LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển
mạnh mẽ của kinh tế thế giới, hiện nay việc mở rộng các mối quan hệ kinh
tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. Đây là một quá trình khai thác các
nguồn lực phát triển bên ngoài để phát huy nội lực của nền kinh tế các nước
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Việt Nam cũng vậy, với một nền kinh tế đang phát triển thì thương
mại quốc tế đã tạo điều kiện cho Việt Nam tận dụng và phát huy lợi thế so
sánh của mình. Đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giúp tăng
nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm,
thúc đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH đất nước; đồng thời góp phần nâng
cao vị trí của Việt Nam trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện để Việt
Nam tham gia bình đẳng trong các hoạt động giao lưu và quan hệ kinh tế
quốc tế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện đa dạng hoá thị
trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế các nước trong khu vực và trên thế
giới, gia nhập các tổ chức, các hiệp hội kinh tế khi cần thiết và có điều
kiện. Đặc biệt là đối với các nước láng giềng có điều kiện thuận lợi về vị trí
địa lý, tương đồng về văn hoá... như Trung Quốc, Thái Lan, Singapo...
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “ núi liền núi, sông
liền sông”. Quan hệ ngoại giao, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình
thành từ lâu, như một tất yếu khách quan và là mối quan hệ truyền thống
bền vững. Những biến động chính trị, xã hội trong lịch sử có những ảnh
hưởng tiêu cực nhưng chưa bao giờ triệt tiêu hoàn toàn mối quan hệ giữa
nhân dân hai nước. Chính vì vây, sau một thời kỳ sóng gió, với sự nỗ lực
của cả hai bên quan hệ đã trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ
đó đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ thương mại nói
riêng đã phát triển ngày càng mạnh, bền vững và đang trở thành một trong
“bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam”.
1
Trong qua trình học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên ngành,
quan tâm đến vấn đề “ Việt Nam trước thềm hội nhập khu vực và quốc tế”
và ý thức được sự cần thiết của sự phát triển quan hệ thương mại Việt Nam
- Trung Quốc nên em quyết định chọn đề tài: “ Một số khuyến nghị phát
triển quan hệ thương mại Việt Nam- Trung Quốc”. Qua đề tài em chỉ
mong muốn đưa ra một góc nhìn nhỏ về quan hệ thương mại giữa hai nước
trong thời gian qua và một số khuyến nghị phát triển cho tương lai. Nội
dung của đề tài bao gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về thị trường Trung Quốc và sự cần thiết mở
rộng mối quan hệ thương mại Việt Nam- Trung Quốc.
Chương II: Thực trạng mối quan hệ thương mại Việt Nam- Trung
Quốc từ năm 1991 đến nay.
Chương III: Một số khuyến nghị phát triển thương mại Việt Nam-
Trung Quốc từ góc nhìn đối với doanh nghiệp.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC VÀ SỰ
CẦN THIẾT MỞ RỘNG MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VỚI
TRUNG QUỐC
I. TỔNG QUAN VỀ TRUNG QUỐC.
1. Đặc điểm vị trí địa lý kinh tế của Trung Quốc:
Trung Quốc là một thị trường lớn đối với diện tích là 9,6 triệu 1km
2
,
độ dài đường biên giới đất liền là 22143, 34km, đường bờ biển là
14.500km, giáp với rất nhiều nước như Ấn Độ, Bắc Triều Tiên. Mganmar,
Lào, Nga, Mông Cổ, Nepal, Taji kistan, Việt Nam … nên rất thuận lợi cho
việc mở rộng hoạt động buôn bán qua biên giới với các nước láng giềng,
trong đó có Việt Nam. Thủ đô của Trung Quốc là Bắc Kinh, cùng với các
đặc khu hành chính Hồng Kông, MaKao, Thành phố Thượng Hải, Thiên
Tân, Vũ Hán, Thẩm Dương, Quảng Châu, Trùng Khánh, Thành Đô và Cáp
Nhĩ Tân có sự phát triển kinh tế rất cao, góp phần chủ yếu vào sự tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc tương đối cao trong các năm qua, năm 2000 đạt
8,0%, 2001 đạt 7,3% sau 1997 khi Hồng Kông trở về với Trung Quốc.
