Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

hội nhập và những tác động đến kinh tế hợp tác xã việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.26 KB, 42 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan chuyên đề thực tập của em được viết dựa trên những
tài liệu do các cán bộ của Viện nghiên cứu Kinh tế và phát triển cung cấp,
cùng các nguồn tài liệu em tìm và thu thập trên các giáo trình, sách tham
khảo, các tạp chí và website của các tổ chức, hiệp hội trong và ngoài nước.
Dựa trên những tài liệu này, em đã tham khảo và hoàn thành chuyên đề thực
tập của mình. Chuyên đề không sao chép bất kì luận văn, luận án hay chuyên
đề nào. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sinh viên
LÊ VĂN NAM

MỤC LỤC
13. />tro-tao-dieu-kien-de-tiep-tuc-phat-trien/45/5415587.epi 37
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.4. Tổng số HTX nông nghiệp mới thành lập phân 23
theo loại hình dịch vụ 2009 23
13. />tro-tao-dieu-kien-de-tiep-tuc-phat-trien/45/5415587.epi 37
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập luôn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh Trong bối cảnh hiện kinh tế
hiện nay còn rất nhiều biến động, toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đang là một xu
thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Nó tạo ra cơ hội cho
sự phát triển nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, nhất là
các quốc gia đang phát triển. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới và khu
vực như WTO, EU. AFTA….cũng do toàn cầu hóa đem lại. Theo xu thế
chung của thế giới, Việt Nam đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tham gia vào các tổ chức kinh tế, cố gắng khai thác tối đa mặt
tích cực cũng như hạn chế mặt tiêu cực của quá trình hội nhập, giữ gìn những
đặc trưng và bản sắc của đất nước.Và thực tế trong quá trình hội nhập chúng
ta đang đi đúng hướng và gặt hái được nhiều thành công.


Việt Nam qua các thời kỳ chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ luôn gắn
liền với kinh tế hợp tác xã. Trong chiến tranh, nông dân có khẩu hiệu "vừa
chiến đấu vừa sản xuất", cùng “ chắc tay cày, tay súng”, phụ nữ có phong trào
"ba đảm đang", tất cả đều thi đua sản xuất chi viện cho miền Nam. Trong thời
kỳ này đã xuất hiện nhiều cá nhân , tập thể xuất sắc, gặt hái được nhiều thành
công. Vậy trong thời bình, nhất là trong xu thế hội nhập như hiện nay kinh tế
hợp tác có con cơ hội để phát triển? Đây là câu hỏi mang tính thời đại, vì vậy
em xin chọn đề tài “Hội nhập và những tác động đến kinh tế hợp tác xã Việt
Nam” để góp phần trả lời câu hỏi trên.
- Đối tượng nghiên cứu: Hội nhập kinh tế quốc tế và những tác động đến
kinh tế HTX Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Kinh tế HTX tại Việt Nam từ năm 2005 đến nay.
- Mục đích nghiên cứu: tìm hiểu những tác động của hội nhập đến kinh
tế HTX Việt Nam, từ đó tìm ra hướng xây dựng HTX trong thời kỳ mới
1
- Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề được thực hiện bằng các phương
pháp duy vật biện chứng, phân tích số liệu và thống kê.
Bài viết gồm có ba chương chính:
Chương 1. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế và sự hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Chương 2. Kinh tế hợp tác xã và những tác động từ hội nhập kinh
tế quốc tế
Chương3. Phát triển và cải thiện mô hình hợp tác xã Việt Nam
trong thời gian tới
2
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ VÀ SỰ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
1.1 Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1 Khái niệm:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế

quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên
trong một cách có hiệu quả.
1.1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho
nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư:
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế
quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu , biểu thuế nhập khẩu được giữ
hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với
cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,
thông qua liên doanh, hiện diện
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu
về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại
tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư
1.1.3 Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong
khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của
các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung.
Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập:
Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước,
cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp
cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ
3
chức có nguyên tắc cụ thể riêng
biệ
t.
1.1.4 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế với nền kinh tế thế giới
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là
1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa

với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc
hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định
song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những
tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông
và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là
trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát
triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán
trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu
kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ. Về tài
chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần
trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế
quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của
các nước phát triển mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi
thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có
nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá
trình hội nhập.
1.2 Hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1.2.1 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự
nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình
từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và
tham gia vào các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có
4
nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các
hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những
nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào
thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá,

dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa Việt Nam và các nước được dễ
dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và
thế giới mà Việt Nam tham gia.
Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan
hệ kinh tế-thương mại với các nước, Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều
tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế.
- Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là việc chúng ta chính
thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại Tự
do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng lần lượt
cùng các nước ASEAN tham gia vào các cơ chế liên kết ASEAN trong các
lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin.
- Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) – khối kinh tế khu vực lớn
nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn
50% viện trợ nước ngoài (ODA) của Việt Nam.
- Từ đầu năm 2002, chúng ta cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán
với Trung Quốc về thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc.
Các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh
tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tác cơ bản của Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ hoàn thành vào năm 2010 đối với Trung quốc
và ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Bắt đầu từ năm 2003, hai bên sẽ
đàm phán cụ thể hoá các nguyên tắc trên thành các quy định để thực hiện Khu
5
vực mậu dịch tự do này.
- Tháng 9/2002, tại Brunei, các nước ASEAN và CER đã ký Tuyên bố
chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gũi giữa hai bên. Các nhà đàm phán của
các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể hoá các cam kết của
đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới.
- Với Nhật, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật ở Campuchia đầu tháng
11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật đã nhất trí thiết lập Đối tác kinh

tế toàn diện, trong đó bao gồm cả một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật,
dự kiến sẽ được thành lập sớm, có thể là trước cả Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN-Trung Quốc.
- Với Mỹ, tại Hội nghị cấp cao APEC ở Mêhicô (tháng 10/2002), Tổng
thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN” nhằm thắt chặt
quan hệ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước ký các hiệp
định thương mại tự do song phương với từng nước ASEAN.
- Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương và đa phương như
đã nêu trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các
liên kết kinh tế tiểu vùng như Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang
Đông Tây (WEC), Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia.
- Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức trở thành thảnh viên thứ 150 của
WTO đánh dấu một bước tiến quan trong trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn đến nền
kinh tế Việt Nam. Đây là kết quả của một chặng đường gian nan với gần 12
năm kiên trì không mệt mỏi với 14 vòng đàm phán đa phương và hàng trăm
vòng đàm phán song phương với 28 đối tác trong WTO.
Như vậy, hội nhập quốc tế của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ
thấp đến cao diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa
phương, lồng gép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn
6
cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ…
1.2.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến nền kinh tế Việt Nam
1.2.2.1 Những tác động tích cực
- Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu
của Việt Nam, giúp nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống người dân. Nội
dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia
nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc
được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ

đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường
thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim
ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Năm
2005, tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam-ASEAN đạt
14,91 tỷ USD , con số này của năm 2008 là 29,77 tỷ USD, tăng gấp đôi so với
năm 2005. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trườngASEAN trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt hơn 5,24 tỷ USD.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước
ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. Hiện nay
đã có trên 90 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó
có nhều công ty và tập đoàn lớn, có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát
triển lực lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm. Tiến hành bình thường
hoá quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính
tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích
lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ
tầng. Theo số liệu của tổng cục thống kê Việt Nam, giai đoạn 1988-2009 tổng
số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam là gần 67 tỷ USD, một con
số rất ấn tượng cho một nước đang phát triển trong quá trình hội nhập.
7
- Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu
khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với
khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua
đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng
thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm
phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có
thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có
hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao
động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới.

Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ
thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới
và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện
và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng và những
xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với
khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua
đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng
thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm
phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có
thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có
hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao
động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới.
Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ
thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới
và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện
và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội,
8
TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng và những
xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào
tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa
học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và
ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước
ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề,
trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu
tư nước ngoài, tính đến 2010 đã có khoảng 1,67 triệu người lao động góp
phần giải quyết việc làm nâng cao đời sống người dân.
- Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng

môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai
các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với
Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với
gần 200 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ
với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương.
Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc, Mỹ và các
quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định
nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực
nước ta với các nước khác trên thế giới. Với dân số khoảng 80 triệu người,
nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập
quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai
thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao
động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến
9
hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các
công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
1.2.2.2 Những tác động tiêu cực quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đến Việt Nam
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã
có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng
tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh
nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.
- Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải
giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, khiến hàng hoá nước
ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, gây sức ép tới nhiều đơn vị sản xuất kinh
doanh trong nước, kéo thoe hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của

người lao động. Bởi hàng hoá Việt Nam do kĩ thuật và công nghệ và quản lý
còn kém nên chất lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với
dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, trình độ quản
lý cao, vốn lớn nên sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp, chất lượng tốt lại không
phải nộp thuế khi xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù
hợp. Sức cạnh tranh bấp bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể
hiện rõ.
Với vấn đề trên, nhiều doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi
hỏi nhà nước thi hành chính sách càng lâu càng tốt. Tuy nhiên nếu đứng từ
góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước
không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi của các doanh nghiệp đó. Bởi Việt
Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại. Khi đã
tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Hơn nữa, việc thi hành chính sách
bảo hộ mậu dịch luôn là con dao hai lưỡi. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc
có điều kiện có thời hạn thích hợp thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong
nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh
10
hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành gậy
ông đập lưng ông gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Chẳng hạn như việc
hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng năm 1999, làm cho giá xi măng
thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có thuế là 50%. Do đó
toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD để bảo hộ ngành xi măng, trong
đó gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài.
- Với nền nông nghiệp và thị trường nông nghiệp sự phát triển vào biến
động của kinh tế và thị trường nông sản thế giới; nông nghiệp Việt Nam còn
nhiều yếu kém nhưng phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi
chung của WTO. Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều
khác: bãi bỏ ngay mọi trợ cấp trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên
khác đến năm 2013 mới cắt giảm); từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong
nông nghiệp (các nước thành viên khác vẫn giữ quyền đó). Bên cạnh đó,

không chỉ nền nông nghiệp nói riêng mà toàn ngành kinh tế nói chung, tăng
cường hội nhập khiến nền kinh tế càng trở nên phụ thưộc vào thị trường thế
giới cũng như những ảnh hưởng bất lợi từ các cuộc khủng hoảng như khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 hay khủng hoảng nợ công ở châu Âu.
Cùng với đó các quốc gia phát triển luôn đưa ra các rào cản trong việc mở
cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi
quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng thực hiện các biện pháp như chống bán phá
giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật một cách vô lý lên
đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi phạm (Điển hình như vụ kiện chống
bán phá giá cá basa của VN). Điều này khiến tác động mạnh đến những nhà
xuất khẩu đặc biệt là những người nông dân nghèo, những người vốn dĩ cuộc
sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn
- Về đầu tư, nhiều lĩnh vực được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển sang
các nước đang phát triển, đang dần hủy hoại môi trường ở những quốc gia này
và tất nhiên trong đó có VN. Với những hàng rào về môi trường nghiêm ngặt
11
ở quốc gia mình, nhiều doanh nghiệp ở các nước phát triển khó có thể sản
xuất, kinh doanh với công nghệ hiện có, và họ nghĩ ra nơi đầu tư lý tưởng đó
là các nước đang phát triển – nơi mà đang chú trọng thu hút nguồn vốn đầu tư
nên vấn đề môi trường không kiểm soát chặt chẽ.
Các luồng vốn tài chính đổ vào các quốc gia dưới dạng đầu tư chứng
khoán, bất động sản trong một thời điểm nó có thể đẩy các thị trường này phát
triển rất nhanh. Nhưng khi thấy được một khoản lớn, các nhà đầu tư nước
ngoài lại có động thái rút vốn khiến thị trường rơi vào tình trạng suy thoái,
nhiều doanh nghiệp phá sản, đời sống nhiều người dân rơi vào tình trạng khó
khăn. Đây là bài học lớn rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính lớn ở Đông
Nam Á năm 1997. Dường như điều này vẫn liên tục lặp lại ở các thị trường
mới nổi khi các nhà đầu tư nước ngoài vẫn luôn ra sức kêu gọi mở thị trường
để rộng đường họ chi phối
Việc thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh

giữa các địa phương trong việc xây dựng các khu công nghiệp. Quỹ đất để
xây những khu công nghiệp này lẽ dĩ nhiên là lấy từ nông nghiệp. Khi không
có quy hoạch hợp lý và tính toán dài hạn, hàng loạt người nông dân mất đất,
trong tay không có nghề nghiệp, nhiều người tuổi tác không phù hợp để
chuyển đổi công việc, cuộc sống họ vốn đã khó khăn, bấp bênh nay càng khó
khăn hơn.
Xét trên những tiêu chí trên, có thể thấy xu thế toàn cầu hóa có những tác
động tiêu cực không nhỏ tới sự phát triển bền vững ở quốc gia đang phát triển
như VN trên cả bình diện kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, VN trong quá
trình hội nhập với khu vực và thế giới cần chú ý tới những tác động này. Thực
chất đây là “mặt đối lập” của những thuận lợi mà toàn cầu hóa mang lại cho
các quốc gia. Chúng ta không thể tách mình khỏi xu thế này nhưng chúng ta
cần một chiến lược hội nhập bền vững, phát triển kinh tế nhưng phải đánh giá
và có những giải pháp phù hợp cho vấn đề môi trường và xã hội.
12
CHƯƠNG 2: KINH TẾ HỢP TÁC XÃ VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
TỪ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1 Kinh tế hợp tác xã Việt Nam
2.1.1 Khái niệm:
Trong luật HTX của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều có
định nghĩa về HTX.
Liên minh HTX quốc tế có định nghĩa: “HTX là một tổ chức tự trị của
những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng
chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở
hữu và quản lý dân chủ”. Năm 1995 định nghĩa này đã được hoàn thiện:
“HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng,
công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX,
các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở,
trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa HTX là sự liên kết của những

người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết
nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi, nghĩa vụ sử dụng tài sản mà họ đã
chuyển giao vào HTX. Phù hợp với nhu cầu chung và giải quyết những khó
khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng
các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất
và tinh thần chung…
Còn tại Việt Nam, theo điều 1 Luật hợp tác xã năm 2003 (hiệu lực từ
1/7/2004): “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập
thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu
quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh
13
thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động
như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các
nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”.
2.1.2 Vai trò của HTX
Ở những nước tư bản, kinh tế HTX chỉ là kinh tế phụ song có vai trò đặc
biệt đối với nông dân. HTX giúp đỡ các chủ trang trại nông dân tồn tại trước
những tác động của kinh tế thị trường và ảnh hưỏng của các tổ chức độc
quyền lớn. Do vậy ngoài mục tiêu kinh tế, HTX còn là loại hình kinh tế mang
tính chất xã hội nhân đạo.
Ở những nước nông nghiệp như nước ta thì HTX nông nghiệp là hình
thức kinh tế tập thể nông dân vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có tác
động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông nghiệp nông dân.
Nhờ có hoạt động của HTX các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời đầy đủ đảm bảo chất
lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất
của hộ nông dân được nâng lên.

Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp
được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập
trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá.
Ví dụ dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước, dịch vụ bảo vệ thực vật… đòi hỏi
sản xuất của hộ nông dân phải được thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng
và chủng loại giống, về thời vụ gieo trồng và chăm sóc.
HTX là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì
vậy hoạt động của HTX có vai trò làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông
dân một cách có hiệu quả trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham
gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân hoạt động của HTX là đối trọng buộc
các đối tượng phải phục vụ tốt cho nông dân.
14
2.1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác xã Việt Nam
- Qúa trình phát triển của hợp tác xã ở Việt Nam được chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: từ 1958 – 1980:
Năm 1958 là diễn ra cuộc vận động thí điểm nông dân vào hợp tác xã.
Tháng 4 năm 1959, hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 16(khoá II) đã ra
Nghị quyết về hợp tác hoá nông nghiệp để mở rộng thành cuộc vận động lớc
ở các tỉnh miền bắc.
Cuối năm 1960, miền bắc đã cơ bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp
bậc thấp với quy mô thôn. Năm 1960 toàn miền bắc có 40422 hợp tác nông
nghiệp, trong đó có 4346 hợp tấc xã bậc cao, có 85.4% số hộ tham gia hợp tác
xã với 68.1% ruộng đất được đưa vào hợp tác xã. Hợp tác xã có những đặc
điểm sau:
• Phát triển HTX sản xuất tập trung bao cấp.
• Phát triển từ HTX bậc thấp lên HTX bậc cao
• HTX được tổ chức là đơn vị sản xuất nông nghiệp tập trung
• Mọi hoạt động của HTX do Ban quản trị điều hành
• Xã viên làm công, chấm điểm, xã viên cả làng.
• Phân phối theo công điểm và có điều hoà lương thực cho hộ thiếu ăn,

không đủ ngày công.
• Nhà nước trực tiếp chỉ đạo, điều hành và kiểm tra HTX theo kế hoạch.
- Giai đoạn 1981 – 1996:
Những sai lầm về chủ trương và phương pháp tổ chức lại sản xuất trong
các hợp tác xã dẫn đến sự ra đời Chỉ thị số 100/1981 của Ban BT TW ngày
13/1/1981.
15
Chỉ thị 100 là “khoán sản phẩm đến nhóm và ng ười lao động”, lúc đầu
chỉ khoán với cây lúa, sau khoán với các cây và vật nuôi khác. Sự đổi mới
trong tổ chức quản lý này còn được bà con nông dân gọi là khoán mới.
Nội dung của chỉ thị là chia quá trình sản xuất nông nghiệp là 8 khâu,
giao khoán cho hộ 3 khâu: gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, còn lại 5 khâu: làm
đất, giống, thủy lợi, bón phân và bảo vệ thực vật do hợp tác xã đảm nhiệm.
Hộ nhận khoán gắn với sản phẩm cuối cùng theo chế độ được ăn, thua chịu.
Nghị Quyết 10/1988 của Bộ Chính trị: HTX thực hiện khoán sản phẩm
cuối cùng cho người lao động, hộ gia đình được xác định là đơn vị kinh tế tự
chủ. HTX chuyển sang làm dịch vụ, xã viên vẫn như cũ.
- Giai đoạn 1996 – nay:
• Luật HTX được ban hành.
• Các HTX chuyển đổi sang hoạt động theo Luật.
• Xử lý HTX cũ về tài sản công nợ, XV.
• XV chuyển sang HTX mới phải viết đơn, góp vốn.
• HTX xây dựng điều lệ, phương án kinh doanh và đăng ký kinh doanh.
• Hoạt động của HTX theo nhu cầu của XV, các hoạt động xã hội bàn
giao cho UBND xã.
• HTX NN chủ yếu làm dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ XV.
2.1.3 Các loại hình HTX tại Việt Nam
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn
cứ vào chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hoá, quy mô và đặc
điểm hình thành HTX :

