PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống văn hiến lâu đời được
kế thừa và phát triển qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, và được phản
ánh vào trong các hình thái ý thức xã hội như văn hóa, pháp luật, đạo đức, tôn
giáo tín ngưỡng, tư tưởng, giáo dục. Những hình thái ý thức xã hội này chính
là sự biểu hiện cụ thể sinh động nhất về thực tiễn lịch sử dân tộc từ khi dựng
nước đến nay. Văn hóa phản ánh sự phát triển của đời sống vật chất cũng như
đời sống tinh thần do lao động của con người sáng tạo ra. Pháp luật phản ánh
sự quản lý xã hội của nhà nước trên phương diện lớn, đạo đức thể hiện mối
quan hệ, ứng xử giao tiếp giữa các thành viên trong xã hội… và còn muôn mặt
của đời sống xã hội cũng đều được thể hiện thông qua các hình thái ý thức xã
hội nhất định. Cho nên, khi nghiên cứu lịch sử dân tộc chúng ta không thể
không nghiên cứu các yếu tố đó một cách khoa học, đúng đắn. Giáo dục là
một hình thái ý thức xã hội, cho nên cũng giống như các yếu tố khác, giáo dục
cũng cần phải được quan tâm nghiên cứu đúng mực, trên tất cả các phương
diện như lý luận, tư tưởng, lịch sử giáo dục… nhằm đem lại cho chúng ta một
cái nhìn tổng quát nhất, đầy đủ nhất về giáo dục dân tộc.
Trên phương diện lịch sử tư tưởng, giáo dục mở ra nhiều khía cạnh cho
chúng ta có thể nghiên cứu khái quát, từ đó chúng ta có thể kế thừa và phát
triển tư duy lý luận về giáo dục, định hướng cho thực tiễn đa dạng phong phú,
đó cũng là một việc làm cần thiết.
Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, có rất
nhiều vấn đề lý luận được đặt ra cần phải giải quyết, vấn đề lý luận đó không
phải chỉ ở một lĩnh vực, một ngành khoa học nhất định mà cần phải khái quát
ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, giáo dục cũng không phải là ngoại lệ. Mặc
dù, ngày nay giáo dục Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, nhưng
vẫn còn những hạn chế nhất định, vì thế việc nghiên cứu lý luận về giáo dục
đã trở nên quan trọng và không ngừng hoàn thiện trong quá trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hơn nữa, trong những ngày tháng của năm 2010 này, đất nước đang
tưng bừng khí thế chào đón những ngày lễ trọng đại của lịch sử dân tộc, 80
năm ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam, 120 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí
Minh và đặc biệt 1000 năm Thăng Long- Hà Nội. Trên cơ sở đó, chúng tôi
quyết định đưa ra đề tài: “Giáo dục Việt Nam thời đại Lý- Trần và những
bài học cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay”, nhằm tìm hiểu nguồn gốc ra
đời của giáo dục Việt Nam từ 1000 năm lịch sử trước đây, được đánh dấu
bằng việc Lý Công Uẩn cho lập Văn Miếu- Quốc Tử Giám ở kinh thành
Thăng Long, đồng thời tổng kết đánh giá những kết quả và hạn chế của nền
giáo dục thời Lý- Trần để đúc rút thành những bài học kinh nghiệm cho việc
phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục Việt Nam phong kiến đã có nhiều đề tài nghiên
cứu, tuy nhiên đi sâu vào thời đại Lý Trần thì chưa được thực hiện. Chúng ta
có thể kể đến những công trình như “Lịch sử giáo dục Việt Nam”, “Lịch sử
giáo dục Nho giáo Việt Nam”. Nhìn chung, họ vẫn chưa đề cập đến những
thành tựu cũng như hạn chế của nền giáo dục thời phong kiến nói chung và
thời Lý Trần nói riêng. Do đó, cần phải nghiên cứu đầy đủ và công phu hơn.
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng giáo dục,
đó là nền giáo dục thời Lý Trần. Từ việc phân tích những đặc điểm của
nền giáo dục thời Lý Trần chúng tôi đưa ra những bài học cho nền giáo
dục Việt Nam hiện nay.
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm thực hiện những mục đích
sau đây: tìm hiểu được hoàn cảnh lịch sử nói chung về thời đại Lý Trần và
giáo dục nói riêng, tìm hiểu đặc điểm, thành tựu và hạn chế của nền giáo
dục thời Lý Trần, nhưng điều quan trọng hàng đầu thông qua việc nghiên
cứu lịch sử tư tưởng giáo dục thời Lý Trần chúng tôi đưa ra những bài học
cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay, đưa ra những bài học cho nền giáo
dục Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung nhất và quan trọng nhất của đề tài là phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn có các phương pháp khác như: logic kết hợp với lịch sử,
phân tích với tổng hợp để rút ra những kết luận cơ bản nhất về nguồn gốc, đặc
điểm, thành tựu và hạn chế, những bài học của nền giáo dục Việt Nam thời đại
Lý- Trần, cũng giống như việc rút ra những thành tựu và hạn chế giáo dục
Việt Nam hiện đại.
Tất cả những phương pháp trên đây, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
chúng tôi hoàn thành đề tài này.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đi sâu nghiên cứu trong phạm vi của
lĩnh vực giáo dục, ngoài ra khi đề cập đến hoàn cảnh ra đời của giáo dục
chúng tôi cũng phân tích những đặc điểm kinh tế- xã hội – chính trị - văn hoá
của thời đại Lý Trần để có cái nhìn toàn diện nhất về sự xuất hiện của nền giáo
dục thời Lý – Trần.
6. Đóng góp của đề tài
So với sự nghiên cứu trước đây, đề tài mong muốn mang lại nhiều điểm
mới hợp lý hơn, hệ thống hơn trên cả lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn.
Trước hết, bằng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chúng tôi
phân tích những cơ sở, điều kiện cho sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam thời
Lý- Trần một cách toàn diện nhất. Đây là một hướng mới cho việc nghiên cứu
lịch sử giáo dục, chúng tôi vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào
đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành giáo dục thời Lý-
Trần. Đánh giá lịch sử trên quan điểm duy vật, được coi là một nhân tố quan
trọng hàng đầu mà chúng tôi thực hiện trong đề tài này. Trước đây, các đề tài
cũng đề cập đến các khía cạnh nhưng chưa thể hiện rõ lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, trong đề tài này chúng tôi đã tiến hành theo đường lối đó.
Thứ hai, chưa có đề tài nào đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế
của nền giáo dục Việt Nam phong kiến nói chung và nền giáo dục thời đại Lý-
Trần nói riêng, vì vậy chúng tôi mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình, bằng
việc phân tích các khía cạnh của nền giáo dục đó như mục tiêu, tính chất, nội
dung, phương pháp, hệ thống giáo dục… để đưa ra kết luận, và những khía
cạnh đó cũng rất mới, đều được chúng tôi đưa vào phân tích.
Thứ ba, chúng tôi cũng khái quát những điểm cơ bản liên quan đến giáo
dục Việt Nam hiện nay, từ quan điểm của Đảng đến những thành tựu đều được
chúng tôi phân tích đánh giá.