Với một thị trường có 1,3 tỷ dân, GDP năm 2001 (đạt 1,179,9) tỷ
USD, có nơi thu nhập rất cao bằng các nước phát triển vào khoảng 18000 -
20000 USD/ năm/ đầu người, nhưng cũng có nơi chỉ đạt 250 - 300 USD/
năm/ một người vị thế sức mua rất đa dạng, từ hàng có chất lượng trung
bình đến hàng cao cấp, điều này rất thuận lợi cho việc hàng hoá vn thâm
nhập thị trường "béo bở" này.
2. Tình hình xuất nhập khẩu của Trung Quốc
Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, tình hình xuất nhập khẩu
Trung Quốc cũng phù hợp, tương xứng với giai đoạn phát triển kinh tế.
Nếu như vào cuối những năm 70 (1979) 80% ngoại tệ của Trung
Quốc đã dành nhập khẩu các phương tiện sản xuất, 25% chi cho nhập khẩu
3
các nhà máy hoàn chỉnh, công nghệ mới, máy móc thiết bị điện, trang thiết
bị và công cụ như các bộ thiết bị hoàn chỉnh dành cho công nghiệp dầu khí,
luyện kim, than đá, phân bón, các công cụ và thiết bị dành cho các ngành
công nghiệp nhẹ và dệt. Nó phù hợp với giai đoạn đầu đổi mới kinh tế,
CNH - HĐH đất nước. Cơ cấu hàng nhập khẩu của Trung Quốc chủ yếu
nhằm đáp ứng sự phát triển sản xuất, kinh doanh trong nước. Cơ cấu hàng
hoá xuất nhập khẩu được thể hiện rõ hơn qua hoạt động thương mại với
một số đối tác lớn.
Cũng như Việt Nam, trước 1989 Trung Quốc chủ yếu buôn bán với
Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trong hệ thống các nước CHXH: từ sau
1979, Trung Quốc có sự mở cửa rộng rãi thị trường trong nước và vươn
rộng hơn sang thị trường các nước phát triển nền kinh tế thị trường phát
triển như Nhật Bản, Mỹ, EU, Châu Á, chiếm gần hơn 70% tổng giá trị nhập
khẩu của Trung Quốc. Đến 6 tháng đầu năm 2001, Trung Quốc đã đạt được
những kết quả đáng kể trong quan hệ thương mại với các thị trường chính.
Thương mại song phương với Nhật Bản đạt 37,893 tỷ USD tăng 30,3% so
với 2000, trong đó xuất khẩu đạt: 18,7 tỷ USD tăng 34,3%, nhập khẩu:
19,106 tỷ USD tăng 26,6%. Thương mại song phương với Mỹ đạt 34,224
tỷ USD, tăng 26,3%, trong đó xuất khẩu đạt 23,611 tỷ USD, tăng 30,4%,
nhập khẩu: 10,163 tỷ USD, tăng 17,9%. Thương mại song phương với các
nước ASEAN đạt 17,742 tỷ USD, tăng 46,5%, trong đó nhập khẩu là 7,934
tỷ USD, tăng 51,4%, nhập khẩu: 9,786 tỷ USD, tăng 42,8%. Đặc biệt trong
hai quan hệ ASEAN +3 trong đó có Trung Quốc thì Kim ngạch này còn
tăng đáng kể. Ngoài ra còn các quốc gia Châu Á khác đạt kim ngạch trên
13 tỷ USD như Hàn Quốc, Đài Loan. Đối với Châu Âu, tiêu biểu là thị
trường Đức, Thương mại Trung Quốc - Đức đạt 9,275 tỷ USD, tăng 28,9%,
xuất khẩu đạt 4,404 tỷ USD, tăng 29,3%, nhập khẩu đạt 4,871 tỷ USD tăng
28,5%.