* HTX dịch vụ: bao gồm ba loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ
tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ đơn mục đích (HTX chuyên ngành).
16
+ HTX dịch vụ từng khâu (HTX dịch vụ chuyên khâu) có nội dung hoạt
động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu
công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất.VD : HTX tín
dụng, HTX mua bán, HTX dịch vụ đầu vào, HTX dịch vụ đầu ra, HTX
chuyên dịch vụ về tưới tiêu…
+ HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng: Tuỳ thuộc đặc điểm, điều kiện,
trình độ sản xuất, và tập quán ở từng vùng mà nhu cầu của nông hộ đối với
từng loại hình dịch vụ có khác nhau. ở những vùng đồng bằng trồng lúa nước
HTX có thể thực hiện các khâu dịch vụ sau: Xây dựng, điều hành, kế hoạch,
bố trí cơ cấu mùa vụ, lịch thời vụ sản xuất, cung ứng vật tư, tưới tiêu theo quy
trình kĩ thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh, bảo vệ sản phẩm ngoài đồng để
tránh hao hụt. Với những vùng có mức bình quân ruộng đất và mức độ cơ giới
hoá cao, nông hộ cần thêm khâu dịch vụ làm đất, thu hoạch sửa chữa cơ khí,
vận chuyển sản phẩm đến nơi tiêu thụ.
+ HTX đơn mục đích (HTX chuyên ngành) HTX này được hình thành từ
nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất kinh doanh một loại hàng hoá
tập trung, hoặc cùng làm một nghề giống nhau, HTX thức hiện các khâu dịch
vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ
thuật, dịch vụ, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên
quan hệ với cơ sở chế biến nông sản.
* HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: HTX loại này có đặc điểm; nội dung
hoạt động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp mô hình HTX loại này phù
hợp trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, nghề đánh cá, nghề làm
muối (trừ ngành trồng trọt và chăn nuôi.
* HTX sản xuất kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện
Đặc điểm cơ bản của mô hình HTX loại này là:
+ Cơ cấu tổ chức nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch

17
toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của HTX kiểu mới và
tương tự một “doanh nghiệp” tập thể.
+ Sở hữu tài sản trong HTX gồm 2 phần: sở hữu tập thể và sở hữu cổ phần.
Xã viên HTX tham gia lao động trong HTX được hưởng theo nguyên tắc phân
phối theo lao động và hưởng lãi cổ phần (ngoài phúc lợi tập thể của HTX).
+ HTX hoạt động sản xuất kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm phát
triển kinh tế HTX và đem lại lợi ích cho xã viên.
+ HTX loại này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, xây dựng,
khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thuỷ sản, nghề làm muối,
đánh cá.
ở các địa phương, mô hình HTX kiểu này thường gặp trên địa bàn thị
trấn, thị xã, các vùng ven sông, ven biển, những nơi phù hợp với nghề khai
thác tài nguyên và ở nhiều nơi khác thì có đủ các điều kiện cần thiết
2.2 Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến kinh tế hợp tác xã
Việt Nam
2.2.1 Thành tựu và hạn chế của kinh tế hợp tác xã Việt Nam trong thời
gian qua
- Giai đoạn từ 1958 – 1980: Ưu điểm: là số hợp tác xã bậc cao tăng nhanh và
số hộ xin vào hợp tác xã cũng tăng nhanh (năm 1962 tăng 2% so với năm 1961).
Thời gian này việc cải tiến kỹ thuật trong hợp tác xã nhằm khắc phục các mặt yếu
kém trong công tác quản lý hợp tác xã và cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động
trong các hợp tác. Nhờ áp dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường
đầu tư cải tạo đồng ruộng nên năng suất lúa tăng, nhiều hợp tác xã đã đạt mục tiêu
5 tấn thóc/ha gieo trồng. Tuy vậy, hiện tượng tham nhũng trong đội ngũ lãnh đạo
còn tồn tại ở không ít hợp tác xã, sản xuất còn yếu kém, chưa đồng bộ.
18
Bảng 2.1 Tình hình sản xuất lúa miền Bắc và miền Nam (1954-1967)

( Tài liệu: Tính dựa theo số liệu thống kê của FAO, Production Yearbook(1954-67).)