Thứ tư, một vấn đề cũng không kém phần quan trọng và sáng tạo, chính
là việc chúng tôi đưa ra những bài học kinh nghiệm được rút ra từ nền giáo
dục Việt Nam thời Lý- Trần cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
Trên đây, là những điểm mà chúng tôi coi là điểm mới đóng góp của đề
tài cho vấn đề này. Tuy nhiên, đề tài chưa thể hoàn thiện và cần được bổ sung,
sửa chữa nhiều vấn đề khác nữa để cho đề tài hoàn thiện hơn, khoa học hơn.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài được chia thành 2 chương và 4 mục
NỘI DUNG
Chương 1: GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI LÝ- TRẦN
1. Sự xuất hiện giáo dục Việt Nam thời
Trong lịch sử thế giới thật hiếm có một đất nước đã mất chủ quyền hơn
1000 năm mà vẫn có thể giành lại được đất nước như Việt Nam trong thời kỳ
Bắc thuộc. Một trong những nguyên nhân sâu xa là vì truyền thống yêu nước
được khơi dậy một cách mạnh mẽ thông qua các cuộc khởi nghĩa liên tục
nhiều lần giành được độc lập tạm thời, kết hợp với những yếu tố khách quan
như kẻ thù không còn đủ sức để thống trị đất nước ta được nữa. Đứng trước
những thời cơ to lớn của dân tộc đã đặt ra nhiệm vụ là làm thế nào giải phóng
được dân tộc, đánh đuổi kẻ thù, gây dựng lại đất nước, làm cho nhân dân được
ấm no, hạnh phúc. Đã có nhiều câu trả lời cho nhiệm vụ đó thông qua hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa, nhưng tiếc rằng những cuộc khởi nghĩa đó đều thất
bại, chỉ đến Ngô Quyền tiến hành khởi nghĩa giành thắng lợi vào năm 938 mới
tạo ra được bước chuyển biến to lớn trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, lập
ra nhà Ngô chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, mở đầu cho thời kỳ xây dựng nền
độc lập dân tộc.
Khi Ngô Quyền qua đời, nền độc lập tiếp tục được củng cố qua các triều
đại Đinh- Tiền Lê. Thế nhưng, những triều đại này chỉ dừng lại ở việc củng cố
nền độc lập dân tộc đưa đất nước thoát khỏi ách áp bức bóc lột của các quốc
gia khác, chẳng hạn Ngô Quyền chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, hay chống
loạn lạc trong nước như Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn “12 sứ quân”, rồi Lê Hoàn
đánh bại quân Tống lập ra nhà Tiền Lê. Hầu hết các triều đại này vẫn chưa
giải quyết được vấn đề phát triển đất nước, nâng dân tộc lên một tầm cao mới,
do đó lịch sử đòi hỏi phải có một lực lượng khác thực hiện được nhiệm vụ ấy.
Hơn nữa, khi Lê Hoàn qua đời (1005), các con trai đã tranh chấp ngôi vua, Lê
Long Đĩnh nối ngôi cha nhưng không đủ năng lực và uy tín cai trị đất nước, đã
kìm hãm sự phát triển của đất nước, làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc, vì thế càng đặt ra nhiệm vụ mau chóng ổn định đất nước, và
cuối cùng lịch sử đã tìm thấy Lý Công Uẩn trong các triều thần của nhà Lê,
lập ra triều đại nhà Lý.
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (Tiên Sơn- Bắc Ninh), mẹ họ
Phạm, thủa nhỏ học ở chùa Lục Tổ, làm con nuôi cho nhà sư Lý Khánh Văn,
lớn lên chuyển qua nghề võ sau giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, chỉ huy
cấm quân của kinh đô Hoa Lư, có uy tín trong triều đình.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra nhà Lý. Năm 1010, ông
đặt niên hiệu là Thuận Thiên và quyết định rời đô ra Thăng Long, tạo điều
kiện để phát triển đất nước.
Triều Lý tồn tại với 8 đời vua, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn trong
việc xây dựng đất nước. Tuy nhiên khoảng giữa thế kỷ XI, triều Lý bắt đầu
suy đồi. Các vua nhà Lý khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên lại ham chơi,
cho nên trong triều đình xảy ra nhiều hỗn chiến giữa các phe phái với nhau.
Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng
lúc 7 tuổi. Trần Thủ Độ bố trí cho cháu của mình là Trần Cảnh khi đó 8 tuổi
vào cung chơi cùng Lý Chiêu Hoàng. Đến 1226, Trần Thủ Độ đạo diễn một
cuộc đảo chính cung đình, tuyên bố Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và
nhường ngôi cho chồng. Nhà Lý sụp đổ thay vào đó là nhà Trần.
Nhà Trần được thành lập tồn tại được 174 năm với 12 đời vua, đem lại
bước phát triển mới cho Đại Việt.
Như vậy, sự ra đời của hai triều đại Lý- Trần là một tất yếu, nó đã thể
hiện sự tiến bộ phát triển của lịch sử dân tộc, đồng thời giải quyết được nhiệm
vụ mà lịch sử đã đặt ra đó là bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc và phát
triển đất nước. Có được những thành tựu như vậy, các triều đại này đã sử dụng
nhiều biện pháp quan trọng, và yếu tố quan trọng hàng đầu là yếu tố phát triển
giáo dục.
Tuy nhiên, sự ra đời của giáo dục thời đại Lý- Trần không phải là một
sự ngẫu nhiên, tình cờ mà phải dựa trên những cơ sở nhất định, những điều
kiện nhất định, vấn đề đặt ra là nếu chúng ta nghiên cứu giáo dục thời đại này
chúng ta phải tìm được những điều kiện, cơ sở đó.
1.2 Cơ sở cho sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam thời Lý- Trần
1.2.1 Cơ sở lý luận:
Ngay từ khi loài người sinh ra, con người đã phải ăn, ở, mặc,… muốn
có những điều đó con người phải lao động, phải tác động vào giới tự nhiên,
tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân mình, cũng chính trong quá trình đó,
con người đã ngày càng hoàn thiện bản thân mình, hình thành các mối quan hệ
xã hội đặc biệt là sự xuất hiện của ngôn ngữ, tạo điều kiện cho con người có
thể giao tiếp với nhau ngày càng thuận lợi hơn. Các thế hệ cứ nối tiếp nhau,
hết đời này đến đời khác, tạo ra một dòng chảy không ngừng nghỉ, trong dòng
chảy đó đó đã làm nảy sinh nhu cầu truyền đạt lại kinh nghiệm lao động sản
xuất của thế hệ trước cho các thế hệ tiếp theo, sự truyền đạt kinh nghiệm đó
được gọi là giáo dục. Như vậy, giáo dục được hình thành trên cơ sở của lao
động của sản xuất vật chất, cho nên nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố trong
đó quan trọng nhất là yếu tố kinh tế, sản xuất của cải vật chất.
Hơn nữa, cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, giáo dục là
một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, mà kiến trúc thượng tầng bao gồm
toàn bộ các quan điểm chính trị, đạo đức, tôn giáo, giáo dục… và các thiết chế
tương ứng với nó, do cơ sở hạ tầng phù hợp với nó sinh ra. Do đó, khi nghiên
cứu sự ra đời của giáo dục nói chung, chúng ta cần phải tìm hiểu những yếu tố
cơ bản như kinh tế- văn hóa- chính trị- xã hội trong một giai đoạn cụ thể. Vì
thế, từ sự định hướng này chúng ta có cơ sở để nghiên cứu khoa học hơn về
sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam thời đại Lý- Trần.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.2.1. Cơ sở kinh tế
Cơ sở kinh tế là toàn bộ những yếu tố, những điều kiện, xuất phát từ
kinh tế trên cơ sở đó hình thành giáo dục. Cơ sở kinh tế của giáo dục thời Lý-
Trần là toàn bộ những quan hệ sản xuất của nền kinh tế, đồng thời là toàn bộ
các ngành kinh tế thời Lý- Trần.
Chúng ta cần phải tìm hiểu rõ cơ sở kinh tế của giáo dục thời đại Lý-
Trần, bởi vì đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu cho một hệ thống kiến trúc
thượng tầng trong đó có giáo dục. Thông qua đó, ta hiểu được với một trình độ
của kinh tế nhất định sẽ quy định sự phát triển và thay đổi giáo dục tại những
thời điểm nhất định.
Khi nghiên cứu nền kinh tế thời Lý- Trần chúng ta có thể rút ra những
đặc điểm cơ bản sau đây:
Về lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, nó bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất, trong tư liệu sản
xuất có công cụ lao động và đối tượng lao động. Do đó, khi nghiên cứu về lực
lượng sản xuất thời Lý- Trần chúng ta cần phải đề cập đến những yếu tố đó:
Người lao động triều đại Lý- Trần chủ yếu bao gồm người dân tự do và
nô tỳ. Sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, đất nước dần dần được ổn định và
triều đình cũng quan tâm nhiều đến sự phát triển của kinh tế, đã tạo ra khí thế
lao động hăng say trong quần chúng, tạo ra năng suất lao động cao hơn so với
các triều đại trước, vì thế nhân dân sớm bắt tay vào công cuộc phát triển đất
nước lớn mạnh.