4
* Một số mặt hàng xuất khẩu đáng quan tâm của Trung Quốc (đối với Việt
Nam):
- Trên thị trường Việt Nam, khi nhắc đến Trung Quốc là người ta
nhắc đến các sản phẩm như xe máy, hàng dệt may, máy móc, hàng điện tử
gia dụng… Nhưng nổi trội nhất vẫn là thị trường xe máy Trung Quốc và
hàng may mặc. Chỉ trong vòng 13 năm, xe máy Trung Quốc đã có mặt ở
hơn 130 quốc gia trên khắp thế giới, năm 1998 Trung Quốc xuất khẩu gần
80.000 xe máy, 1999 đạt 250.000 chiếc và 2 triệu chiếc vào năm 2000, đến
2001 chính phủ Trung Quốc lên kế hoạch giảm lượng xuất khẩu xe máy
xuống còn 1 triệu chiếc. Hiện Trung Quốc có khoảng 240 nhà sản xuất xe
máy và còn ít nhất 400 Công ty sản xuất xe máy với quy mô nhỏ và không
đủ tiêu chuẩn sản xuất. Kết quả là cuộc chiến tranh giá cả giữa các hãng xe
máy nổi tiến như Jialing, Jianshe, Long xin, liyan, Zongchen làm cho giá
xe máy giảm mạnh, ví dụ đối với xe 100 cc giá từ 6.600 NDT tại Việt Nam
năm 1999 xuống còn 2.483 NDT vào cuối năm 2000. Kéo theo đó là sự suy
giảm của chất lượng xe máy để theo kịp cuộc chạy đua về giá rẻ, làm cho
nhãn hiệu xe máy Trung Quốc trở nên tầm thường và đồng nghĩa với xe
kém chất lượng tại Việt Nam và Inđônêsia. Nhưng liệu các hãng xe máy
Trung Quốc còn duy trì được năng lực sản xuất như hiện nay không khi thị
trường mô tô Trung Quốc sẽ có nguy cơ biến mất vào 2010 do ngày càng
nhiều các tỉnh, thành phố Trung Quốc cấm hay hạn chế đi mô tô. Hiện đã
có trên 30 thành phố Trung Quốc cấm đăng ký mô tô, 30 thành phố khác
đặt hạn chế cấp đăng ký mô tô. Và trên thị trường Trung Quốc thì hình ảnh
chất lượng uy tín xe máy Trung Quốc trong mắt người dân đã suy giảm khá
nhiều.
- Một ngành nữa cũng đạt mức doanh thu và lợi nhuận của ngành
năm 2000 đạt 29,01 tỷ NDT (3,5 tỷ USD) tăng 20% so với 1999. Trung
Quốc đã xuất khẩu 52,08 tỷ USD trị giá quần áo dệt năm 2000, tăng 20,9%
5
so với 1999, xuất khẩu quần áo chiếm đến 20,9% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Trung Quốc.
Trung Quốc ưu tiên cho nhập khẩu, máy móc, công nghệ và trang
thiết bị tiên tiến cần thiết để hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, năng
lượng, giao thông và điện tử từ các nước EU, Nhật Bản... Ngoài ra còn có
các sản phẩm hoá chất, hạt ngũ cốc, thực phẩm từ Mỹ, các nước Châu Á
khác...
Tóm lại Trung Quốc là một thị trường tương đối dễ tính và phù hợp
với khả năng của Việt Nam. Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với
Việt Nam trong khi mà chúng ta chưa có những biện pháp để khai thác thị
trường rộng lớn với mức tiêu thụ 1,3 tỷ dân này.
II. SỰ CẦN THIẾT MỞ RỘNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG
QUỐC.
1. Lợi thế so sánh của Việt Nam và Trung Quốc.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Việt Nam và nước ngoài,
Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh sau:
Việt Nam có nguồn tài nguyên tương đối đa dạng phong phú, nằm ở
vùng khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và cây công
nghiệp. Việt Nam còn là quốc gia có rừng đa sinh vật, có đường bờ biển dài
với nguồn thuỷ sản đa dạng và nhiều loại khoáng sản khác nhau như dầu
khí, quặng sắt...
Về vị trí địa lý, nằm ở Tây Thái Bình Dương- khu vực kinh tế phát
triển cao, ổn định, nơi của ngõ giao lưu quốc tế. Việt Nam có nhiều khả
năng để phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế
về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch...
