn hóa được truyền
đạt đến từng thành viên trong xã hội. Một quá trình giáo dục mở rộng là giáo
dục học đường – sự dạy bảo chính thức dưới sự hướng dẫn của thầy cô được
đào tạo chuyên môn.
Trong suốt chiều dài lịch sử, xã hội loài người dựa việc săn bắn và hái lượm thô
sơ. Trong những xã hội như thế gia đình là thể chế xã hội trung tâm, cũng như
không có hệ thống giáo dục ở trường chính quy. Kiến thức và kỹ năng cần thiết
trong đời sống khi trưởng thành do thành viên gia đình dạy cho trẻ.
Trong xã hội nông nghiệp có công nghệ tiên tiến hơn – vốn phổ biến trong
nhiều bộ phận trên thế giới ngày nay – người tham gia vào một dải rộng gồm
các ngành nghề chuyên môn hóa. Trong mỗi trường hợp, những người hành
nghề có kinh nghiệm truyền đạt kỹ năng cho người mới vào nghề. Nhưng giáo
dục ở trường không liên kết trực tiếp với thế giới công việc thường dành cho
người giàu: từ trường học trong tiếng Anh thực ra lấy từ tiếng Hy Lạp có nghĩa
là “tiêu khiển”. Ở Hy lạp cổ đại, những thầy giáo nổi tiếng như: Socractes,
Plato, Aristotle dạy triết học và khoa học cho nam giới quý tộc. Triết gia Trung
Quốc nổi tiếng khổng tử cũng là thầy dạy cho một vài người có đặt quyền
Trong thời trung cổ, nhà thờ cung cấp nền giáo dục ở trường cho một bộ phận
dân số đông hơn, và hình thành trong những trường cao đẳng và đại học đầu
tiên. Nhưng giáo dục ở trường phần lớn còn là đặc quyền của phấn tử ưu tú
đang cầm quyền ở Tây Âu và Bắc Mỹ cho đến khi cách mạng công nghiệp.
Nước Mỹ là quốc gia đầu tiên áp dụng nguyên tắc giáo dục phổ cập. Có lẽ quan
trọng hơn, kinh tế nước Mỹ công nghiệp hóa cần đến lực lượng lao động có ít
nhất những kỹ năng biết đọc, biết viết cơ bản, và biết làm một ít số học. Sự phát
triển bộ máy quan liêu tiếp theo sau ở Mỹ và các xã hội công nghiệp khác báo
hiệu sự ra đời của một nền kinh tế đựa trên công việc giấy tờ cũng như máy

móc, sao cho giáo dục ở trường trỏ thành quan trọng hơn cả.
Năm 1850, hầu như một nửa số người Mỹ từ 5 đến 19 tuổi đều đăng ký nhập
học, vào những đầu thập niên 20, mỗi tiểu bang đều có luật giáo dục cưỡng
bách – Theo luật định yêu cầu mỗi trẻ em cần nhận được giáo dục chính quy ở
mức tối thiểu. Ngày nay, hơn 70% số người lớn ở Mỹ có ít nhất trình độ trung
học. Khoảng 1/5 học xong bốn năm đại học. Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ người Mỹ
ngày nay được chính thức phân loại là mù chữ.
Trong các xã hội công nghiệp khác, kể cả Anh, Liên xô, và Nhật Bản, tình
hình cũng tương tự. Thế nhưng, trong hầu hết các xã hội nông nghiệp trên toàn
thế giới, hầu hết mọi người đều không thể biết đọc hay biết viết. Đây là các xã
hội phi công nghiệp thường quá mức nghèo khổ: Thu nhập bình quân chỉ bằng
5% hay 6% thu nhập trung bình của Mỹ. Đối mặt với vấn đề sống còn cơ bản đi
đôi với sự nghèo đói phổ biến, những xã hội này không có tài nguyên để dễ
dàng mở rộng cơ hội giáo dục ra ngoài một tỷ lệ nhỏ thành phần ưu tú. Vả lại,
Giáo dục ở trường đang thực sự tồn tại thường có chất lương kém, vì thế trẻ em
không học được nhiều cũng như không nhanh như trẻ em trong các xã hội giàu
hơn.
Nhưng vẫn có những thành công đáng chú ý ở những xã hội nghèo. Trước cuộc
cách mạng năm 1960 đưa Castro lên nắm quyền, giáo dục trường học ở Cuba
chỉ dành cho số ít thành phần ưu tú. Từ thời điểm ấy, Cuba quyết tâm phổ cập
giáo dục chính quy đến toàn dân và hiện nay hầu như đã xóa nạn mù chữ.
Tương tự, tỷ lệ mù chữ ở Nicaragua – một quốc gia giống như Cuba, đi theo
đường lối xã hội chủ nghĩa – đang tiến nhanh gần tỷ lệ ở các xã hội công nghiệp
giàu hơn. Những trường hợp như thế cho thấy ngay cả trong những xã hội giàu
hơn, trình độ học vấn có thể đạt được nếu chính phủ xem giáo dục là ưu tiên
hàng đầu trong xã hội.
Xã hội công nghiệp cung cấp giáo dục ở trường cho toàn bộ dân số nhưng theo
cách không giống nhau.
Giáo dục học đường ở Anh: Trong thời kỳ trung cổ, giáo dục ở trường phần
lớn chỉ dành riêng cho giới quý tộc, vì thế họ ít có nhu cầu kỹ năng thực tế liên