Công cụ lao động dưới thời Lý- Trần cũng có bước phát triển khá
mạnh. Nhiều làng nghề thủ công xuất hiện, nông nghiệp phát triển đã tạo
điều kiện để đổi mới công cụ lao động ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng
được các yêu cầu của sản xuất. Đặc biệt là công cụ bằng đồng đã chiếm ưu
thế, tạo ra đồ dùng sinh hoạt, chế tạo vũ khí, đúc tiền, đúc chuông, xây
dựng nhiều chùa triền…
Người lao động có khí thế lao động cao cùng với công cụ lao động ngày
càng hiện đại đã thúc đẩy được sức sản xuất phát triển.
Dựa trên sự phát triển đó, các ngành kinh tế cũng có những bước phát
triển cao. Trong nông nghiệp, hai triều đại này đã thi hành nhiều chính sách
trọng nông, khuyến nông. Vua cày ruộng “tịch điền’, thăm gặt hái, thi hành
chính sách ngụ binh ư nông, cấm trộm trâu, giết trâu để bảo vệ sức kéo. Nhà
nước cũng cho đắp đê, nạo vét kênh sông. Do đó sản xuất nông nghiệp được
ổn định và phát triển, nhiều năm mùa màng bội thu. Thủ công nghiệp và
thương nghiệp có bước phát triển, dệt là nghề thủ công truyền thống phổ biến,
bên cạnh còn có nghề đúc đồng, làm gốm cũng khá phát triển. Có nhiều chợ
nổi tiếng nhưu chợ Hoàng Hoa (phố Ngọc Hà), chợ Bạch Mã (phố Hàng
Buồm ngày nay) bên bờ sông Tô Lịch.
Về quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất thời Lý Trần là quan hệ sản xuất phong kiến dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất hay là ruộng đất. Chế độ ruộng đất
được phân chia như sau: sở hữu nhà nước (bao gồm quan điền, thác đao điền,
phong cấp cùng với một bộ phận ruộng đất chùa), sở hữu làng xã (bao gồm:
các loại ruộng công trong làng xã và một bộ phận ruộng chùa) và sở hữu tư
nhân ( bao gồm các loại ruộng đất tư, điền trang và một bộ phận ruộng chùa).
Như vậy, với 3 loại hình sở hữu ruộng đất trên, chúng có mối quan hệ
tác động qua lại với nhau, tồn tại cùng nhau, trong đó sở hữu nhà nước vẫn là
ruộng đất chiếm ưu thế, nhưng nhà nước luôn là của một giai cấp nhất định,
do đó sở hữu của giai cấp địa chủ trong triều đại Lý Trần vẫn là quan hệ sở
hữu thống trị.
1.2.2.2 Cơ sở chính trị- xã hội
Trong khi lực lượng sản xuất đang phát triển như vậy, nhưng lại bị gò
bó bởi quan hệ sản xuất phong kiến mới hình thành, dẫn đến xuất hiện mâu
thuẫn, biểu hiện mâu thuẫn đó ra bên ngoài xã hội là mâu thuẫn giai cấp giữa
giai cấp địa chủ quý tộc với nhân dân lao động, trực tiếp nhất là các cuộc khởi
nghĩa liên tục xảy ra dưới hai triều đại này.
Trước hết chúng ta cần làm rõ cấu trúc xã hội thời Lý Trần, làm rõ các
giai cấp tầng lớp trong xã hội để từ đó thấy được mâu thuẫn tồn tại trong xã
hội ấy. Khi nghiên cứu lịch sử thời Lý Trần, người ta có thể phân chia xã hội
thành những tầng lớp sau: trước hết là một nhà vua uy quyền tuyệt đối và tập
trung trong tay mình một bộ máy quan liêu, tạo nên một hệ thống chính quyền
nhà nước. Ở tầng dưới là đông đảo quần chúng bình dân (nông dân, thợ thủ
công), quần tụ trong một hệ thống cộng đồng làng xã cũng lấy nhà vua làm
trung tâm điểm. Tầng lớp nô tỳ là tầng lớp cuối cùng của xã hội, tuy khá đông
nhưng tập trung trong các gia đình quý tộc quan liêu, và ít có khả năng trở
thành một đẳng cấp. Vì vậy, trên thực tế chỉ còn hai khối chính: vua quan và
bình dân. Vua quan là đẳng cấp trên, đẳng cấp thống trị, trong khi bình dân là
đẳng cấp bên dưới, đẳng cấp bị thống trị. Nhà vua ở đỉnh tối cao, quan liêu là
tầng lớp thượng lưu tiếp đó, đông đảo quần chúng bình dân tạo nên một mặt
đáy vững chắc, đó là hình ảnh của một cấu trúc kim tự tháp về mặt xã hội học.
Các đẳng cấp này trong thời đại Lý Trần tuy mâu thuẫn chưa thực sự
gay gắt, vì trong giai đoạn đầu tinh thần dân tộc lên khá cao, do đó quân dân
đồng lòng cùng chung sức dựng xây đất nước và chống giặc ngoại xâm, vì vậy
mâu thuẫn được bộc lộ một cách chưa rõ nét, nhưng đã có những dấu hiệu của
mâu thuẫn. Biểu hiện rõ nét nhất đó là sự xuất hiện của các cuộc đấu tranh giai
cấp của nhân dân lao động chống lại tầng lớp quý tộc quan lại, đây là biểu
hiện chính trị từ chính mâu thuẫn trong sản xuất kinh tế thời đại này.
Tiêu biểu cho các cuộc đấu tranh là cuộc khởỉ nghĩa của nhân dân Đại
Hoàng – Ninh Bình vằo năm 1152 do nhân dân Đại Hoàng bị bắt làm phu dịch
xây cửa Đại Thành ( Kinh thành Thăng Long).
Ở thời Trần, đặc biệt ở thế kỷ XIV, nông dân bị mất mùa bán mình làm
nô tỳ cho các quý tộc giầu có, nhân đó bọn nhà giầu ngày càng mở rộng điền
trang và thuê thêm nhiều lao động. Nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn.
Cũng trong tình trạng ấy cuộc chiến tranh với Ai Lao – Chămpa lại buộc dân
nghèo lại bỏ ruộng đồng. Nhà nước không còn sức để quan tâm đến sản xuất
nông nghiệp, đê điều, công trình thuỷ lợi… hậu quả tất nhiên là mất mùa đói
kém cơ cực. Chỉ tính đầu thế kỷ XIV đến 1379 đã có hơn 10 nạn đói lớn dân
nghèo phải bán cả nhà cửa, vợ con. Tình trạng đó, tất yếu dẫn đến nhân dân
mọi nơi nổi dậy khởi nghĩa.
Năm 1344, nhân dân ở vùng núi Yên Phụ nổi dậy dưới lá cờ của Ngô
Bệ, đánh phá nhà cửa của bọn địa chủ phong kiến quan lại. Năm 1354, nhân
dân từ Lạng Giang ( Bắc Giang) đến Nam Sách ( Hải Dương) nổi dậy. Năm
1379 ở Thanh Hoá, Nguyễn Thanh tụ tập nông dân khởi nghĩa. Đầu 1390 nhà
sư Phạm Sư Ôn phất cờ khởi nghĩa ở Quốc Oai ( Hà Tây ), nghĩa quân ngày
càng đông đã kéo về đánh kinh thành Thăng Long, Trần Nghệ Tông và Trần
Thuận Tông phải bỏ chạy sang Bắc Giang, nghĩa quân chiếm thành trong 3
ngày rồi rút lên Quốc Oai sau đó bị đàn áp. Năm 1399, cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Nhữ Cãi nổi ra ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc mãi đến 1400 cuộc khởi
nghĩa mới bị đàn áp.
