Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

phát triển quan hệ thương mại việt - nga sau khi việt nam gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.22 KB, 102 trang )


Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga đã trải qua hơn một nửa thế
kỷ. Tình hữu nghị giữa nhân dân Nga và nhân dân Việt Nam được hình thành
từ những năm tháng khó khăn khi Việt Nam còn đang đấu tranh giành độc lập
tự do. Ngày hôm nay chúng ta có thể tự hào nói rằng, trong những chiến
thắng và thành quả lao động vinh quang của nhân dân Việt Nam có sự đóng
góp không nhỏ của nước Nga anh em. 55 năm trước, Liên Xô là một trong
những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao
với Việt Nam, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác
tốt đẹp giữa hai nước sau này.
Lịch sử cho thấy mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây, và
với Liên bang Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách
của thời gian và biến động của lịch sử. Khi hai nước thực hiện cải cách, cải tổ,
chuyển đổi cơ chế kinh tế, nhất là sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, quan hệ
Việt Nam - Liên bang Nga trong hầu hết các lĩnh vực đều bị chững lại và suy
giảm đáng kể. Tuy nhiên, sự đổi mới kinh tế ở hai nước, đặc biệt từ khi Tổng
thống Putin lên nắm quyền và sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, đã làm cho
quan hệ giữa hai nước chuyển sang một thời kỳ mới, từng bước được phục
hồi. Nền kinh tế Liên bang Nga thoát ra khỏi khủng hoảng và bắt đầu phát
triển tương đối ổn định, bên cạnh đó, Việt Nam cũng trở thành một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực và trên thế giới.
Điều này đã tạo cơ sở vững chắc cho việc khôi phục và phát triển quan hệ hợp
tác thương mại giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, Liên Bang Nga vẫn là một thị trường rộng lớn
có nhiều tiềm năng để Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất nhập khẩu, phát huy
được các lợi thế so sánh của mình. Mặt khác, đây cũng là thị trường truyền
thống của Việt Nam nên có nhiều thuận lợi hơn là khi xâm nhập vào các thị

trường mới. Chính vì lẽ đó, nghiên cứu về kinh tế Liên bang Nga và nhìn


nhận lại quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga cũng
như xem xét triển vọng của nó trong tương lai, tìm ra các phương hướng, biện
pháp nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, đưa quan hệ thương mại Việt -
Nga đi vào chiều sâu có hiệu quả hơn, tương xứng với tiềm năng to lớn của
hai nước là một vấn đề hết sức thiết thực, có ý nghĩa cấp bách, mang tầm
chiến lược lâu dài. Đây cũng là lý do em chọn đề tài “Phát triển quan hệ
thương mại Việt - Nga sau khi Việt Nam gia nhập WTO”.
2. Mục tiêu chính của đề tài
- Tìm hiểu về tình hình phát triển kinh tế Liên bang Nga trong thời gian
gần đây.
- Đánh giá thực trạng quan hệ thương mại Việt - Nga trong thời gian
qua.
- Nhận định và đánh giá triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Liên bang Nga khi Việt Nam gia nhập WTO.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình phát triển kinh tế, xuất
nhập khẩu, các chính sách thương mại của của Nga, đánh giá những thuận lợi,
khó khăn, dự báo triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước khi
Việt Nam gia nhập WTO.
Về thời gian nghiên cứu, đề tài tập trung vào quan hệ thương mại Việt
– Nga trong giai đoạn 1991 – 2006, đặc biệt là giai đoạn 2000 - 2006 và
những triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước khi Việt Nam
gia nhập WTO.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở áp dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê, tham
khảo qua tài liệu sách báo, Internet…

5. Nội dung khóa luận
Khoá luận gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về thương mại quốc tế và sự thay đổi trong
thương mại quốc tế của Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO
Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Liên bang Nga
Chương 3: Một số giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt - Nga
sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Do trình độ hiểu biết còn hạn chế cho nên khoá luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô
giáo.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo, những
người đã giảng dạy và truyền thụ những kiến thức quý báu cho em có hiểu
biết sâu rộng về nghiệp vụ chuyên môn của mình. Đặc biệt, em xin chân
thành cảm ơn cô giáo, ThS Nguyễn Tuyết Nhung đã tận tình chỉ bảo và giúp
đỡ em trong quá trình nghiên cứu, thu thập tài liệu và hoàn thành khoá luận
này.

Chương 1
Tổng quan về thương mại quốc tế và sự thay đổi
trong quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam
khi Việt Nam gia nhập WTO
I. Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế
1. Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức quan hệ kinh tế quốc
tế xuất hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới. Thương mại
quốc tế có một lịch sử hàng ngàn năm. Ngay từ khi loài người thoát khỏi cảnh
bộ lạc, bầy đàn thì đã xuất hiện nhu cầu trao đổi những vật phẩm giữa các
cộng đồng người, giữa các lãnh địa, và nhà nước ra đời. Trong nhiều nghiên
cứu khảo cổ ở các vùng khác nhau trên thế giới, người ta đã thấy những sản
phẩm đặc trưng ở vùng này, quốc gia này xuất hiện ở các vùng khác, quốc gia
khác. ở Việt Nam cũng vậy, người ta đã phát hiện những sản phẩm sứ Chu
Đậu (Hải Dương), lụa (Hà Đông) xuất hiện từ rất sớm ở nước ngoài. Ngay

từ hàng ngàn năm trước, người ta đã thấy những đội thương thuyền hùng
mạnh của nhiều quốc gia, con đường tơ lụa lịch sử vắt ngang từ á sang Âu là
những minh chứng sinh động cho sự phát triển trao đổi hàng hóa quốc tế.
Ngày nay thương mại quốc tế là xu hướng tất yếu và mang tính toàn cầu, là
điều kiện để phát triển của mỗi quốc gia. Có rất nhiều hàng hóa hiện nay là
sản phẩm quốc tế được tạo bởi những chi tiết được sản xuất từ rất nhiều quốc
gia khác nhau nhằm làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh.