quan đến sinh kế, do trường chỉ gồm những người có nền tảng đặc quyền như
nhau. Khi cuộc cách mạng cần một lực lượng lao động có văn hóa, thì giáo dục
ở trường càng thu nhận nhiều học sinh hơn. Tương tư sự phân biệt xã hội truyền
thống tiếp tục định hình giáo dục ở Anh. Nhiều gia đình có gửi con em của
mình đến các trường công – những trường công này đều nằm ngoài khả năng tài
chính của hầu hết các gia đình Anh, nó chỉ dành chophần tử ưu tú có chức năng
quan trọng, xã hội hóa con em thuộc gia đình thuộc gia đình giàu có theo cách
khá biệt. Các học sinh được học mẫu lời ăn tiếng nói, thái độ hành xử, và chủng
tộc xã hội phân biệt thành viên thuộc giai cấp thượng lưu với số học sinh khác.
Cuối năm 1950, học vấn đại học bị hạn chế ở một số phần tử ở Anh. Nhưng
trong thập niên 60, 70, người Anh phát triển rộng hệ thống đại học trong nước.
Thế nhưng, ngay trình độ đại học, nền tảng xã hội tỏ ra quan trọng: Số lượng
học sinh khá giả ghi danh ở Oxford và Cambridge, vốn là những trường đại học
có uy tính nhất nước Anh, không có gì phải ngạc nhiên, sinh viên tốt nghiệp
Oxford và Cambridge rất có thể đảm đương vị trí đầy thế lực trong kinh
doanh và chính phủ, thực tế 17 trong số 21 thành viên của nội các ban đầu do
thủ tướng Margaret Thatcher thành lập đều là sinh viên tốt nghiệp trường
Oxford và Cambridge.
Giáo dục học đường ở Nhật: Giáo dục nhà trường ở Nhật phản ánh giá trị
văn hóa vững chắc của tình đoàn kết tập thể. Ở cấp lớp thấp, học sinh được
đối xử như một tập thể trong đó sự ganh đua bị ngăn cản. Giáo dục ở trường
cũng nhấn mạnh sự kính trong người già và những người khác có chức quyền.
Ở Nhật, điểm số trắc nghiệm thường tạo ra hay bẻ gãy khác vọng vào đại học
của thanh niên, giàu cũng như nghèo. Vì thế các học sinh đối mặt với các kỳ thi
này với sự tập trung rất cao độ, bố mẹ thường bỏ tiền ra cho con học tư để bổ
sung thêm chương trình học. Bất chấp sự chỉ trích vì áp lực không thể chịu nổi
áp đặt cho thanh niên, hệ thống giáo dục Nhật tạo ra kết quả ấn tượng, trong
nhiều lĩnh vực học thuật – hầu hết nổi tiếng ở môn toán và khoa học – sinh viên
Nhật đều hơn hẳn sinh viên trong tất cả các xã hội công nghiệp khác. Rõ ràng,
truyền thống văn hóa Nhật, liên kết với hệ thống thi cử đòi hỏi trình độ cao mới