Những cuộc khởi nghĩa này đã nói lên cuộc khủng hoảng suy thoái của
triều đại thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế độ ruộng đất và nông dân
đương thời. Trước tình trạng đó, các triều đình phải tìm mọi cách ổn định triều
đình, bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình, các triều đình càng tìm mọi biện pháp
chính trị, xã hội, họ tìm thấy biện pháp trong giáo dục, đào tạo ra nguồn nhân lực
phục vụ cho giai cấp thống trị. Do đó, giáo dục đã được ra đời. Như vậy, nguồn
gốc ra đời của giáo dục thời đại Lý Trần xét đến cùng là nguyên nhân kinh tế, từ
sự phát triển sản xuất, và từ quan hệ sản xuất thống trị.
1.2.2.3 Cơ sở văn hóa - tư tưởng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, một hình thái kinh tế- xã
hội trên một cơ sở hạ tầng (các quan hệ sản xuất) bao giờ cũng hình thành một
kiến trúc thượng tầng xã hội tương ứng. Trong một kiến trúc thượng
tầng(KTTT) bao gồm nhiều yếu tố như tư tưởng, văn hóa, đạo đức, tôn giáo,
giáo dục và nhiều thiết chế xã hội tương ứng. Và giữa các yếu tố này cũng có
sự tác động lẫn nhau
Dưới thời đại Lý- Trần, giáo dục cũng là một trong các yếu tố thuộc
KTTT và chịu sự tác động qua lại của các yếu tố khác, nhưng quan trọng hơn
cả là chịu sự tác động qua lại của tư tưởng truyền thống và tam giáo.
Ngay sau khi triều Lý được xác lập, nền văn hóa của nước Đại Việt
cũng có những bước phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Mấy
thế kỷ sau, sự phát triển ấy vẫn còn tiếp tục, đặc biệt bước vào triều đại nhà
Trần sau khi nhân dân ta đã chiến thắng được quân Nguyên Mông.
Trong lĩnh vực văn hóa: Ở thời Lý, nhiều áng văn thơ xuất hiện đặc biệt
là những áng văn thơ chính luận nổi tiếng, trong đó tiêu biểu nhất là bài Chiếu
Dời Đô của Lý Công Uẩn. Bước sang thời Trần, hoạt động này còn sôi nổi
hơn nữa, nổi bật hơn cả là những áng thơ văn thể hiện chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng dân tộc đã xuất hiện khá nhiều trong nền văn học đương
đại. Điều đáng chú ý là đến nhà Trần chữ Nôm xuất hiện, chứng tỏ rằng nền
văn hóa tư tưởng phát triển đến mức cần phải có tiếng nói và ngôn ngữ dân
tộc mới có thể vươn lên một cách mạnh mẽ, mở rộng việc học tập và nghiên
cứu những tinh hoa văn hóa của dân tộc.
Các ngành nghệ thuật sân khấu ca vũ nhạc cũng có những tiến bộ đáng
kể, đặc biệt để phục vụ cho triều đình cũng phát triển kiến trúc và điêu khắc,
tiêu biểu như nhà Lý cho xây Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Ngành sử học dân tộc cũng xuất hiện đặc biệt với tác phẩm Đại Việt sử
ký toàn thư của Lê Văn Hưu. Một số ngành khoa học tự nhiên cũng có bước
phát triển đáng kể.
Có được những thành tựu đáng kể này không thể phủ nhận công lao của
giáo dục, sự xuất hiện ở thời đại Lý Trần một nền giáo dục có tính chất thế tục
khác hẳn với nền giáo dục của nhà chùa thì điều đó có một ý nghĩa to lớn đối
với sinh hoạt văn hóa và tư tưởng nước Đại Việt, vì nó không những tác động
một cách trực tiếp vào sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc và sự tuyển lựa
nhân viên cho bộ máy quan liêu, mà còn ảnh hưởng đến thế giới quan và
những quy phạm chính trị đạo đức của con người. Hơn nữa, nó còn đem đến
những biến đổi trong phong cách tư duy, sáng tác văn học nghệ thuật và sáng
tạo khoa học.
Một trong những cơ sở quan trọng để hình thành giáo dục Việt Nam
thời Lý- Trần cần phải kể đến sự tác động về tư tưởng của Tam giáo: Phật
giáo, Đạo giáo, Nho giáo đã chi phối đến ý thức hệ phong kiến trong đó có ý
thức giáo dục.
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Phật Đà. Đạo Phật chính là giáo lý
mà Phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ VI đến thế kỷ
V- TCN, Đạo Phật lưu hành rộng rãi ở rất nhiều quốc gia và khu vực trên thế
giới. Trong quá trình truyền bá của mình, đạo Phật đã kết hợp được nhiều tín
ngưỡng tôn giáo, văn hóa tập tục dân gian bản địa để hình thành rất nhiều tông
phái và học phái có tác động vô cùng quan trọng đối với đời sống xã hội và
văn hóa của rất nhiều quốc gia. Giáo lý cơ bản của đạo Phật là thuyết Tứ Đế,
thuyết Duyên Khởi, thuyết Ngũ Uẩn và thuyết Vô thường, vô ngã.
Thông qua nghiên cứu Phật giáo ở Việt Nam, người ta đều cho rằng
Phật giáo vào Việt Nam thông qua hai con đường hòa bình. Đó là từ Trung
Quốc sang vào cuối thế kỷ II sau CN, truyền bá đạo Phật vào Bắc bộ Việt
Nam thông qua hoạt động của Mâu Dung (người Thương Ngô- Ngô Châu-
Quảng Châu- Trung Quốc). Tiếp đến sang thế kỷ III là nhà sư Khang Tăng
Hội. Con đường thứ hai mà Phật giáo vào Việt Nam đó là từ Ấn Độ trực tiếp
truyền bá vào nước ta từ thế kỷ VI.
Trong quá trình truyền bá, Phật giáo được bản địa hóa nên gần gũi với
đời sống của cư dân người Việt. Đặc biệt đến thế kỷ X, Phật giáo đã có những
bước phát triển to lớn. Nhiều chùa chiền xuất hiện, các sư tăng và tín đồ Phật
giáo phát triển cả về số lượng và chất lượng, do đó Phật giáo đã chiếm một vị
trí khá quan trọng trong đời sống xã hội, trở thành trụ cột tinh thần chủ yếu
của bộ phận phong kiến thống trị. Lúc đó “Đế và tăng cùng cai trị thiên hạ”.
Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất cho nên nó có cơ sở kinh tế. Lúc ấy
Nho sĩ còn thưa thớt, cho nên nhà chùa cũng là nơi tạo ra những tăng sư giữ
vai trò là những trí thức của thời đại. Ở nông thôn, nhà chùa vừa là nơi sinh
hoạt văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng vừa là nơi sinh hoạt văn hóa văn nghệ, đồng
thời cũng là nơi chữa bệnh cho nhân dân. Ở triều đình, nhà sư còn tham gia
vào việc triều chính. Bản thân các nhà vua cũng là các nhà sư, nhà vua Lý
Thánh Tông- Ông vua thứ 3 của vương triều Lý đã trở thành người đứng đầu
của phái Thảo Đường, đến đời vua thứ 3 nhà Trần, Trần Nhân Tông đã lập ra
trường phái thiền Trúc Lâm, trở thành một trong 3 cụ tổ của thiền Trúc Lâm ở
Việt Nam.
Những đặc điểm này đã tạo ra cơ sở quy định Phật giáo chi phối đến đời
sống con người nói chung và giáo dục nói riêng.
Khi thời kỳ Bắc thuộc chấm dứt, bước sang thời kỳ độc lập tự chủ Nho
giáo vẫn chưa mạnh, nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội Việt
Nam như một hiển nhiên.
Nho giáo thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu của công
nguyên trước hết nhằm đáp ứng những yêu cầu thống trị của giai cấp phong
kiến phương Bắc đối với nhân dân ta. Nó được sử dụng gắn liền với hoạt động
quản lý xã hội của bộ máy cai trị của kẻ xâm lược. Ảnh hưởng của nó còn hạn
chế, chưa trở thành một lực lượng xã hội đáng kể.