Có nhiều khái niệm khác nhau về thương mại quốc tế. Song, xét về đặc
trưng thì thương mại quốc tế là việc mua bán, phân phối hàng hoá và dịch vụ
qua biên giới quốc gia. Cách hiểu này được sử dụng nhiều nhất khi nhìn vào
các chức năng của thương mại, tức là vai trò của thương mại như chiếc cầu
sản xuất. Nói một cách cụ thể hơn, thương mại quốc tế là quá trình trao đổi
hàng hóa, dịch vụ giữa các thương nhân trong và ngoài nước thông qua buôn
bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Thương mại quốc tế đem lại nhiều lợi ích
cho các quốc gia khi tham gia nhưng đồng thời cũng mang lại không ít trở
ngại, đặc biệt đối với những quốc gia đang và chậm phát triển.
Không phải ngẫu nhiên mà thương mại quốc tế ra đời và ngày càng
phát triển. Nhờ có phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất,
trong xã hội mới bắt đầu xuất hiện nhu cầu trao đổi hàng hóa giữa các chủ sở
hữu. Sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển theo chiều hướng đa dạng hóa
thì phạm vi chật hẹp của thị trường quốc gia là một lực cản không nhỏ đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, việc hàng hóa, dịch vụ vượt
qua đường biên giới quốc gia để thâm nhập vào những thị trường hấp dẫn
khác là một điều tất yếu.
Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hóa quốc tế về sản xuất
hàng hóa là nền tảng cơ sở hình thành thương mại quốc tế được thực hiện
dưới hai hình thức sau đây:
- Tự phát: Đây là đặc trưng của thời kỳ mà kinh tế chưa phát triển. Nó
nằm trong giai đoạn đầu của nền sản xuất xã hội, khi mà quan hệ giữa người

với người trong quá trình sản xuất còn mang tính hiện vật, tự cung tự cấp.
Phân công lao động quốc tế một cách tự phát tức là cá nhân, tổ chức vì những
lợi ích của riêng mình tiến hành tham gia vào chuyên môn hóa sản xuất kinh
doanh quốc tế trên cơ sở những quy luật kinh tế thị trường điều tiết. Sản xuất
ở đây không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn nhằm thỏa mãn nhu cầu
của thị trường quốc tế.

- Tự giác: Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi quốc
gia thì nhu cầu mở rộng thị trường ngày càng trở nên cấp bách. Đồng thời,
trình độ quản lý kinh tế càng được nâng lên, đủ khả năng quản lý và điều
hành nền kinh tế phức tạp hơn. Phân công lao động quốc tế một cách tự giác
thông qua những hiệp định, hiệp ước kinh tế, thương mại giữa các quốc gia
ngày càng phát triển, đặc biệt hiện nay trên thế giới đã và đang hình thành
một số thị trường chung của khu vực. Ví dụ như: Thị trường chung của Liên
minh Châu Âu (European Union - EU); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(Association of Southeast Asian Nations - ASIAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation - APEC)
Phân công lao động quốc tế một cách tự giác giúp chính phủ các nước điều
tiết một cách có hiệu quả nền kinh tế trên cơ sở xác định thế mạnh của từng
quốc gia nhằm tận dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên sẵn có, sức người sức
của của nước mình.
Chúng ta biết rằng, đứng trên giác độ tự nhiên cũng như các mối quan
hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo thì sự tồn tại của Trái Đất
được xem như một tổng thể thống nhất. Mỗi phần của Trái Đất nằm ở một vị
trí nhất định với những điều kiện đất đai, khí hậu khác nhau thuận lợi cho
phát triển một hoặc một số ngành kinh tế nhất định. Đồng thời sự phát triển
không đồng đều giữa các khu vực khác nhau trên Trái Đất về trình độ văn
hóa, khoa học kỹ thuật và tiềm lực kinh tế cũng là nguyên nhân dẫn đến phân
công lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Thực tế cho thấy, thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò rất quan

trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại quốc tế rất cần thiết cho mọi
quốc gia để hợp tác phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Xu
hướng chung trên thế giới là các quốc gia đều chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, vì mục đích hòa bình và hợp tác, phát triển kinh tế. Theo các đánh giá
gần đây, hiện nay thương mại quốc tế có xu hướng toàn cầu hóa, cạnh tranh