vào được đại học thúc đẩy sinh viên phải học.
Giáo dục học đường ở Nga: Trước cách mạng xã hội chũ nghĩa năm 1917, Nga
là một nước nông nghiệp trong đó giáo dục học đường chỉ hạn chế ở một số ít
thành phần ưu tú. Năm 1930, Liên Xô thông qua luật giáo dục cưỡng bách. Bất
ổn chính trị, phí tổn và chia rẽ xã hội cũa thế chiến thứ hai làm chậm chương
trình giáo dục. Tuy nhiên cuối 1940, một nửa thanh niên Liên Xô đến trường.
Người xô viết khắc phục vấn đề hình thành hệ thống giáo dục quốc gia trong
một đất nước văn hóa đa dạng về mặt địa lý rộng hơn bất kỳ quốc gia khác trên
thế giới. Năm 1975, người xô viết khẳng địnhrằng hầu như tất cả đều đi học.
Như trong tất cả xã hội khác, giáo dục học đường Liên Xô phản ánh nhu cầu xã
hội và giá trị văn hóa quan trọng. Giáo dục học đường phổ thông được người
Liên Xô xem là thành phần quan trọng để trở thành cường quốc công nghiệp.
Hệ thống giáo dục được chuẩn hóa cao, theo sự chỉ đạo của chính phủ trung
ương. Hơn nữa theo chính sách theo chính sách chính thức của Liên Xô, trẻ em
nam, nữ đều có cơ hội nhận được giáo dục bình đẳng. Người Liên Xô cũng xem
giáo dục học đường là phương tiện giảng dạy những gì họ cho là quy phạm và
giá trị đích thực của đời sống xã hội chủ nghĩa. Ở Liên Xô cũng áp dụng thi
tuyển để nhận những học sinh có năng lực học tập cao nhất vào đại học.
Khảo sát vắn tắt hệ thống giáo dục trong ba xã hội khác nhau, chúng ta rút ra
được kết luận quan trọng: Giáo dục học đường được một xã hội lớn hơn
định hình. Xã hội thường thông qua luật giáo dục cưỡng bách do kết quả
của công nghiệp hóa. Hơn nữa, hoạt động của hệ thống giáo dục thường phản
ánh các mẫu lịch sử ( như trường hợp nước Anh), mẫu văn hóa ( biểu hiện rõ
trong hệ thống giáo dục Nhật Bản), và đặc điểm của hệ thống chính trị (như
trường hợp Liên Xô).
Giáo dục ở học đường Mỹ: Công nghiệp hóa liên kết với sự mở rộng giáo dục
học đường ở Mỹ, hệ thống giáo dục ở Mỹ cũng định hình bằng những giá trị
văn hóa khác biệt. Nước Mỹ xưa nay đặt sự nhấn mạnh vào văn hóa nhiều hơn
vào sự tham gia chính trị phổ biến, những quan điểm dân chủ như thế khuyến
khích sự mở rộng giáo dục chính quy, nước Mỹ là một trong những nước đầu

tiên ban hành luật giáo dục cưỡng bách và từ lâu có một tỷ lệ số người vào học
các trường cao đẳng và đại học nhiều hơn các xã hội công nghiệp khác. Giáo
dục chính quy ở Mỹ liên kết với giá trị cơ hội bình đẳng văn hóa. Giá trị văn
hóa thực dụng của Mỹ đã định hình giáo dục chính quy ở Mỹ, giáo dục ở
trường có khuynh hướng nhấn mạnh những môn học trực tiếp liên quan đến
sinh họat của con người, nhất là liên quan đến nghề nghiệp của mình . Phản ánh
sự nhấn mạnh thực dụng này trong giáo dục Mỹ, sinh viên thường có khuynh
hướng chọn ngành học sau này có việc làm đáng giá.
trang 12
Ho
ï
c

v
i
e
â
n

t
h
ö
ï
c

hi
e
ä
n
:

TR
A
À
N

TH
Ò

H
A
Ï
NH

TH
A
Û
O
III. XÃ HỘI HỌC TẬP VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỜI ĐẠI
Hệ thống giáo dục của mỗi xã hội liên kết chặt chẽ với hệ thống phân tầng xã
hội. Như chúng ta nhận thấy, phân tích cấu trúc chức năng cho rằng giáo dục ở
trường thúc đẩy chế độ nhân tài bằng cách liên kết sự sắp đặt xã hội với tài năng
và khả năng cá nhân. Phân tích mâu thuẫn xã hội nhấn mạnh mức độ giáo dục ở
nhà trường kéo dài mãi bất công xã hội trên cơ sở giới tính, chủng tộc, dân tộc
và giai cấp xã hội.
Cả hai mức độ và nội dung của giáo dục chính quy khác biệt rất lớn trong số
những nhóm người khác nhau, chẳng hạn trên khắp thế giới, giáo dục ở trường
từ lâu được xem là quan trọng đối với nam hơn là nữ. Ngày nay điều này không
đúng ở Mỹ như trong quá khứ, nhưng nam và nữ vẫn được khuyến khích học
các môn nữ tính và nam tính theo quy ước của xã hội. Trường học cũng củng cố
giá trị của nhóm chủng tộc và văn hóa thống trị, trước sự bất lợi của các nhóm

thiểu số. Ngoài ra người Mỹ khá giả có nhiều cơ hội học vấn hơn người nghèo.
Vấn đề đặt ra khi nền kinh tế công nghiệp đang từng bước thay bằng nền kinh
tế tri thức, khi xã hội công nghiệp tiến sang xã hội hậu công nghiêp, sự phân
hóa xã hội , phân hóa giàu nghèo đang diễn ra theo chiều hướng ngày càng
tăng, trong đó, những khoảng cách về tri thức giữa người này với người kia,
giữa cộng đồng này với cộng đồng khác là điều quan trọng nhất.
1. Vậy giáo dục có vai trò như thế nào trong sự khắc phục bất bình
đẳng của xã hội?
Theo Jacques Delors, chủ tịch ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỹ XIX viết: “
giáo dục phải đối mặt với vấn đề này hơn bao giờ hết, trong triển vọng một xã
hội toàn cầu ra đời một cách khó khăn: giáo dục đứng ở trung tâm của sự
phát triển vừa của con người, vừa của cộng đồng. Giáo dục có sứ mạng giúp
cho mọi người, không trừ một ai, được phát huy tất cả mọi tài năng và mọi
tiềm lực sáng tạo, bao gồm cả tinh thần trách nhiệm đối với đời sống của bản
thân và việc đạt được những mục đích cá nhân”.
• Đó là nền giáo dục thể hiện được tính mềm dẻo, đa dạng và khả thi trong thời
gian khác nhau và địa điểm khác nhau. Giáo dục trở thành một quá trình
liên tục về sự hình thành con người toàn diện, cả tri thức và cả những khả
năng của họ, bao gồm khả năng phán đoán trong tư duy giúp cho con người
hiểu về mình, hiểu về người khác, hiểu môi trường xung quanh để thực hiện
tốt vai trò và nghĩa vụ trong lao động sản xuất và trong đời sống xã hội.
• Đó là một nền giáo dục tạo ra được những cơ hội học tập cho mọi người và
mỗi cộng đồng có nhu cầu nắm bắt thông tin và tri thức, làm chủ các công
nghệ mới có ý nghĩa phát triển với họ. Những cơ hội học tập đó thể
hiện 2 phương thức học tập: Học có hệ thống để làm giàu tri thức một cách
toàn diện và học theo yêu cầu cần gì học nấy.
• Nền giáo dục hiện đại nói trên giữ nguyên tắc hết sức coi trọng giáo dục cơ
sở, tận lực phát triển giáo dục trung học và đại chúng hóa giáo dục đại học.
Ngày nay, giáo dục cơ sở có nhiệm vụ chăm lo việc học cho gần 100 triệu
người lớn mù chữ, cho trên 130 triệu trẻ em chưa được đến trường và 100