Đến thế kỷ XI, khi vương triều Lý được thành lập, việc củng cố chế độ
phong kiến và phát triển văn hóa phục vụ cho chế độ phong kiến trở thành một
yêu cầu cấp bách thì giai cấp phong kiến cần phải đề cao Nho giáo và sử dụng
Nho giáo và sử dụng Nho giáo như một vũ khí sắc bén trên lĩnh vực chính trị
văn hóa, tư tưởng. Để truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, tất yếu phải thông
qua bằng con đường tuyên truyền, giáo dục. Như vậy, giáo dục đã trở thành
một công cụ để ý thức hệ phong kiến thâm nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên,
ban đầu Nho giáo chỉ truyền cho con em gia đình địa chủ phong kiến phương
Bắc chứ không ảnh hưởng nhiều đến người Việt bản địa.
Còn Đạo giáo cũng tồn tại một cách thực tế trong xã hội Việt Nam thời
Lý- Trần. Nhưng Đạo giáo phần nhiều ảnh hưởng đến sự mê tín dị đoan trong
nhân dân mà không đáp ứng những vấn đề đặt ra trên lĩnh vực tư tưởng và
giáo dục.
1.2.2.4. Nhu cầu giáo dục từ các cuộc kháng chiến dưới thời Lý- Trần
Ngay sau khi các vương triều được thành lập, ngoài việc tập trung phát
triển kinh tế- văn hóa- xã hội, củng cố vương quyền, quốc gia Đại Việt còn
phải đối với nạn ngoại xâm.
Đầu tiên, nhà Lý tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống vào năm
1075- 1076 dưới sự lãnh đạo của vua Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt, quân
dân nhà Lý đã dành được những thắng lợi to lớn trên sông Như Nguyệt, đất
nước trở lại trang thái yên bình.
Bước sang thế kỷ XIII, các bộ tộc du mục Mông Cổ ở vùng thảo nguyên
Châu Á, giỏi cưỡi ngựa bắn cung đã lập nên đế quốc Nguyên Mông, đứng đầu
là Thành Cát Tư Hãn, đem quân đi xâm chiếm các nước trong đó có Việt
Nam. Quân Nguyên Mông đã 3 lần xâm lược nước Đại Việt nhưng đều thất
bại. Lần đầu là quân Mông Cổ (1258), hai lần sau (1285 và 1287-1288) là
quân Nguyên. Sau khi chiến thắng trong các cuộc kháng chiến này, các nhà
quân sự tài ba đã viết các tác phẩm nổi tiếng như Nam Quốc Sơn Hà (Lý
Thường Kiệt), Hịch Tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Đoạt sáo Chương Dương độ
của Trần Quang Khải… đã thể hiện rõ khí thế của dân tộc ta trước kẻ thù.
Vấn đề đặt ra cho chúng ta nghiên cứu là phải lý giải được tại sao trước
sự chiến thắng của dân tộc ta trước kẻ thù lớn mạnh lại tác động đến giáo dục
đặc biệt là ở thời đại Lý- Trần. Và khi lý giải điều này chúng ta sẽ xem xét
trên các khía cạnh sau đây:
Trước hết, sau khi giành được chiến thắng đã tạo ra một cơ sở to lớn
đưa đất nước hòa bình, tạo cơ sở để xây dựng và phát triển đất nước, trong đó
có giáo dục, đúng như quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội trong
học thuyết hình thái kinh tế- xã hội đã vạch ra: Chỉ khi nào con người ta có cái
ăn, ở hay những điều kiện cơ bản, tối thiểu thì người ta mới nghĩ đến vấn đề
làm chính trị, xã hội. Thật đúng là như vậy, một đất nước triền miên chiến
tranh thì sao có thể nghĩ được làm kinh tế, văn hóa, giáo dục và trên thực tế,
giáo dục cũng là một hình thái ý thức xã hội cho nên tất yếu phải phụ thuộc
vào tồn tại xã hội, triều đình có yên thì giáo dục mới được quan tâm đúng
mực. Vì thế, sự thắng lợi của quân dân Đại Việt thời Lý- Trần sẽ là điều kiện,
cơ sở nền tảng cho sự phát triển xã hội.
Mặc dù, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, sự chiến thắng của dân
tộc ta là cơ sở quyết định đến giáo dục, nhưng không có nghĩa giáo dục thụ
động, phụ thuộc hoàn toàn vào tồn tại xã hội, trong chiến tranh giáo dục sẽ là
một nhân tố quan trọng thúc đẩy tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm,
giành giữ độc lập, tự chủ trong dân tộc, và chính trong quá trình tiến hành
chiến tranh đó, những truyền thống lại được phát huy cao hơn nữa, đồng thời
mỗi một con người sẽ củng cố niềm tin hơn về tính chính nghĩa của dân tộc,
tạo điều kiện để đồng lòng quét sạch bè lũ cướp nước và bán nước. Ngoài ra,
chính giáo dục đã tạo ra những nhân vật lịch sử, những nhà lãnh đạo quân sự
thiên tài vạch chiến lược lãnh đạo tạo điều kiện để chiến thắng trước kẻ thù
lớn mạnh. Đặc biệt, những tư tưởng kháng chiến, những đường lối chiến lược
quân sự đã được đúc kết sau mỗi trận đánh. Dĩ nhiên, ông cha ta phải tìm cách
truyền lại những kinh nghiệm kháng chiến đó cho thế hệ đời sau làm theo, để
tiếp nối truyền thống dân tộc đánh giặc ngoại xâm. Để làm được điều đó
không có con đường nào khác là phải cần đến giáo dục, như vậy giáo dục
chính là cầu nối của các thế hệ, làm cho truyền thống dân tộc được nối tiếp
truyền từ đời này qua đời khác, tạo thành một dòng chảy không ngừng nghỉ.
Tóm lại, khi phân tích những điều kiện, cơ sở cho sự ra đời của nền giáo
dục Lý Trần, chúng ta có thể thấy đó là một sự tổng hợp nhiều yếu tố từ kinh
tế- chính trị- văn hóa- xã hội- quân sự. Tất cả những điều kiện này, buộc nền
giáo dục phải xuất hiện đúng thời điểm. Giáo dục không phải là một hiện
tượng tự nhiên mà có, mà nó phải bắt nguồn từ thực tiễn phục vụ cho nhu cầu
của thực tiễn, do thực tiễn quy định. Như vậy, từ sự phân tích này chúng ta có
thể rút ra những kết luận cơ bản sau đây:
Một là: giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội phong
kiến, xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến
Hai là: giáo dục là công cụ để điều hòa các mâu thuẫn giai cấp trong xã
hội phong kiến, là biện pháp mà giai cấp địa chủ quý tộc dùng để thống trị giai
cấp nông dân, nhằm bảo vệ quyền lực mà giai cấp phong kiến mới được hình
thành và phát triển.
Ba là: giáo dục đáp ứng những nhu cầu đúc rút kinh nghiệm lý luận và
thực tiễn tiến hành kháng chiến, qua giáo dục nêu lên những nguyên lý chung
cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Bốn là: nhằm bảo tồn, xây dựng và phát huy những nét đặc sắc trong
văn hóa dân tộc và nhân loại.
Năm là: giáo dục cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho công
cuộc xây dựng và phát triển quốc gia độc lập phong kiến dưới thời Lý- Trần.
1.3 Sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam thời Lý - Trần
Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở kinh thành, đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối và 72 người hiền của đạo Nho, cho thái
tử ra đó học. Giáo dục Nho học chính thức được thiết lập, đánh dấu sự phát
triển của nền giáo dục Việt Nam phong kiến.
Năm 1075 nhà Lý mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên.
Năm 1076 nhà Lý cũng mở kì thi viết, toán và luật để chọn người làm
lại viên và năm 1195 mở kì thi tam giáo đầu tiên.
Sau khi nhà Trần lên thay triều Lý đã lập tức mở khoa thi đầu tiên của
triều đại mình vào năm 1232.