giữa các quốc gia, các tập đoàn, các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và ngày
càng phụ thuộc nặng nề vào sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhận thức
rõ bản chất của những lợi ích của thương mại điện tử và nguyên nhân phát
triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế là điều quan trọng và cần thiết đối với
việc hoạch định chính sách ngoại thương cho mỗi quốc gia nói chung.
2. Lợi ích kinh tế của các quốc gia khi tham gia vào thương mại
quốc tế
Thực tế đã chứng minh rằng, nhiều quốc gia với nền kinh tế “đóng” đã
sản xuất không hiệu quả và buộc phải chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế
mới. Mọi quốc gia không thể đầy đủ, ấm no nếu như không phát triển quan hệ
hợp tác kinh tế và thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế đóng vai trò thúc
đẩy hợp lý hóa cơ sở sản xuất trên phạm vi các khu vực, các quốc gia dựa trên
những điều kiện nguồn lực sẵn có về điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật,
chính trị và xã hội. Tác động của thương mại quốc tế đối với mỗi quốc gia thể
hiện ở một số mặt sau đây:
- Cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
hiếm hoi: Nghĩa là các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những hàng hóa mà
mình có lợi thế tuyệt đối và tương đối. Như vậy, năng suất lao động sẽ cao
hơn nhờ tận dụng những điều kiện tự nhiên thuận lợi, trình độ lành nghề của
lao động, trình độ quản lý điều hành của lãnh đạo, lợi thế kinh tế nhờ quy
mô Từ đó, chi phí sản xuất thấp hơn hoặc với chi phí sản xuất không thay
đổi sẽ tạo ra nhiều của cải cho xã hội hơn và sản xuất sẽ có hiệu quả hơn. Đây
là lợi ích quan trọng nhất của các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc
tế.

- Bù đắp sự thiếu hụt của các yếu tố sản xuất: Người ta xem xét các yếu
tố đất đai, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động của con người, vốn và công
nghệ kỹ thuật là cần thiết, không thể thiếu được với bất cứ một quá trình sản
xuất xã hội nào. ở các nước phát triển có quá nhiều vốn và công nghệ nhưng

lại thiếu các yếu tố sức lao động và và tài nguyên thiên nhiên. Ngược lại, ở
các nước đang phát triển lại dư thừa các yếu tố sức lao động và tài nguyên
thiên nhiên nhưng lại thiếu các yếu tố vốn và công nghệ. Việc trao đổi trong
thương mại quốc tế thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế phát triển, kéo theo
sự di chuyển các yếu tố trên giữa các quốc gia nhằm bù đắp sự thiếu hụt này.
Sự bù đắp nói trên, một mặt nhằm duy trì nền sản xuất xã hội, mặt khác còn
làm đa dạng hóa các sản phẩm, tối ưu hóa các chi phí cho quá trình sản xuất
và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của xã hội.
- Mở rộng khả năng sản xuất của mỗi quốc gia thông qua thị trường
quốc tế rộng lớn: Thị trường trong nước là thị trường ban đầu mà hầu hết các
doanh nghiệp nước đó hướng tới. Với các điều kiện về môi trường kinh doanh
trong nước đã trở nên quen thuộc, các doanh nghiệp có thể tiến hành kinh
doanh dễ dàng hơn so với tham gia vào thị trường quốc tế. Hoạt động kinh
doanh trong nước giúp doanh nghiệp tích lũy được vốn sản xuất, đây là yếu tố
quyết định việc mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Và thị trường
quốc tế có thể đáp ứng nhu cầu mở rộng đó. Có thể nói, thương mại quốc tế là
một trong những phương tiện để thúc đẩy quy mô sản xuất trong nước phát
triển nhằm hướng tới một thị trường quốc tế rộng lớn.
- Phát triển nguồn vốn cho nền sản xuất trong nước: việc tăng cường
xuất khẩu tạo ra nguồn cung cấp tài chính cho nhập khẩu sẽ góp phần thúc
đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đây là điều kiện vật chất quan trọng cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, xuất khẩu có
tác dụng kích thích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, qua đó kích thích lực
lượng sản xuất phát triển. Để đáp ứng nhu cầu cao của thị trường thế giới về
quy cách phẩm chất sản phẩm, một mặt phải đổi mới máy móc, thiết bị công

nghệ, mặt khác, người lao động phải được năng cao tay nghề và trình độ
chuyên môn, còn người quản lý phải không ngừng nâng cao hiểu biết và trình
độ quản lý của mình.