triệu trẻ em phải bỏ học giữa chừng.
• Giáo dục cơ sở phải bảo đảm cho tài năng của mọi trẻ em được phát huy,
hạn chế những thất bại học đường và cho chúng thấy được cuộc sống tốt
đẹp phía trước.
• Giáo dục trung học cần khắc phục được những trở ngại trong việc trẻ tốt
nghiệp đi kiếm việc làm và lo âu bởi chúng sẽ rơi vào nguồn nhân lực
không được sử dụng . Hệ thống giáo dục trung học cần bảo đảm cho học
sinh thiếu niên và đầu tuổi thanh niên hướng tiếp tục học lên, không bị định
đoạt số phận ở lứa tuổi này.
• Giáo dục đại học một mặt dắt đưa sinh viên đi vào hệ thống học hỏi liên tục
sau khi ra trường, mặt khác lại mở rộng lối cho người lao động có dịp trở lại
giảng đường.
Có thể nói vắn tắt rằng , cái xã hội mà trong đó diễn ra quá trình giáo dục
thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời: được gọi là xã hội học tập.
UNESCO dùng khái niệm học tập suốt đời với cách hiểu sau: Trong một thế
giới có nhịp độ biến dộng gia tốc và toàn cầu hóa nhanh chóng làm thay đổi mối
quan hệ cá nhân cả về thời gian lẫn không gian thì con người phải học không
ngừng để làm chủ số phận mình. Những thay đổi lớn lao trong lao động đang
diễn ra trên toàn cầu đang sắp xếp lại thời gian của cá nhân. Học suốt đời là một
cách làm cân đối lại thời gian giữa học tập và lao động để con người vừa thích
nghi với công việc, vừa thực hiện được quyền công dân.
Học tập suốt đời nhằm vào 4 mục tiêu sau:
- Hoàn thiện nhân
cách.
- Nâng cao năng lực tham gia cộng
đồng.
- Thực hiện đặc quyền xã
hội.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất hoặc mở rộng triển vọng
được tuyển dụng.

2. Quan niệm chung của thế giới về học tập suốt
đời :
Học tập suốt đời là quan điểm mới về giáo dục, hiểu đó là quá trình học từ lúc
tuổi thơ, qua giáo dục ban đầu rồi tiếp tục học suốt đời. Trong xã hội, các cánh
cửa học tập đang mở rộng, và không bao giờ khép lại với bất cứ ai muốn học.
• Để con người học tập suốt đời, trong xã hội phải có hai hệ thống trường học:
Hệ thống giáo dục nhà trường và hệ thống giáo dục ngoài nhà trường
• Giáo dục người lớn có vị trí rất quan trọng trong xã hội bởi thời gian,
không gian, hình thức tổ chức, cách thức học tập đa dạng và mềm dẻo
hơn nhiều so với thế hệ trẻ. Hiện nay, Thụy Điển và Nhật Bản tỷ lệ dân
tham gia giáo dục người lớn khoảng 50% số dân. Giáo dục người lớn là một
xu thế mạnh mẽ và lâu dài, do đó, nền giáo dục phải định hướng vào xã hội
học tập
Để xây dựng chiến lược học tập suốt đời, nhiều quốc gia thường chú ý đến
những hành động ưu tiên sau:
• Đánh giá việc học tập chính quy và không chính quy, thừa nhận các loại
chứng chỉ, bằng cấp ( tức là đánh giá sức học của con người).
• Tăng cường các dịch vụ thông tin.
• Hướng dẫn và tư vấn học tập.
• Đầu tư tài chính và thời gian học tập ( chú ý đầu tư của tư nhân).
• Gắn người học vào việc học.
• Cải cách giáo dục.
3. Xây dựng xã hội học tập ở một số nước trên thế
giới.
3. 1 Nước Mỹ: Ngày 4/2/1997, Bill Clinton, nói đến hiện đại hóa nền giáo dục
và mục tiêu học tập suốt đời và đề cao việc học để đạt trình độ học vấn cao,
mở rộng biên giới của việc học suốt đời để người Mỹ ở độ tuổi nào cũng có
cơ hội học tập, Clinton chủ trương mở rộng các cửa trường đại học cho tất
cả người Mỹ, yêu cầu khấu trừ thuế lên tới 10.000 USD/ năm cho toàn bộ
học phí ở cao đẳng và đại học đề mọi gia đình không phải đóng thuế đối với