Nhược điểm: việc thi hành điều lệ hợp tác xã và cuộc vận động dân chủ
trong quản lý hợp tác xã là bắt đầu phát sinh nhiều tiêu cực và mâu thuẫn
trong xã viên mặc dù ban đầu cuộc vận động này đã đạt được nhữnh kết quả
nhất định. Giai đoạn này có nhiều vi phạm trong phân phối, thu nhập của xã
viên có sự giảm sút đáng kể, kết quả sản xuất ngày càng thấp dẫn đến nhiều
hợp tác xã tan rã, lương thực thiếu hụt trầm trọng. Kết quả sản xuất của các
hợp tác xã giảm dần theo quy mô.
Nguyên nhân của những tồn tại này là: do sự thiếu đồng bộ giữa năng lực
quản lý của lãnh đạo với yêu cầu nâng cao quản lý dân chủ cùng với lý do
khách quan là nhiều nghị quyết của Đảng đã phải chuyển hướng về tư tưởng,
19
về tổ chức chỉ đạo để phù hợp với yêu cầu thời chiến. Hợp tác xã lúc này vừa
là đơn vị kinh tế, vừa là đơn vị hậu cần cho tiền tuyến lớn miền Nam. Phân
phối lương thực trong hợp tác xã ngày càng nặng tính bình quân.
- Giai đoạn 1981 – 1996: Ưu điểm: năng suất tăng từ 5-20% và có tới
trên 80% số hộ vượt khoán. Điều này là do đã gắn được trách nhiệm của
người lao động với kết quả cuối cùng trong khi trước đó các công việc mà họ
đảm nhiệm không được đánh giá đúng mức. Thành công này đã góp phần ổn
định an ninh lương thực trong nước, đưa nước ta từ một nước thiếu lương
thực thành một nước xuất khẩu gạo lớn.
Bảng 2.2 Tỉ trọng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ của Việt Nam
(1977- 1985)
- ipe
dia.org
Nhược điểm: cả 8 khâu trong sản xuất đều tác động đến kết quả cuối
cùng nhưng chỉ người lao động nhận khoán 3 khâu là gắn với kết quả sản xuất
nên đã không phân rõ trách nhiệm của xã viên với trách nhiệm của tập thể
trong quá trình thực hiện khoán và dẫn đến sự mất công bằng trong phân phối.
20
Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế xảy ra giữa những người làm 5 khâu với