- Đa dạng hóa tiêu dùng của xã hội: Tiêu dùng là mục đích của sản
xuất. Tiêu dùng với tư cách là một yếu tố của quá trình tái sản xuất xã hội, nó
chịu sự tác động quyết định của sản xuất nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng
mạnh mẽ tới sản xuất. Ngày nay, sự phát triển của thương mại quốc tế đã làm
cho tình trạng tiêu dùng xã hội có nhiều biến đổi quan trọng. Sự thay đổi đó
đặt ra những yêu cầu cao hơn cả về số lượng và chất lượng, kiểu dáng và mẫu
mã hàng hóa tiêu dùng trong nước. Ngoài ra, hàng hóa từ bên ngoài xâm nhập
vào thị trường nội địa thông qua hoạt động nhập khẩu làm cho chủng loại
hàng hóa trở nên đa dạng, phong phú, người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa
chọn hơn. Đặc biệt, những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản
xuất với chi phí cao thì việc nhập khẩu sẽ góp phần bổ sung sự thiếu hụt cho
nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu và mức sống ngày càng cao của nhân dân.
Không chỉ có người tiêu dùng mới có quyền lựa chọn mà các nhà sản xuất
cũng có quyền lựa chọn những nguồn nguyên liệu rẻ hơn, chất lượng tốt hơn
để làm ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao hơn.
- Nâng cao uy tín và vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế: Khi tham
gia vào thương mại quốc tế, không chỉ mối quan hệ kinh tế quốc tế của một
quốc gia được phát triển như: xuất khẩu hàng hóa, nhập khẩu hàng hòa, du
lịch, đầu tư, tài chính mà các mối quan hệ phi kinh tế như: chính trị, văn
hóa, xã hội, giáo dục cũng được hợp tác phát triển. Đến lượt nó, một mặt
đây là các nhân tố thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển hơn một bước
do có sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, mặt khác làm rõ hơn vai trò của
quốc gia đó trong tất cả các quan hệ quốc tế. Từ đó sẽ nâng cao được hình ảnh
của quốc gia trên thị trường quốc tế.
II. Cơ hội và thách thức TRONG QUAN Hệ THƯƠNG MạI QuốC Tế khi Việt
Nam gia nhập WTO

1. Vài nét về WTO
1.1. Lịch sử hình thành WTO

Tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là Hiệp định chung
về thuế quan và mậu dịch GATT (The General Agreement On Tariff and
Trade - GATT). GATT được thành lập năm 1947 với 23 nước tham gia như
là những nước sáng lập viên, cùng nhau xây dựng các Hiệp định về thuế quan
và thương mại. Các Hiệp định của GATT bắt đầu có hiệu lực từ tháng
11/1948 và đến hết năm 1994, GATT đã trải qua 8 vòng đàm phán thương
mại.
Ngày 15/4/1994 tại Marrakesh (Maroc) các nước thành viên của GATT
đã ký hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới. Như vậy WTO đi vào
hoạt động từ ngày 1/1/1995 là một tổ chức hoạt động độc lập với Liên hợp
quốc.
1.2. Mục tiêu của WTO
WTO kế thừa các mục tiêu của GATT đã đề ra, tức là quan hệ giữa các
nước thành viên trong thương mại về kinh tế sẽ được tiến hành nhằm:
- Nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên.
- Bảo đảm tạo đầy đủ việc làm, đảm bảo tăng trưởng vững chắc thu
nhập và nhu cầu thực tế.
- Mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hóa.
1.3. Chức năng của WTO
Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, tổ chức này có 5 chức năng
cơ bản như sau:
- Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và tiến hành các mục tiêu của
Hiệp định này và các Hiệp định Thương mại đa biên khác, cũng như các hiệp
định nhiều bên.
- Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các nước thành viên về quan hệ
thương mại giữa các nước, về vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định
WTO và thực thi kết quả các cuộc đàm phán đó.


- Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên trên cơ sở Quy định
và Thủ tục giải quyết tranh chấp.
- Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua cơ chế rà soát
chính sách thương mại.
- Nhằm đạt được một sự nhất quán hơn nữa trong việc hoạch định
chính sách toàn cầu, khi thích hợp WTO sẽ phối hợp với IMF, WB và các cơ
quan của tổ chức này.

1.4. Nguyên tắc cơ bản của WTO
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và nguyên tắc tương đối
phức tạp, bao gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác
nhau điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các
văn bản đó đều được xây dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cơ bản của WTO:
1.4.1. Thương mại không có sự phân biệt đối xử
Nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định về chế độ Đãi ngộ
Tối huệ quốc và Đãi ngộ quốc gia:
- Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN)
Đãi ngộ Tối huệ quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO được nêu
trong Điều I - Hiệp định GATT, Điều II - Hiệp định TRIPS. Theo nguyên tắc
MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy
định khác đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên khác (hoặc
hàng hóa xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng,
không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành
cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hoặc bất kỳ một
ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản
phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức
và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một
số ngoại lệ của nguyên tắc này.
- Đãi ngộ Quốc gia (NT)

Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được
phép áp dụng phân biệt đối xử giữa các thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu
một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hóa nhập khẩu và
hàng hóa tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ
một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải
quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng đối xử không kém ưu
đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước.

Nguyên tắc MFN và NT lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực
thương mại hàng hóa, sau khi WTO ra đời thì nó được mở rộng cả sang
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các
lĩnh vực khác, tuy vậy mức độ áp dụng của quy tắc này trong các lĩnh vực là
khác nhau. Là những cấu thành cơ bản của nguyên tắc không phân biệt đối xử
giữa các thành viên Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), tuy nhiên, trong các
quy định của WTO, yêu cầu này được áp dụng ở mức độ khác nhau tùy theo
từng lĩnh vực:
+ Trong thương mại hàng hóa: MFN và NT được áp dụng tương đối
toàn diện và triệt để;
+ Trong thương mại dịch vụ: MFN và NT cũng được áp dụng với
những lĩnh vực mà một thành viên đã cam kết mở cửa thị trường, với những
lĩnh vực dịch vụ còn duy trì hạn chế thì việc dành MFN và NT tùy thuộc vào
kết quả đàm phán các cam kết cụ thể;
+ Trong lĩnh vực đầu tư: WTO chưa có một hiệp định đầu tư đa biên,
mới đạt được hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và
quy chế MFN và NT chỉ giới hạn ở hiệp định này. Tuy nhiên, trong luật pháp
đầu tư nước ngoài của các nước, quy chế MFN và NT được áp dụng phổ biến
trên nhiều lĩnh vực;
+ Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: các đãi ngộ quốc gia trên đã được thể
chế hóa cụ thể và phổ biến trong các công ước quốc tế liên quan đến sở hữu
trí tuệ.