khoản tiền mà họ tiết kiệm để dành đóng học phí cao đẳng và đại học.
Mục tiêu giáo dục mà Clinton đưa ra gồm 4 điểm:
- Mọi trẻ em 8 tuổi phải biết
đọc.
- Mọi trẻ em 12 tuổi phải khai thác được dữ kiện trên mạng
Internet.
- Mọi con em 18 tuổi đều có khả năng vào trường đại
học.
- Mọi người Mỹ phải có cơ hội tiếp tục học tập suốt
đời.
Tuy phải đối phó với nhiều vấn đề gay cấn về giáo dục nhưng trong chiến lược
phát triển giáo dục của mình, nước Mỹ đặc biệt quan tâm đến yêu cầu một nền
giáo dục được xây dựng trên nền tảng công nghệ thông tin và xã hội tri thức để
đón đầu sự phát triển của nền kinh tế Mỹ trong thế kỹ XXI.
3.2 Liên minh châu âu (
EU).
Liên minh Châu Au ( EU) thống nhất quan niệm rằng, học tập suốt đời bao gồm
mọi hình thức và thời gian học tính từ bậc tiểu học đến sau nghĩ hưu với mục
tiêu là:
- Nâng cao tri thức và kỹ
năng.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của cá nhân, của cộng đồng và của xã
hội.
EU đã cụ thể thành 4 mục tiêu sau:
a) hoàn thiện cá nhân.
b) Nâng cao năng lực tham gia cộng đồng.
c) Bảo đảm những đặc quyền xã hội.
d) Tăng năng lực thích nghi của con người ( Năng lực bảo đảm được tuyển
dụng).
Với mục tiêu đó, EU chủ trương xây dựng xã hội thông tin cho mọi người, đồng

thời đề cao sự năng động, sáng tạo của mọi cá nhân. Mặt khác, Eu cho rằng,
phải hợp lý hóa công tác giáo dục và đào tạo để tạo thật nhiều cơ hội học tập
cho mọi người.
EU quan niệm rằng, chính quyền có trách nhiệm chính đối với chiến lược học
tập suốt đời. Trách nhiệm đó thể hiện ở những điểm sau:
- Cung ứng các nguồn lực cần thiết để mọi người được hưởng thụ nền giáo dục
– đào tạo phổ cập.
- Tạo ra cho mỗi người những kỹ năng cơ bản khi ra trường vá các cơ hội
tiếp tục học lên.
- Mọi cấp chính quyền phải đi đầu trong việc triển khai chiến lược học tập
suốt
đời.
- Bảo đảm cho mọi công dân được tiếp cận với những cơ hội thu thập, cập
nhật thông tin và có năng lực cạnh tranh nhờ có sự hỗ trợ của các dịch vụ.
- Có những biện pháp khích lệ những người chưa được tuyển dụng sẽ tiếp tục
đi học.
- Chính quyền trung ương hợp tác với các quốc gia và các địa phương
trong việc thúc đẩy học tập suốt đời.
Để tạo ra một Châu Au học tập suốt đời, EU đề ra các biện pháp cơ bản sau:
• Thông báo các mục tiêu tương lai của hệ thống giáo dục và đào tạo của các
nước trong liên minh Châu Au.
• Đưa ra chiến lược tuyển dụng toàn Châu Au, tập trung vào thị trường lao
động.
• Xây dựng chương trình xã hội hóa giáo dục ở Châu Au, Tăng cường các
mối liên kết xã hội để giảm bất công về giáo dục.
• Đưa ra kế họach hành động kỹ năng và năng động, đảm bảo mở rộng thị
trường vào năm 2005.
• Xây dựng mạng điện tử Châu Au để mọi người dân được học tập qua
mạng.
• Xuất bản sách nói rõ chính sách đào tạo, tuyển dụng và những đặc quyền xã