Năm 1247 nhà Trần đặt lệ lấy Tam khôi (ba người đứng đầu: Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) và quy định 7 năm mới mở một khoa thi.
Năm 1255 vua Trần đặt lệ lấy hai trạng nguyên: 1 kinh (cho các tỉnh
phía Bắc) 1 trại (cho các tỉnh phía Nam) để khuyến khích việc học tập của các
tỉnh phía Nam. Tuy nhiên đến 1275 thì bác bỏ vì không cần thiết nữa.
Năm 1034 nhà nước quy định rõ ràng cho việc thi Đình, năm 1396 quy
định nội dung của kì thi Hương.
Như vậy, trên đây là toàn bộ quá trình hình thành và phát triển, ra đời
của nền giáo dục Việt Nam thời Lý- Trần, từ đó cho chúng ta có cái nhìn tổng
quát nhất những nhân tố cho sự ra đời của một hiện tượng xã hội trong một
thời kỳ lịch sử nhất định.
2. Đặc điểm giáo dục Việt Nam thời đại Lý- Trần
2.1 Giáo dục và tính chất của giáo dục Việt Nam thời Lý- Trần
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu hiện cho quá trình tác
động có mục đích, có tổ chức có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp
của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong cơ quan giáo dục, nhằm hình
thành nhân cách của họ.
Giáo dục thời đại Lí- Trần cũng là một hệ thống toàn diện liên quan đến
việc tổ chức quá trình tác động của người giáo dục đến người được giáo dục
trong hệ thống giáo dục thời Lí- Trần nhằm hình thành nhân cách cho con
người phù hợp với triều đại phong kiến và bảo vệ tư tưởng của giai cấp phong
kiến mới hình thành và phát triển.
Dựa trên quan điểm này ta có thể rút ra một số tính chất của giáo dục
Việt Nam thời Lí- Trần:
Tính phổ biến: ngay từ khi vương triều Lí xuất hiện, giáo dục đã ra đời,
nó trở thành một bộ phận không thể tách rời của triều đại Lí- Trần, giáo dục có
ở mọi triều đại, tính chất của giáo dục tồn tại theo sự tồn tại của triều đình.
Khi triều đại này thay thế triều đại khác, lực lượng xã hội này thay thế cho lực
lượng xã hội khác thì giáo dục cũng thay đổi theo. Ở mọi nơi mọi lúc đều có
thể diễn ra quá trình giáo dục.
Giáo dục mang tính xã hội, phụ thuộc vào xã hội. Ở mỗi một triều đại
có một đặc điểm kinh tế- xã hội khác nhau cho nên giáo dục cũng khác nhau.
Khi triều đại thay đổi thì nền giáo dục thay đổi theo sự thay đổi đó thể hiện ở
sự thay đổi về mục đích- nội dung- phương pháp hình thức tổ chức dạy học.
Các chính sách phát triển giáo cũng khác nhau.
Giáo dục mang tính giai cấp: giáo dục Việt Nam thời Lí- Trần rõ ràng
là nền giáo dục của giai cấp phong kiến quý tộc. Giáo dục được sử dụng như
một công cụ của giai cấp phong kiến nhằm duy trì lợi ích của giai cấp mình,
những lợi ích này có thể phù hợp hay không phù hợp với các tầng lớp khác, ở
từng thời điểm khác nhau cũng có sự phù hợp khác nhau. Lúc đầu giáo dục
Nho giáo chỉ dành riêng cho thái tử sau đó là con cái quý tộc và cuối cùng là
tầng lớp bình dân trong xã hội.
Ngoài ra giáo dục thời Lý- Trần còn mang tính kế thừa và phát triển.
Tính kế thừa thể hiện ở chỗ nó là sự tiếp nối sự giáo dục của truyền thống
trước đó, nhưng đồng thời nó được phát triển thêm tầng cao mới như việc
hoàn thiện hệ thống giáo dục, cơ chế thi cử, phát triển giáo dục Nho học… mà
những điều này trước đây chưa hề có, phải đến Lí- Trần thi Đình thi Hương
mới xuất hiện hay như Nho giáo thời điểm này mới có ảnh hưởng sâu rộng
trong xã hội và trong giáo dục.
2.2 Mục đích của nền giáo dục Việt Nam thời đại Lý- Trần
Mục đích giáo dục là một bộ phận của định chế xã hội của một thời kì
lịch sử xã hội cụ thể. Trong thời đại Lý- Trần mục đích giáo dục quân chủ
phong kiến nhằm đào tạo ra đội ngũ trí thức phục vụ cho việc củng cố vương
quyền của các triều đại phong kiến đào tạo ra con người bảo vệ hệ tư tưởng
phong kiến, thích ứng với chế độ xã hội đó.
Như trước chúng ta phân tích, giáo dục là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, chịu sự quy định của cơ sở hạ tầng, đồng thời kiến trúc thượng
tầng đó sẽ là lực lượng bảo vệ cơ sở hạ tầng hay các cơ quan sản xuất đã sinh
ra nó. Tuy nhiên giáo dục lại bao gồm các quan điểm, tư tưởng, mục đích giáo
dục cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như trường học, đội ngũ giáo
viên… và như thế, bộ phận quy định việc bảo vệ cơ sở hạ tầng của giáo dục
chính là mục đích giáo dục.
Để thực hiên mục đích ấy cần có mục tiêu giáo dục cụ thể. Nhìn một
cách khái quát ta thấy mục tiêu giáo dục phong kiến nói chung, và thời đại Lý
Trần nói riêng điều xác định rõ: tạo nên con người có đủ đức, đủ tài và phẩm
hạnh, hiểu dõ được hệ tư tưởng phong kiến (có thể Phật giáo sau đó là Nho
giáo), có đủ sức khỏe để tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức và chi thức
phong kiến, là con người tham gia tích cực các hoạt động chính trị-xã hội
tham gia vào công việc triều chính cứu nước, cứu đời.
Tuy nhiên ở đây cần phân biệt kỹ lưỡng khái niệm “con người” được
giáo dục. Dưới thời phong kiến khi xác định phạm trù “con người” không phải
là con người nói chung cũng không phải là toàn bộ quần chúng nhân dân lao
động, mà chủ yếu là bộ phận quý tộc, địa chủ. Mặc dù tư tưởng thân dân thời
kì này rất phát triển, in đậm trong thời kì chính trị- xã hội. Nhưng đối tượng
được hưởng nền giáo dục nền giáo dục này vẫn là tầng lớp trên của xã hội,
điều này ta thấy rõ khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam không được nhận, chỉ
lưu hành trong giới quý tộc phong kiến phương Bắc và một bộ phận là người
giàu có bản địa, sau này thông qua quá trình giao lưu trao đổi Nho Giáo dần
dần mới đi sâu vào đời sống Việt Nam và trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong
đời sống của dân Đại việt.
Như vậy, mục tiêu giáo dục của thời đại Lý- Trần không phải mục tiêu
của nên giáo dục quảng đại quần chúng mà chỉ mục tiêu giáo dục cho tầng lớp
trí thức, những tầng lớp trên của xã hội.
Đi sâu hơn nữa ta thấy hai Triều đại Lý- Trần bên cạnh những mục tiêu
giống nhau thì có những mục tiêu khác nhau. Mục tiêu này là điều kiện kinh
tế- chính trị, hoàn cảnh lịch sử khác nhau quy định.
Nếu như ở triều Lý, dân tộc được thống nhất, bắt đầu bắt tay vào công
việc xây dựng quốc gia, phong kiến độc lập, cả dân tộc háo hức, sẵn sàng
tham gia xây dựng và củng cố và phát triển đất nước, do đó mục tiêu giáo dục
trong thời kì này cũng khác, đòi hỏi phải đào ra tạo con người có tri thức vừa
có tinh thần xây dựng quốc gia độc lập, lấy việc xây dựng đất nước và bảo vệ
đất nước là mục tiêu hàng đầu, khi đó một con người tài giỏi là một con người
biết văn, vừa biết lòng trung thành với việc xây dựng triều đình mới.