Về tài nguyên con người, với hơn 76 triệu dân, Việt Nam là quốc gia
có dân số đứng thứ 13 trên thế giới. Ước tính trung bình mỗi năm có
khoảng 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, cung cấp một lực lượng
6
lao động dồi dào. Không chỉ đông về số lượng, lao động Việt Nam lại rẻ và
đa số có trình độ giáo dục phổ thông…
Tuy nhiên, những lợi này theo M.Porter thì là những lợi thế cấp thấp.
Đối với Việt Nam thì việc xuất khẩu các nguồn nguyên liệu thô và sản
phẩm sơ chế, có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao, nhưng đây không
thể coi là mục tiêu lâu dài. Cho nên trong dài hạn, chúng ta phải biết khai
thác những lợi thế này một cách triệt để thông qua việc áp dụng công nghệ
tiến tiến, hiện đại đối với những lĩnh vực then chốt, những khâu có tính
chất quyết định; công nghệ phù hợp đối với những ngành sử dụng nhiều lao
động trong điều kiện nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của công
nghệ cao. Bên cạnh đó, cần phải phát triển hơn nữa vào phát triển nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ để cố gắng tạo dựng thêm nhiều lợi thế cạnh
cấp cao.
Còn đối với Trung Quốc thì có các lợi thế so sánh sau:
Trung Quốc có nguồn tài nguyên khá phong phú, nhiều về số lượng
phong phú về chủng loại. Nhiều sản phẩm sơ chế của Trung Quốc dẫn đầu
thế giới về sản lượng.
Diện tích đất đai của Trung Quốc có thể sử dụng vào mục đích công
nghiệp và dịch vụ rất lớn, vì vậy đất đai công nghiệp rẻ hơn nhiều so với
các nước, đặc biệt so với các nước trong khu vực.
Lực lượng lao động của Trung Quốc hiện nay khoảng hơn 730 triệu
người và có thể bổ sung thêm 150 triệu người trong vòng 10 năm nữa. Lục
lượng lao động hùng hậu này là một thế mạnh lớn của Trung Quốc.
Ưu thế về vốn là yếu thế rất quan trọng đối với nền kinh tế Trung
Quốc. Nhiều năm qua mức tích luỹ trong nước luôn xấp xỉ 40% GDP nhờ
vào chính sách thu hút vốn của chính phủ linh hoạt và đa dạng. Đây là điều
kiện để Trung Quốc phát triển về mọi mặt.
Đặc biệt Trung Quốc có thế mạnh về quy mô thị trường va sức mua
lớn. Hiên nay khoảng 80% dân số có mức thu nhập trên 1000 USD/ năm,
7
riêng số này đã tạo ra sức mua 100 tỉ USD hàng năm. Thị trường này càng
được mở rộng thêm nhờ vị trí đại lý và đường biên giới chung với 15 quốc
gia.
3. Một vài đặc điểm cần lưu ý ở thị trường Trung Quốc:
Thứ nhất, các doanh nghiệp Trung Quốc thường thích thanh toán và
mua bán qua đường biên mậu vì họ có những ưu đãi nhất định của Chính
phủ Trung Quốc.
Thứ hai, khi phải cạnh tranh với hàng hoá Trung Quốc ở bất cứ một
thị trường nào, ngay cả trên thị trường Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt
Nam không nên đối đầu. Cái gì Trung Quốc không sản xuất thi chúng ta
sản xuất nếu không rất dễ thất bại do hàng hoá của Trung Quốc có khả
năng cạnh tranh về giá, mẫu mã, chủng loại sản phẩm.
Thứ ba, để thâm nhập vào Trung Quốc, các doanh nghiệp nên cố
gắng cải tiến mẫu mã, xem xét giá thành vì tại thị trường này, mẫu mã thay
đổi liên tục. Nhà nước cần hỗ trọ ban đầu cho các doanh nghiệp thâm nhập
thị trường như chia sẻ kinh phí tổ chức hội chợ triển lãm, giảm thua lỗ cho
các doanh nghiệp bắt đầu vào chiếm thị trường.
8
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI
NƯỚC TỪ 1991 ĐẾN NAY.
I. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
TRONG GIAI ĐOẠN 1991 ĐẾN NAY:
Ngày 7 -11- 1991 tại lầu số 18, Nhà khách chính phủ Điếu Ngư Đài
ở Bắc Kinh đã diễn ra cuộc hội đàm quan trọng giữa các nhà lãnh đạo cấp
cao nhất Việt Nam và Trung Quốc. Kết quả cuộc hội thảo là các hiệp định
hợp tác và ra thông báo chung Việt Nam - Trung Quốc về bình thường hoá
quan hệ. Để có được kết quả như vậy là do sự nỗ lực, thiện chí giữa chính
phủ và nhân dân 2 nước trong suốt thời gian trước đó. Từ đó sự giao lưu,
hợp tác Việt Trung trên các lĩnh vực ngày càng mở rộng và đi vào chiều
sâu. Những quá khứ để lại đã được hai bên giải quyết dần từng bước. Hai
nước đã ký kết hiệp ước về biên giới trên đất liền, hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ và hiệp định nghề cá. Đặc biệt, quan hệ thương mại giữa hai
nước mở ra một trang mới với nhiều thành tựu và triển vọng.
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu:
Kể từ 1991 trở lại đây, trao đổi thương mại giữa 2 nước Việt Nam -
Trung Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế của mỗi nước. Đặc biệt, năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
đạt 2.957 triệu USD, tăng 78 lần so với năm 1991 là 37,7 triệu USD, trong
đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.534 triệu USD. Riêng 6
tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc đạt
794, triệu USD với mức tăng trưởng là 30%. Tính trung bình tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 1991 đến nay là khoảng xấp xỉ 20%/ năm. Tốc độ phát
triển này khá cao so với tốc độ phát triển thương mại Việt Nam với một số
nước khác (như Mỹ, EU, Nhật Bản) đã phần nào chứng minh được tiềm
năng thương mại của 2 phía.
9
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa 2 nước trong giai đoạn 1991 - 2000 cụ thể như sau:
Bảng: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam - Trung Quốc
thời kỳ 1997 - 2000 (Báo)
Trong giai đoạn này, xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với
Trung Quốc tăng đều hàng năm. Nếu năm 1991, Việt Nam mới xuất khẩu
sang Trung Quốc 19,3 triệu USD và nhập khẩu 18,4 triệu USD thì đến năm
1997 con số này đã 474,1 triệu USD và 404,4 triệu USD tương ứng. Mức
tăng đều hàng năm cho thấy khả năng duy trì tốc độ trao đổi thương mại
giữa 2 bên khá tốt, luồng hàng lưu thông hàng hoá ngày càng (thể hiện
trọng kim ngạch xuất nhập khẩu ngạch ngày càng cao). Tuy nhiên, năm
1996, kim ngạch trao đổi thương mại giữa 2 nước có giảm nhẹ, từ 691,6
triệu USD năm 1995 xuống còn 669,2 triệu USD (bằng 96,7%) Nhưng năm
1997 lại tăng lại và đạt… Năm 1998, mặc dù có khủng hoảng tài chính
Châu Á, tuy không trực tiếp gây ra những thiệt hại lớn về tài chính, kinh tế
đối với Việt Nam song đã ít nhiều ảnh hưởng đến quan hệ trao đổi thương
mại Việt Nam với một số nước khác, nhất là các nước cùng châu lục nhưng
quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc vẫn tăng từ 878,5 triệu USD
năm 1997 lên 989,4 triệu USD. So sánh giữa số kim ngạch xuất khẩu và
kim ngạch nhập khẩu cho thấy Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã xuất
siêu sang Trung Quốc tuy số lượng không lớn và xét về tổng thể thì cán cân
thương mại thời gian qua khá cân bằng. Riêng năm 1997, Việt Nam xuất
siêu sang Trung Quốc khoảng 70 triệu USD.