hội trong EU.
3.3 Nước
Đức.
Đức là nước có cách làm giáo dục để học sinh trung bình của họ đi và nền kinh
tế toàn cầu. Việc chuyển học sinh từ nhà trường đến lao động được coi là khó
nhất trong đời người. Đó là công việc mà người Đức cho rằng có nhiều ngoại
ứng xã hội. Xã hội Đức vừa có nghĩa vụ, vừa có quyền lợi bảo đảm cho mọi
người được thuận lợi trong bước quá độ chuyển tiếp nói trên.
Nền giáo dục “kép” là bước quá độ trôi chảy từ nhà trường đến việc làm, có
thể tóm tắt đặc điểm của nền giáo dục kép như sau:
- hệ thống giáo dục “kép” là sự kết hợp giảng dạy ở trường phổ thông với
việc học nghề ở cơ sở sản xuất.
- Điều cốt lõi của hệ thống giáo dục “kép” là các doanh nghiệp tích cực
tham giacác quá trình giáo dục và đào tạo và có quan hệ đối tác chặt chẽ
với ngành giáo dục. Có mặt tronhg hệ thống đối tác này là trường học, gia
đình, doanh nghiệp, các hội thương mại, phòng thương mại, công đoàn,
chính phủ Bang và chính phủ liên Bang. Từng cá nhân được thỏa mãn nhu
cầu học tập và các tổ chức đối tác được thỏa mãn nhu cầu kinh doanh và
công nghiệp.
- Nước Đức quan niệm việc đào tạo thanh niên là cái giá phải trả để có thể
kinh doanh. Các ngành công nghiệp ở Đức rất chăm lo và bảo vệ hệ thống
giáo dục “Kép”:Các ngành công nghiệp xây dựng các giáo trình đào tạo
nghề, quy định các tiêu chuẩn, tự thực thi công tác đào tạo, tổ chức thi cử và
chứng nhận người học nghề đạt chất lượng cao. Đây là cách làm để giữ
vững một truyền thống giáo dục rất đẹp của Đức : đào tạo lực lượng lao
động có năng lực cao.
Vài con số thể hiện cách tiếp cận nói trên của Đức
• Hơn 500.000 công ty, doanh nghiệp tham gia với ngành giáo dục vận
hành hệ thống giáo dục “Kép”;
• Mỗi năm có khỏang 750.000 học sinh phổ thông được học nghề tại cơ sở

sản xuất;
• Hơn 400 nghề được dạy tại cơ sở sản xuất với số tiền đầu tư cho đào tạo là
15 tỷ USD/năm.
Hơn ai hết, người Đức coi giáo dục là yếu tố đầu vào của sản xuất, đào tạo
chất lượng cao cho thanh niên, là bộ phận không tách rời của cuộc sống kinh
tế ở nước Đức.
3.4 Hàn
quốc.
Học tập để làm chủ công nghệ cao, để trở thành một cường quốc là tư tưởng
xuyên suốt, chi phối quá trình xây dựng xã hội học tập.
Ba mươi năm về trước, thế giới coi Hàn Quốc là đất nước của những nông
dân nghèo khổ. Hàn quốc đã nói rõ tư tưởng chiến lược của mình:” Chúng tôi
không có tài nguyên thiên nhiên. Công nghệ là chuyện sống còn của chúng
tôi”.
Hàn Quốc đầu tư vào giáo dục ngay từ khi họ còn quá nghèo (GDP khoảng 68
USD/ người/ năm). Họ quyết tâm để thanh niên từ 17 – 18 tuồi được học hết
trung học. Điều này gần như hoàn thành vào năm 1985. Ở thời điểm đó , số học
sinh của họ được họ trung học hơn hẳn Anh và Pháp và cũng từ đó số thanh
niên Hàn Quốc được học Đại học hơn hẳn nước Anh.
Để thanh niên được học đại học một cách rộng rãi, Hàn Quốc mở rộng hệ thống
giáo dục bậc học này sang tư nhân. 4/5 số trường đại học ở Hàn Quốc thuộc
quyền sở hữu của các công ty như : Hyundai, computer Daewo, Video
Samsung. Hiện hàng quốc đang đi hàng đầu tiến vào kỷ nguyên thông tin.
Cuối XX, 1/3 hàng xuất khẩu của Hàn Quốc là những mặt hàng mang hàm
lượng công nghệ cao.
Cách tiếp cận xã hội học tâp của Hàn Quốc. Để đảm bảo mọi trẻ em nghèo được
đi học, tức là trẻ em các gia đình khó khăn về tài chính hoặc thiếu những người
trụ cột về kinh tế, các trường đại học ở Hàn Quốc đã tổ chức các đoàn tình
nguyện giúp đỡ dài hạn nhằm làm cho các em bé đó trưởng thành trong môi
trường lành mạnh. Sinh viên có thể nhận học sinh nghèo làm em, giúp chúng