1.4.2. Chỉ bảo hộ bằng thuế quan
Trong WTO, việc bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị ngăn
cấm. Tuy nhiên, WTO đưa ra một nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện
bảo hộ chủ yếu thông qua thuế quan chứ không được sử dụng các biện pháp
thương mại khác. Mục tiêu của nguyên tắc này là để đảm bảo sự minh bạch
của việc bảo hộ và giảm thiểu những tác dụng bóp méo thương mại phát sinh.

1.4.3. Tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại
Một nguyên tắc cơ bản của WTO là các nước thành viên có nghĩa vụ
đảm bảo tính ổn định cho thương mại quốc tế thông qua việc các nước ràng
buộc thuế quan của mình. Các nước chỉ có thể tăng thuế quan sau khi đã tiến
hành đàm phán lại và đã đền bù thỏa đáng cho lợi ích các bên bị thiệt hại do
việc tăng thuế đó.
Để đảm bảo nguyên tắc này các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ
phải minh bạch hóa các quy định thương mại của mình, phải thông báo mọi
biện pháp đang sử dụng và ràng buộc chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi
theo chiều hướng bất lợi cho thương mại, nếu thay đổi được phải thông báo,
tham vấn và bù trừ hợp lý). Tính dự báo được nhằm giúp các nhà kinh doanh
nắm rõ tình hình hiện tại cũng như xác định được cơ hội của họ trong tương
lai. Nguyên tắc này giúp cho môi trường kinh doanh có tính ổn định và lành
mạnh.
1.4.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng
WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do,
công bằng và không bị bóp méo. Tất cả các hiệp định của WTO như về nông
nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường
cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các quốc gia.
1.4.5. Hạn chế số lượng hàng nhập khẩu
Theo quy định của WTO, các nước sẽ loại bỏ được tất cả các hạn chế
số lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên WTO cũng cho phép các nước
thành viên được áp dụng hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ

như:
- Nước nhập khẩu gặp phải khó khăn về cán cân thanh toán;
- Có căng thẳng về ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát
triển tăng mạnh hoặc do các nước này thiết lập hoặc mở rộng sản xuất trong

nước). Khi các nước áp dụng các ngoại lệ này, các hạn chế số lượng phải
được áp dụng trên cơ sở không có sự phân biệt đối xử.

1.5. Bộ máy tổ chức của WTO
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, nhóm
họp ít nhất hai năm một lần.
Giữa hai kỳ hội nghị, Đại hội đồng (bao gồm đại diện có thẩm quyền
của tất cả các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị
Bộ trưởng. Đại Hội đồng đồng thời đóng vai trò là một “cơ quan giải quyết
tranh chấp” và “cơ quan rà soát chính sách” của WTO. Dưới Đại hội đồng là
Hội đồng về thương mại hàng hóa, Hội đồng về thương mại dịch vụ và Hội
đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
Giữa hai kỳ hội nghị, Đại hội đồng (bao gồm đại diện có thẩm quyền
của tất cả các thành viên) có chức năng thường trực và báo cáo lên Hội nghị
Bộ trưởng. Đại Hội đồng đồng thời đóng vai trò là một “cơ quan giải quyết
tranh chấp” và “cơ quan rà soát chính sách” của WTO. Dưới Đại hội đồng là
Hội đồng về thương mại hàng hóa, Hội đồng về thương mại dịch vụ và Hội
đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Các
hội đồng trên chịu trách nhiệm điều hành việc thực thi hiệp định WTO về
từng lĩnh vực thương mại tương ứng. Tham gia các Hội đồng là đại diện của
các thành viên.
- Hội đồng hàng hóa điều hành công việc của 11 ủy ban và cơ quan
giám sát hàng dệt.
- Hội đồng dịch vụ gồm các ủy ban về dịch vụ tài chính và ủy ban về
các cam kết cụ thể. Ngoài ra còn có các nhóm công tác chuyên trách một số

lĩnh vực.
- Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở
đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng
thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với nhiều tổ chức khác,
mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các
thành viên có giá trị ngang nhau.