những người làm 3 khâu, tập thể và cá nhân chưa thực sự hỗ trợ nhau. Các
hợp tác xã không thể quản lý được 5 khâu của tập thể và rất khó khi thu sản
phẩm điều đó bắt bu ộc dẫn tới khoán trắng.
- Giai đoạn 1996 – nay: Sau khi có luật hợp tác xã năm 1996 và luật hợp tác
xã sửa đổi năm 2003, quá trình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta theo 2
hướng: thành lập mới các hợp tác xã và chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp
kiểu cũ sang kiểu mới. Dù hình thành theo hình thức nào các hợp tác xã cũng đã
thể hiện được các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã. Chức năng của hợp tác xã đã
chuyển từ điều hành sản xuất sang dịch vụ cho kinh tế hộ. Bộ máy quản lý được
tinh giản gọn nhẹ và có hiệu lực. Nội dung hoạt động đa dạng, phong phú, phạm
vi hoạt động đ ược mở rộng, các hợp tác xã đã mở rộng quan hệ hợp tác, tăng
cường liên doanh, liên kết với nhiều thành phần kinh tế khác cũng như liên kết
kinh tế theo vùng, chất lượng dịch vụ tăng đáng kể, các hợp tác xã đã thực sự phát
huy được vai trò đối với kinh tế hộ. Tỷ l ệ các hợp tác xã kinh doanh có lãi ngày
càng tăng và đã góp phần dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Việt
Nam, góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn và
củng cố chính quyền địa phương.
2.2.2 Cơ hội và thách thức của kinh tế hợp tác xã khi đất nước tham gia
vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.2.1 Cơ hội khi HTX tham gia vào quá trình hội nhập:
Lịch sử loài người đã khẳng định; Hợp tác, giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm, trao đổi hàng hoá phân công lao động … là đòn bẩy thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội của mọi dân tộc, mọi cộng đồng mọi cá thể và HTX cũng
không nằm ngoài quy luật này. Tuy nhiên sự hợp tác phải dựa vào tính tự
nguyện và bảo đảm công bằng. Sự hưởng thụ phải tương xứng với mức đóng
góp công sức tiền của bỏ ra và lợi nhuận qua sự hợp tác phải cao hơn lợi
nhuận do tự thân làm ra. Phá vỡ quy luật này là phá vỡ hợp tác. Đầu những
21
năm 90 cuả thế kỷ XX, vì nhiều lý do khác nhau, quy luật này không được
thực hiện ở phần lớn các HTX nông nghiệp trong cả nước. Ý thức được vấn

đề này, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đảng và nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách đổi mới hoạt động của các HTX hoạt động
theo luật (Ban bí thư TW Đảng có chỉ thị 68 –1996 Quốc hội đã ban hành
luật HTX chính phủ ban hành 10 Nghị định hướng dẫn việc triển khai luật
HTX ). Nhờ vậy từng bước khẳng định được vai trò vị trí của HTX trong đời
sống kinh tế xã hội của đất nước. Từ năm 2005 - 2010 tổng sản phẩm trong
nước do khu vực kinh tế HTX tạo ra tăng từ 3.5- 4,5% GDP cả nước.
Dưới đây là một vài điển hình tiêu biểu:
Ở Miền Trung HTX điển hình nổi bật là HTX Duy Sơn 2 (Quảng Nam)
đây là HTX miền núi, ngoài việc làm tốt các dịch vụ tưới tiêu , dịch vụ điện
công suất 1200 Kw để cung cấp cho xã viên, dịch vụ bảo vệ thực vật. Dịch vụ
giống,dịch vụ vật tư… HTX còn mở rộng mối quan hệ liên kết hợp tác với
các ngành , các cấp, phát triển ngành nghề, như liên kết với nhà máy làm đế
giày xuất khẩu, doanh thu trên 8 tỷ đồng/năm liên kết may với nhà may xuất
khẩu, doanh thu trên 2 tỷ đồng, dệt xuất khẩu, xưởng mây tre đan xuất khẩu
doanh thu trên 2 tỷ đồng. Sản phẩm của HTX được xuất khẩu đi nhiều nước
trên thế giới. Hàng năm tạo thêm việc làm cho gần 100 lao động với thu nhập
ổn định từ 1000.000-15000.000 đồng/tháng/lao động. Doanh thu HTX năm
2010 là trên 21,5 tỷđồng.
Ở miền núi phía Bắc có HTX Phù Nam, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái,
tại HTX này đã hoạt động dịch vụ sản xuất, cung ứng giống và vật tư qua
nhiều cửa hàng ở tất cả các tụ điểm dân cư, các bản làng. HTX còn tận dụng
diện tích, tổ chức trồng cây ăn quả. Sản xuất kinh doanh, khai thác cát, sỏi
vôi, kinh doanh vận tải và tiêu thụ ngô, lúa, sắn, chè,…. Nhờ vậy mà doanh
thu hàng năm của HTX đạt 4-5 tỷ đồng. Bên cạnh việc các HTX nông nghiệp
tập trung phát triển cho nội bộ của mình, các HTX nông nghiệp còn mở rộng
22

×