Bước sang thời kì nhà Trần khi triều đại phong kiến dần dần dược củng
cỗ vững mạnh, giai cấp phong kiến cũng vững mạnh, đặc biệt là việc trải qua
ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, càng làm cho chính quyền phong
kiến vững trắc hơn, lúc này Nho giáo cũng trở thành hệ tư tưởng của triều
đình, cho nên mục tiêu Đào tạo con người cũng khác. Nhìn chung họ lấy ba
mục tiêu cơ bản sau:
Một là: người mang trong mình tinh thần chống giặc ngoại xâm bất
khuất, phải có “Hào Khí Đông A”.
Hai là: người phải nắm vững tứ thư ngũ kinh của Nho giáo kết hợp với
việc tìm hiểu Phật giáo và Đạo giáo, tức là nắm vững hệ tư tưởng phong kiến
của triều đình.
Ba là: người phải ra giúp nước, giúp triều đình các công việc của đất nước.
2.3 Nội dung giáo dục dưới thời Lý- Trần.
Giáo dục dưới thời Lý- Trần cũng nhằn mục đích nhằm đào tạo ra
những con người hoàn thiện phù hợp với những chuẩn mực của xã hội phong
kiến đương thời đưa ra.
Để có được con người như vậy, giáo dục dưới hai triều đại Lý- Trần tập
trung vào việc hoàn thiện nhân cách của con người trên nhiều khía cạnh như:
đạo đức, tri thức văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, thẩm mỹ, đặc biệt là
thấm nhuần tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời.
2.3.1 Nội dung giáo dục tư tưởng
Trước hết, giáo dục Việt Nam dưới hai triều đại Lý- Trần tập trung vào
việc tuyên truyền hệ tư tưởng phong kiến để tư tưởng đó thâm nhập nhập ngày
càng sâu vào trong đời sống của người Việt. Tuy nhiên, ở hai triều đại này
không phải lúc nào cũng độc tôn hệ tư tưởng, mà có sự đan xen tư tưởng của
các trường phái, và có lúc hệ tư tưởng này lớn mạnh thì tư tưởng của phái kia
yếu đi, đặc biệt ở dưới hai triều đại này đánh đấu sự chuyển hóa to lớn trong
cuộc sống dân tộc đó là hệ tư tưởng Phật giáo nhường bước độc tôn cho Nho
giáo. Do có sự chuyển biến to lớn này, đã kéo theo sự thay đổi to lớn trong hệ
tư tưởng dân tộc, đồng thời cũng kéo theo nội dung tư tưởng trong giáo dục
dưới hai triều đại này.
Ở thời Lý, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn, chúng ta biết được các nhà
vua rất coi trọng Phật giáo, ngoài việc xây dựng hệ thống nhà chùa rộng khắp
trên khắp đất nước, triều Lý còn tạo điều kiện để mở trường học nhà chùa,
truyền bá tư tưởng của đạo Phật vào trong dân gian, chi phối đến đời sống tâm
linh và tinh thần của người dân Việt.
Trong giáo dục nhà Lý, tư tưởng Phật giáo được đề cao đặc biệt là hệ tư
tưởng của các thuyết tư đế, duyên khởi, ngũ uẩn, thuyết vô thường, vô ngã.
Những tư tưởng phật giáo này đã được truyền tải nội dung giáo dục và
trở thành nội dung giáo dục quan trọng, đặc trưng cho nền giáo dục Phật giáo
ở thời Lí đầu nhà Trần. Mục đích của nội dung tư tưởng Phật giáo trong giáo
dục là nhằm đào tạo ra những con người mang đầy đủ những nét cơ bản của
Phật giáo.
Phật giáo vẽ ra quá trình tu luyện hoàn thiện bản thân để đại tới trạng
thái Niết bàn, nên một con người sống phải luôn luôn biết hoàn thiện bản thân
mình. Và hoàn thiện bằng cách tu thân tích đức, làm nhiều việc thiện, xóa bỏ
dục vọng, hướng tới điều tốt lành, tránh làm việc ác, gây tổn thương người
khác, có như vậy con người sẽ hạnh phúc, viên mãn. Đây là nội dụng cốt lõi
của Phật giáo, nhà Lý đã lấy nội dung này để giáo dục con người, khiến cho
người được giáo dục hướng thiện đẹp đạo. Tuy nhiên cũng nội dung này khiến
cho con người ảo tưởng thụ động, mất hết tinh thần đấu tranh, và con người
chịu an phận sống yên lành trong cuộc đời này. Khi người được giáo dục hiểu
được nội dung này sẽ tạo ra hành động tương ứng. Họ sẽ làm việc thiện, tốt
đời đẹp đạo và đồng thời họ cũng ủng hộ và đi theo triều đình, sống an phận
chấp nhận địa vị của mình trong xã hội. Mặc dù có nét tiêu cực như vậy nhưng
nôi dung tư tưởng này có giá trị to lớn, nó tạo nên xã hội an bình, tràn đầy tình
thương giữa người với người, mỗi người làm một việc tốt thì cuộc đời này sẽ
là một vườn hoa đẹp đầy hương thơm, chúng sinh nhân loại sẽ dược hạnh
phúc ngay cả trên trần thế này, chứ không chỉ ở thiên đàng nữa. Đây là một
nét đẹp trong giáo dục Phật giáo.
Nét đẹp trong giáo dục thời Lý còn được kế thừa và phát huy sang đầu nhà
Trần, các vua Trần cũng rất coi trọng vấn đề này. Tuy nhiên đến những năm cuối
nhà Trần thì Nho giáo ngày càng lớn mạnh và dần dần thay thế Phật giáo, chiếm vị
thế độc tôn của hệ tư tưởng dân tộc và trong nên giáo dục đất nước.
Ở đây, chúng ta nên phân tích quá trình chuyển biến, nguyên nhân của
chuyển đổi giữa hai hệ tư tưởng này trong giáo dục.
Nhìn từ phương diện Phật giáo: mặc dù Pphật giáo có rất nhiều ưu
điểm, nổi bật là tính hướng thiện, khuyên con người ta làm việc tốt, tránh làm
việc ác, nhưng Phật giáo không có hệ thống giáo dục đầy đủ cả về quy mô lần
nội dung, hình thức. Phật giáo giáo dục cho con người cho con người phải biết
sống lương thiện, hài hòa với thiên nhiên, nhưng nội dung đó chỉ mang tính
chất khuyên bảo được chỉ bảo nhưng không được tổ chức rõ ràng, không có
mục tiêu nhiệm vụ, nội dung, hình thức dạy học phù hợp, thống nhất.
Phật giáo mà chủ yếu là kinh phật hướng được giáo dục đến với những
điều răn dạy của đạo Phật bằng những câu chuyện gần gũi và phù hợp với môi
trường giáo dục trong gia đình nhiều hơn trong môi trường giáo dục khác.
Chúng ta coi tính thiện là cái “hồn” trong Phật giáo, nhưng như vậy vẫn chưa
đủ và chưa hoàn thiện nhân cách của con người một cách toàn thiện.
Xét trên phạm vi kinh tế- xã hội, Phật giáo cũng dần dần bị thay thế bởi
Nho giáo, Phật giáo không đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn của xã
hội . Nói một cách chân thực, nếu con người nhất nhất làm theo những điều
dăn dạy của phật thì chắc trắn rằng xã hội đó sẽ rất tốt đẹp, nhưng nhìn một
cách chung nhất là ta thấy toàn xã hội như không hề có sự khác biệt giữa các
cá nhân, thì xã hội đó khiến cho con người ta cảm thấy nhàm chán, ảm đạm,
thụ động không hề có một chút năng động, sáng tạo, nếu như vậy xã hội đó
cũng khồng hề trở thành một xã hội khỏe mạnh phù hợp với thực tiễn xã hội.