2. Cơ hội và thách thức trong quan hệ thương mại quốc tế khi Việt
Nam gia nhập WTO
2.1. Cơ hội
2.1.1. Khắc phục tình trạng bị phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế
Tiến trình hội nhập WTO của Việt Nam thời gian qua cho thấy, việc
tham gia vào tổ chức này đã tạo cho Việt Nam một vị thế mới trong quan hệ
thương mại quốc tế, được hưởng những ưu đãi thương mại, khắc phục được
tình trạng bị phân biệt đối xử ở một số thị trường trọng yếu. Với tư cách là
nước thành viên WTO, Việt Nam được hưởng các ưu đãi trong thương mại
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên giành cho nhau thông qua
Chế độ đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), Chế độ Đãi ngộ quốc gia (NT), tránh
được tình trạng bị phân biệt đối xử, gây bất lợi trong quan hệ thương mại
quốc tế. Với tư cách là một nước đang phát triển ở trình độ phát triển thấp,
Việt Nam còn được hưởng những ưu đãi riêng về miễn trừ, ân hạn trong việc
thực hiện các nghĩa vụ thành viên cũng như trong việc tiếp cận thị trường để
bán các xản phẩm của mình. Việt Nam có thể sử dụng các cơ chế giải quyết
các tranh chấp của WTO để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong
trường hợp có tranh chấp thương mại với các nước thành viên, đặc biệt khi
nước thành viên đó là cường quốc về kinh tế.
Việc tham gia thể chế hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội thuận lợi để
ta tham gia xây dựng những luật chơi chung, ngăn ngừa tình trạng bị phân
biệt đối xử, chèn ép trong thương mại quốc tế, góp tiếng nói chung đấu tranh
bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển. Đặc biệt, tiến trình này sẽ tạo cơ

hội cho các nước nhỏ, các nước chậm phát triển có cơ hội đối thoại chính sách
với các nước phát triển hơn, hoặc phối hợp quan điểm với các nước khác trên
các diễn đàn quốc tế nhằm giải tỏa các rào cản thương mại, đấu tranh đòi đối
xử công bằng trong thương mại.

2.1.2. Có cơ hội mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu
Hội nhập thị trường sâu và rộng hơn góp phần nâng cao khả năng tiêu
thụ hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam. Tham gia WTO, Việt Nam được tham
gia vào một hệ thống thương mại rộng mở, tự do và bình đẳng, có cơ hội tiếp
cận thị trường trên 150 quốc gia với những hàng rào thương mại ngày càng
được hạ thấp, được hưởng các cam kết ưu đãi, mở cửa thị trường hàng hóa và
dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên dành cho nhau thông qua kết quả các
vòng đàm phán tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để chúng ta tranh thủ những ưu
đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ
mỗi tổ chức, góp phần mở rộng thị trường cho hàng hóa Việt Nam, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh quốc gia, nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam. Đặc biệt, Tổ chức
thương mại thế giới WTO cũng như các tổ chức kinh tế khu vực khác đều có
những chính sách ưu đãi với các nước phát triển và các nước đang trong thời
kỳ chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ trong việc
thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế, phi thuế và các nghĩa vụ khác. Các nước
đang phát triển sẽ được hưởng những đối xử ưu đãi về mức độ cam kết mở
cửa và về thời hạn thực hiện các nghĩa vụ hoặc các điều kiện ưu đãi hơn trong
việc tiếp cận thị trường để bán các sản phẩm của mình.
Theo quy định của WTO, các nước phát triển phải hạn chế sử dụng
hàng rào mới đối với xuất khẩu ban đầu và các loại xuất khẩu có tầm quan
trọng đặc biệt từ các nước kém phát triển hơn. Trong nhiều trường hợp, các
nước đang phát triển cũng được miễn trừ nghĩa vụ có đi có lại trong quan hệ
thương mại với các nước đang phát triển. Việc mở cửa hội nhập sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập vào thị trường các
nước khu vực và trên thế giới. Trong WTO đã thực hiện nhiều vòng đàm phán
để tự do hóa thương mại, mức độ rủi ro mà các thành viên đạt được cho tới

nay khá sâu rộng, khi gia nhập, theo nguyên tắc tối huệ quốc, Việt Nam sẽ
được tiếp cận mức độ tự do hóa này mà không phải đàm phán hiệp định song
phương với từng nước. Hàng hóa của ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình
đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Như vậy, việc
gia nhập vào WTO tạo được môi trường thông thoáng cho phát triển kinh tế,
mở rộng thị trường về mọi mặt, đặc biệt là cho hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam với những mặt hàng có ưu thế như: gạo, cà phê, hàng dệt may, giày dép,
thủ công mỹ nghệ
2.1.3. Tăng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
cao từ các nước
Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế
quản lý theo quy định của Tổ chức thương mại thế giới, môi trường kinh
doanh của nước ta ngày càng trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước cũng
như các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là tiền đề quan trọng để không những
phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn góp phần
thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất
và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn
việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Mặt khác, việc lưu thông ngày càng tự do hơn hàng hóa, dịch vụ, vốn,
nhân công giữa nước ta với các nước khác cho phép nhiều doanh nghiệp và
cá nhân Việt Nam thâm nhập và mở rộng thị trường làm ăn ở nước ngoài, đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh tại các thị trường đó nhằm thu hiệu quả lớn
hơn. Thực tế những năm gần đây, ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ở các nước với tổng số vốn lên tới hàng trăm triệu USD. Cùng với tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn, đầu tư của Việt Nam sang các
nước sẽ tăng mạnh trong những năm tới.