học, đặc biệt là dạy chúng nối mạng, hướng dẫn chúng vượt qua những khó
khăn do số hóa tạo ra. Thông qua giúp đỡ trẻ em, mỗi sinh viên có thể thấy rõ
họ có năng lực gì, có thể nuôi dưỡng những ước mơ nào.
Tổng thống Kim Dae Jung có sáng kiến mở rộng kế hoạch này với sự giúp đỡ
đối tác của ngân hàng thế giới và các cơ quan của Liên hiệp quốc.
3.5 Trung
Quốc.
Cuộc cải cách giáo dục ở Trung Quốc hiện nay nhằm vào mục tiêu kinh tế sau:
- Tăng 4 lần giá trị tổng sản lượng để đạt giá trị thu nhập quốc dân
lên1.000tỷ
USD ( 800 USD/ người tương mức trung bình thế giới năm 1980).
Dự kiến năm 2049 sẽ sát gần trình độ các nước phát triển hiện nay, tức là có
tổng sản lượng trên 4.000 tỷ USD ( 4.000 USD/ người).
- Thực hiện ngay việc đào tạo 34 triệu chuyên gia, trong đó có 700.000
người tốt nghiệp trên đại học, 17 triệu tốt nghiệp các trường nghề và phổ cập
giáo dục bắt buộc.
- Đẩy mạnh tốc độ phát triển giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp ( hiện đã có
3252 trường trung học chuyên nghiệp với 3.743.200 học sinh và 4.395
trường công nhân kỹ thuật với gần 2 triệu học sinh ).
- Phát triển mạnh giáo dục cao đẳng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực có trình
độ
sau trung học.
- Mở giáo dục người lớn từ tiểu học đến đại
học.
- Đầu năm 2003 – 2004, Bộ giáo dục Trung Quốc ban hành một quy định hỗ
trợ sinh viên nghèo ( Green passage). Theo quy định này, các trường đại
học có những công việc lớn sau:
- Hướng dẫn sinh viên nghèo vay nợ để đóng học
phí.
Tháng 8 hàng năm, các trường đại học phải gửi chính sách vay nợ tới mỗi sinh

viên cùng với giấy báo nhập học.
- Không một đại học nào được quyền từ chối sinh viên nghèo. Nếu báo chí
phát hiện những vi phạm quy định này thì hiệu trưởng bị cách chức ngay lập
tức.
3.6 Vài thông tin về những cách làm giáo dục để đẩy mạnh xã hội học tập

một số nước.
a) CuBa:
Mặt dù có quá nhiều khó khăn nhưng đất nước này rất kiên trì miễn học phí cho
mọi bậc học. Năm học 2003 – 2004, ngoài các trường đại học, CuBa mở thêm
350 trường và khoa đại học ở tất cả các quận huyện trong cả nước, dể thu hút
thêm 70.000 người theo học, trong đó 38.000 thanh niên chưa có việc làm.
Những thanh niên này được cấp học bổng để theo học.
b. Thái Lan.
Đến năm 2000, Thái Lan đã đạt được chỉ tiêu:
- 90% trẻ 3 – 5 tuổi được học ở các lớp mẫu
giáo.
- 95% trẻ 12 – 14 tuổi được học ở bậc trung
học.
- 20% thanh niên dưới 24 tuổi vào học đại học, tăng tỷ lệ sinh viên lên
40%.
Thái Lan đã phát triển xã hội học tập của mình bằng nhiều giải pháp học tập của
người lớn như mở ra nhiều loại hình đào tạo nghề phi chính quy để đáp ứng nhu
cầu thị trường đa dạng, đa dạng hóa chương trình dạy nghề ngắn hạn, chương
trình đào tạo theo yêu cầu các nhóm dân cư ( về bất cứ lĩnh vực nào), chương
trình huấn luyện nghề lưu động ( để dạy các nghề phổ biến).
Sự phát triển giáo dục ở Thái Lan được mở rộng nhanh theo hướng kết hợp hài
hòa “ giữa yêu cầu tôn trọng các giá trị truyền thống ( đạo Phật, nhà Vua…) với
định hướng đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động .
c. Malaysia

Là một nước đi lên từ nông nghiệp, 10 năm trước đây Malaysia đã là nước thứ
ba ( sau Mỹ và Nhật) về sản xuất các mạch điện tử bán dẫn. Malaysia cũng tăng
trưởng nhanh nhờ chế tạo máy điều hòa nhiệt độ, náy thu thanh, thu hình.
Con đường đi lên của Malaysia là kế hợp “ thị trường tự do – một nền giáo dục
tốt”.

×