Và trên thực tế, lúc ấy người ta không thể làm được, thực hiện được một xã
hội mà như Phật giáo, vẽ ra, nó cần được thay đổi, để cá nhân có tiếng nói
riêng của mình, năng động khỏe mạnh hơn. Phật giáo đã không làm được điều
đó. Tồn tại xã hội đã tạo ra một nhu cầu bức thiết như vậy, nó kéo theo nhu
cầu đó phản ánh trong tất cả mặt của đời sống tinh thần của xã hội, trong giáo
dục. Như vậy sự thay đổi nội dung tư tưởng trong giáo dục cũng là tất yếu
khách quan, trong tình thế đó Nho giáo xuất hiện và đáp ứng phần nào đước
nhu cầu của xã hội.
Vậy nội dung tư tưởng của Nho giáo như thế nào mà thỏa mãn được
nhu cầu cầu thực tiễn xã hội đương thời như vậy. Đó là một vấn đề cần phải
giải quyết?
Trước hết ta cần thấy được một số nét cơ bản, tiền đề của Nho giáo, từ
đó có sự khác biệt so sánh với Phật giáo.
Nho giáo được hình thành từ một xã hội đối kháng giai cấp gay gắt,
truyền vào Việt Nam trong thời đại phong kiến đang lớn mạnh, nó chính là
công cụ cai trị đất nước của giai cấp phong kiến. Nếu Phật giáo hướng đến vấn
đề chính trị-xã hội hướng đến lợi ích sâu xa của các giai cấp, tập đoàn người
và xã hội, do đó không như Phật giáo hài hòa, ổn định Nho giáo cạnh tranh
hơn, khắc nhiệt hơn rất nhiều.
Phật giáo đi vào lòng người bằng tình thương, bằng nội tâm con người.
Còn Nho giáo đến Việt Nam bằng kỉ cương luật lệ, là sự áp đặt từ trên xuống
dưới, sự nhận thức đến hoạt động của con người không xuất phát tự sự tự giác
mà là sự ép buộc, quy định không thể thực hiện, trong Phật giáo khiến con
người ta có cảm giác nhẹ nhàng, thảnh thơi và tự giác thực hiện.
Cả hai cũng chỉ là những giải pháp để xoa dịu đi môi trường sống xã hội
nhưng rõ ràng hai hình thức là hoàn toàn khác nhau. Mặc dù Phật giáo đại đa
số quần chúng tiếp thu, nhưng xét lĩnh vực giai cấp thì Nho giáo là cái mới, là
cái tiến bộ hơn Phật giáo. Từ những cơ sở, điều kiện Nho giáo đã hình thành
cho mình những nét tư tưởng giáo dục cơ bản. Nhìn chung tư tưởng của Nho
giáo là tư tưởng của người thống trị đối với người khác, mang bản chất giai
cấp rõ ràng, có tính trên dưới, xét trên nhiều khía cạnh sau đây:
Tư tưởng chính trị: Nho giáo cho con người ta phải biết “trung quân”
đặt vua lên hàng đầu, phục tùng vua như một vị thần cao nhất. Vua cho sống
thì được sống, vua bảo chết thì phải chết. Đã là thần dân của vua thì phải biết
hi sinh vì triều đình, trung quân ái quốc, nhất nhất phải phục vụ triều đình, con
hoạt động chính trị như là mục đích cao nhất của con người. Học tập và giáo
dục cuối cùng phải đem ra phục vụ triều đình, cho đất nước. Do những nội
dung tư tưởng chính trị là nội dung xuyên suốt, cơ bản, cõi lõi trong giáo duc
Nho giáo.
Tư tưởng về xã hội: Nho giáo cho con người biết phân biệt người trên
người dưới, biết đối sử một cách khác nhau, giữa các tầng lớp người khác
nhau trong xã hội, là một người được giáo dục bằng nho giáo phải biết phục
tùng bề trên, chỉ bảo kẻ dưới. Đây là một nét đặc trưng tư tưởng rất cơ bản thể
hiện tính chất giai cấp trong giáo dục Nho giáo. Không chỉ tầng lớp cao quý
và xã hội mới giáo dục bằng nho giáo mà bản than tư tưởng giáo dục Nho giáo
cững phân biệt đẳng cấp xã hội như vậy, đồng thời đây cũng là một nét khác
biệt so với giáo dục Phật giáo.
Như vậy, dưới hai triều đại Lý- Trần hai hệ tư tưởng tiêu biểu nhất của
chế độ phong kiến Việt Nam được hình thành và phát triển, được đưa vào
trong giáo dục trở thành nội dung cơ bản, xuyên suốt nhất của giáo dục Lý-
Trần. Từ nội dung cơ bản này đã quy định đến các nội dung giáo dục khác
trong nền giáo dục thời đại Lý- Trần nói chung.
2.3.2 Nội dung giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống
giáo dục Việt Nam thời Lý Trần, là những tư tưởng quan điểm giáo dục cho
con người về đạo đức, lối sống, quan hệ, các lối ứng xử đối với người khác,
giáo dục cho con người về những đức tính cần có theo lễ giáo phong kiến, giai
cấp thống trị
Nội dung giáo dục đạo đức trong nền giáo dục Lý- Trần được thể hiện ở
nhiều khía cạnh sau đây:
Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì khái niệm đạo dức được hiểu theo
phương diện khác nhau, mặc dù hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo khác nhau,
như trong giai đoạn lịch sử này xét về mặt nội dung đạo đức trong thời đại Lý-
Trần dưới hai hệ tư tưởng: Phật giáo và Nho giáo có những điểm chung đó là
lòng yêu thương con người và sống hài hòa giữa con người với thiên nhiên
nhiên xã hội.
Trước hết đó là lòng yêu thương con người cả Phật giáo và Nho giáo
đều hướng tư tưởng của mình đến con người. Phật giáo với mục tiêu cuối cùng
là “giải thoát” đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người, Phật từ bi bác ái
mong muốn người thoát khỏi bể khổ trầm luân để đạt đến trạng thái niết bàn.
Do đó trong giáo dục của Phật giáo con người luôn luôn phải đặt chữ “thiện”
lên hàng đầu. Chỉ có “thiện” mà theo quy luật nhân quả mới đem lại con người
vượt qua biển khổ để đạt tới hạnh phúc. Khi con người làm việc nhân thiện, tu
thân tích đức thì con người sẽ thu được kết quả là cái thiện. Ngược lại nếu con
người làm điều trái, thì người đó sẽ gặp điều ác. Nên dù ai làm nghề gì, ở đâu,
trai hay gái, già hay trẻ đều phải lấy chữ “thiện” làm lẽ sống cho hoạt động
của mình, nội dung này trong Phật giáo được thể hiện rất rõ nét. Tuy nhiên,
kết quả của sự hướng thiện mà Phật giáo vẽ lại ở kiếp sau. Đây là tính chất
duy tâm của Phật giáo. Tuy nhiên, nếu gạt đi tính chất đó giáo dục tính hướng
thiện của Phật giáo lại có ý nghĩa to lớn, là nền tảng, là cội nguồn trong nội
tâm nhân cách của mỗi người sẽ không thể hoàn thiện nếu con người không có
chữ thiện trong mình.
Cũng như Phật giáo, trong giáo dục cuối đời Trần, Nho giáo đề cao con
người, chú ý đến con người.
Nếu trong Phật giáo có tính hướng thiện thì giáo dục Nho giáo đề cao
chữ Nhân. Nhân là lương thiện, cao đẹp, yêu thương con người. Người có chữ
Nhân là người hiểu được đạo trời, thấu được lòng người, được người đời trọng
dụng. như vậy dù chữ “thiện” hay chữ “nhân” thì cả hai đều có ý nghĩa cao
đẹp, nhân văn, đề cao lương chi của con người, thực chất cả hai đều là phương
pháp hành động cho con người. Người có nhân là người thiện, người thiện tức
phải thực hiện điều nhân, giữa hai diều này có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau. Chính điều này đã mang cho giáo dục dưới hai triều đại Lý- Trần
một nét đẹp truyền thống dân tộc đó là lòng yêu thương con người, vì con
người. Và cũng giống như Phật giáo, ngoài tính chất tốt đẹp đó trong giáo dục
Nho giáo còn gặp một hạn chế lớn. Đó là việc xem “nhân” không phải là nhân