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ lâu đã trở thành động lực tăng
trưởng sản xuất công nghiệp của Việt Nam. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư
nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tác động tích cực như: tăng
mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý
trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị sản phẩm và
phục vụ khách hàng.
2.1.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế
Hội nhập WTO thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đầu tư
của ta để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh
nghiệp. Nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế là yêu cầu
sống còn của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng
yêu cầu đó, chúng ta phải tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung
nhiều hơn vào những ngành kinh tế cho phép phát huy lợi thế của ta.
Ngoài ra, tự do hóa thương mại trong bối cảnh hội nhập vào xu thế toàn
cầu hóa kinh tế sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước có thể dễ dàng
thâm nhập vào thị trường của các nước khác, nhất là các quốc gia là thành
viên của WTO. Điều này gây sức ép đối với doanh nghiệp Việt Nam và các
doanh nghiệp nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam, các doanh
nghiệp phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng
động hơn trong việc tạo ra sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành sản phẩm và cải tiến dịch vụ chăm sóc khách hàng Cạnh tranh
lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp Việt Nam hoàn thiện hơn, chỉ có các doanh nghiệp thực sự đủ mạnh,
hoạt động hiệu quả mới có thể đứng vững trên thị trường, còn các doanh
nghiệp yếu kém tất yếu sẽ bị loại bỏ. Mặt khác, do tính cạnh tranh gay gắt,

các doanh nghiệp sẽ tìm cho mình ngành nghề, quy mô kinh doanh và mặt

hàng phù hợp, điều đó sẽ làm cho cơ cấu ngành nghề thay đổi, trên thị trường
xuất hiện nhiều nhà phân phối lớn, người tiêu dùng sẽ được hưởng những
dịch vụ có chất lượng cao. Do đó, tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng
cao hơn.
Hội nhập WTO tạo điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp của ta
tiếp cận được các nguồn cung cấp đầu vào cho sản xuất kinh doanh với giá
cạnh tranh, từ đó giảm đáng kể chi phí sản xuất kinh doanh. Do được hưởng
các ưu đãi thương mại và đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ vượt qua
được các khó khăn, rào cản để tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất kinh doanh với giá cả cạnh tranh, đặc biệt là các yếu tố quan trọng như:
- Các nguồn tín dụng đa dạng và thị trường vốn cả ở trong và ngoài
nước
- Các thị trường cung cấp thiết bị, máy móc, công nghệ và nguyên vật
liệu, chuyên gia, tư vấn kỹ thuật cần thiết cho sản xuất kinh doanh.
- Các đối tác nước ngoài để liên doanh, liên kết trong quá trình sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm.
2.1.5. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế
Gia nhập WTO góp phần nâng cao uy tín quốc tế của nước ta, có được
vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế
mới công bằng hơn, bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp nhằm
tránh những điều kiện bất lợi, sự phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại
quốc tế và trong xử lý các vấn đề quốc tế có liên quan đến lợi ích của ta.
Ngày nay các nước đều nhận thức rằng, các lực lượng thị trường xuyên
quốc gia với sức mạnh được thể chế hóa qua các định chế kinh tế, tài chính
quốc tế đã và đang xác định “luật chơi chung”. Do vậy, hội nhập kinh tế quốc
tế là một tất yếu khách quan đối với tất cả các quốc gia. Mục tiêu chung của
GATT/WTO từ khi ra đời đến nay là nhằm xây dựng những luật lệ, nguyên


tắc, khuôn khổ và chuẩn mực chung nhằm điều tiết, tạo dựng môi trường công
bằng và thuận lợi cho thương mại quốc tế phát triển. Khi gia nhập WTO, Việt
Nam có cơ hội tham gia vào các cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các
nhu cầu về thị trường vì các quyền lợi chính đáng của mình. Như vậy, Việt
Nam có điều kiện, có cơ hội góp tiếng nói vì lợi ích các nước đang phát triển,
nắm bắt tốt hơn các xu thế quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế
thương mại của các nước khác, từ đó xác định hướng điều chỉnh phù hợp với
tiến trình chung và khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất cho mình.
Ngoài ra, hội nhập WTO góp phần giữ vững hòa bình và ổn định khu
vực và thế giới thông qua vai trò điều hòa lợi ích và ràng buộc trách nhiệm
giữa các nước trong khuôn khổ của WTO, hạn chế cách hành xử có tính độc
lập gây xung đột giữa các quốc gia thành viên. Như vậy, tham gia hội nhập
WTO, Việt Nam không những đứng trước những cơ hội lớn của một thị
trường thế giới rộng mở với tiềm năng lớn về khoa học công nghệ cũng như
về vốn mà Việt Nam đang rất cần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước mà còn giúp cải thiện, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan
hệ kinh tế quốc tế.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc hội nhập WTO
mang lại, cần nhận thấy những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là
trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý
nhà nước còn yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn
nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa nội lực của đất
nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính
quá trình hội nhập.
2.2. Thách thức
2.2.1. Trình độ phát triển của ta còn thấp và lạc hậu
Hiện nay gần 70% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho
đến nay nền kinh tế nước ta thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong


đó khu vực nông nghiệp chiếm 25,4% GDP, công nghiệp chiếm 34,5% và
dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ trọng khu vực
nông nghiệp giảm mạnh, chỉ còn khoảng 3% GDP, công nghiệp cũng giảm
dần chỉ còn khoảng 20% và khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển, nhất là
lĩnh vực thông tin. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu hết các doanh nghiệp lạc
hậu so với mức trung bình của thế giới là 2-3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực từ
4-5 thế hệ. Chính vì vậy, năng suất lao động của Việt Nam thấp, sản phẩm
làm ra có giá thành cao, do đó, sức cạnh tranh còn yếu ngay cả ở thị trường
nội địa, để cho hàng hóa Trung Quốc với chất lượng tương đối tốt, giá rẻ hơn
có cơ hội chiếm lĩnh thị trường của ta.
2.2.2. Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và đội ngũ các nhà doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu kém
Năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định trong việc mở rộng thị
trường, hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền
vững cho cho thương mại của mỗi quốc gia. Trong WTO và cũng như trong
thương mại quốc tế, yếu tố chủ yếu quyết định sự thắng lợi trên thương
trường là sức cạnh tranh. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của
Việt Nam còn yếu do chất lượng thấp, giá thành cao, chưa đáp ứng được sự
phát triển đa dạng về thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường trong nước
cũng như thị trường nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp chậm chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, đổi mới phương thức quản lý, đổi mới công nghệ. Một số doanh
nghiệp chưa coi trọng quảng bá thương hiệu chưa tìm cách phát huy lợi thế so
sánh, còn thụ động trong chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu.
Theo đánh giá của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước gần
đây thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều ngành
sản xuất đã có nhiều bước tiến đáng kể nhưng nhìn chung vẫn còn tương đối
thấp, thể hiện ở các mặt sau:

- Năng suất lao động chưa cao.

- Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp.
- Trình độ công nghệ và khả năng tiếp cận với công nghệ còn hạn chế.
- Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định và bền vững.
Các doanh nghiệp phải chịu gia tăng sức ép cạnh tranh của các hàng
hóa nhập khẩu và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ngay tại thị trường nội
địa. Bởi vì khi gia nhập WTO, thị trường nội địa phải mở cửa, các rào cản
thuế quan cũng như phi thuế quan bị giảm bớt và loại bỏ, các doanh nghiệp
nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hóa dịch vụ như
doanh nghiệp trong nước trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử. Bên
cạnh đó, các hình thức hỗ trợ truyền thống rất phổ biến của nhà nước cho các
doanh nghiệp trong nền kinh tế bao cấp như: trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tín dụng
xuất khẩu ưu đãi, thưởng xuất khẩu, độc quyền kinh doanh cũng phải từng
bước cắt giảm, xóa bỏ. Trong khi các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu do nước
ngoài cung cấp đa dạng, phong phú với chất lượng cao và giá cả thấp hơn,
nhà cung cấp có nhiều vốn, dày dặn kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế,
dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhà nước có nguy cơ bị mất thị phần của mình,
thậm chí phá sản.
Tự do hoá thương mại, xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài thì doanh nghiệp chỉ thật sự có lợi
khi hàng hoá do các doanh nghiệp sản xuất trong nước sản xuất có sức cạnh
tranh cao. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
chỉ có hơn 30% số doanh nghiệp kinh doanh có lãi, hơn 40% số doanh nghiệp
hoà vốn, còn lại là thua lỗ. Với thực trạng kinh doanh như vậy, nếu không
nhanh chóng cơ cấu lại tổ chức và hoạt động, tăng cường khả năng tích tụ và
tập trung vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý và định chế tài chính của doanh
nghiệp… thì khó tránh khỏi sự đào thải của cạnh tranh thị trường. Thực trạng
về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay đòi hỏi Nhà nước có chính

sách bảo hộ hợp lý với quá trình hội nhập và mở cửa thị trường. Tuy nhiên,
đối chiếu với cơ chế của WTO mà chúng ta là thành viên không cho phép

chúng ta bảo hộ vô thời hạn, bảo hộ tràn lan các ngành kinh tế. Đây chính là
thách thức to lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt hiện nay.
Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế tạo điều kiện để hàng hóa và dịch vụ
Việt Nam có thêm cơ hội xâm nhập thị trường quốc tế thông qua các nguyên
tắc về đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và đãi ngộ quốc gia (NT), nhưng sức cạnh
tranh của hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam còn chưa cao nên cơ hội thâm
nhập thị trường quốc tế mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng, trong khi đó hàng
hóa và dịch vụ nước ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện xâm nhập
vào thị trường Việt Nam.
2.2.3. Đổi mới trong nước chưa theo kịp với yêu cầu của hội nhập
WTO
- Cơ cấu đất nước chậm chuyển đổi: Cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn
tồn tại nhiều vấn đề bất lợi trong bối cảnh hội nhập, nhất là nước ta đang
quyết tâm trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020. Do vậy, nước ta
đang đứng trước đòi hỏi gay gắt phải nhanh chóng đổi mới cơ cấu kinh tế.
Bảng 1: Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước
Đơn vị: %
Năm
Khu vực
2001 2002 2003 2004 2005
Nông, lâm, thủy sản 23,24 23,03 22,54 21,76 20,06
Công nghiệp, xây dựng 38,13 38,49 39,47 40,09 41,0
Dịch vụ 38,63 38,48 37,99 38,15 38,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Hội nhập là tăng sự phụ thuộc giữa các nền kinh tế và sâu sắc hóa sự
phân công lao động quốc tế, các nước đều tìm cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế

×