Nhận thấy giai đoạn 1991 - 1996 kim ngạch xuất khẩu giữa Việt
Nam và Trung Quốc khá thăng bằng, tăng đều qua hàng năm và chỉ giảm
nhẹ vào 1996. Sự biến động này có thể chấp nhận được do những dao động
của thị trường qua hàng năm. Năm 1997, Việt Nam giảm nhập thiết bị cho
các nhà máy đường, xi măng, nhất là đối với các thiết bị của nhà máy xi
măng lò đứng (gần như không nhập nữa) làm giảm kim ngạch nhập khẩu,
10
trong khi số lượng hàng hoá vẫn được duy trì dẫn đến hình tượng xuất siêu
khá cao (70 triệu USD) mà Hải Quan thống kê được. Bên cạnh đó cũng còn
những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng xuất siêu trong mấy năm gần
dây như ảnh của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á đã làm giảm nhu cầu
nhập khẩu của các nhà nhập khẩu Hàn Quốc, Thái Lan, Inđonesia. Những
nước chịu thiệt hại lớn nhất trong cuộc khủng hoảng nói trên và cũng là đối
tác thương mại lớn của Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam phải luôn tìm lối thoát cho sản phẩm của mình bằng cách xuất khẩu
sang Trung Quốc.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1991 - 2000, ta đã dần nâng cao kim
ngạch xuất nhập khẩu với Trung Quốc và duy trì sự tăng trưởng ổn định,
bất chấp những biến động của nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây là một
kết quả đáng ghi nhận trong trao đổi thương mại nói chung và quan hệ
thương mại Việt Nam - Trung Quốc nói riêng.
2. Cơ cấu xuất nhập khẩu:
2.1. Hàng xuất khẩu:
Trung Quốc là một trong những nước có hệ thống máy móc - công
nghệ khá phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Với thế mạnh là
giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã đẹp.. sản phẩm của Trung
Quốc không chỉ có ưu thế trên thị trường Châu Á mà còn chiếm lĩnh được
thị trường các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Một trong những khó khăn của
Việt Nam khi xuất khẩu hàng sang Trung Quốc là những mặt hàng được
coi là thế mạnh của Việt Nam như gạo, cà phê, chè và một số sản phẩm
nông nghiệp khác cũng là thế mạnh của Trung Quốc nên những mặt hàng
này rất khó mở rộng thị trường, nâng cao số lượng tiêu thụ tại thị trường
nước này.
Trong giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá quan hệ, hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là Nông sản và một vài
khoáng sản có thế mạnh như quặng crôm, dầu thô. Tuy nhiên, các sản
11
phẩm này chủ yếu là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, loại hàng CNTD
chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Số liệu cụ thể về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 1992 -1995 như sau:
Bảng số liệu (Tập tài liệu)*******
Nhìn chung, các mặt hàng tăng trưởng không đều: dầu thô, cao su,
hạt điều là những hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn trong giai đoạn này.
Các mặt hàng này đều được xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu nên giá trị tận
dụng được giá trị sản phẩm, trị giá xuất khẩu chưa cao. Vì vậy, để nâng cao
kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp phải nâng cao khối lượng hàng
xuất. Đây là một trong những khó khăn chung của ngành thương mại Việt
Nam đòi hỏi Việt Nam phải chuyển theo hướng giảm xuất khẩu nguyên
liệu thô, nâng dần khối lượng hàng hoá qua chế biến. Hướng đi này phải
nhanh được áp dụng trong mọi quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các
nước trong đó có Trung Quốc.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Trung
Quốc tăng lên đáng kể so với giai đoạn trước. Các sản phẩm cây công
nghiệp như cà phê, cao su, hạt điều vẫn chiếm một phần đáng kể trong kim
ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, một số mặt hàng khác như hàng dệt may,
hải sản cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Quốc.
Số liệu cụ thể như sau:
Bảng số liệu (tập tài liệu)**********
Đáng chú ý là dầu thô ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và tăng đều hơn
so với giai đoạn trước. Nếu như 1993 kim ngạch dầu thô là 31,722 triệu
USD, năm 1994 giảm xuống rất thấp còn 7.600.000 USD thì năm 1996 con
số này đã là 16.671.913 USD và tăng lên 141.371.655 USD năm 1997.
Trong khi đó kim ngạch xuất khẩu than đá dường như có xu hướng giảm
mạnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ 28.693.603 USD (1996) xuống
chỉ còn 5.227.000 USD (1997). Xét một cách tổng thể thì trong giai đoạn
12