Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Khảo sát một số chỉ tiêu tiểu khi hậu chuồng nuôi và ảnh hưởng của chúng đến nhịp thở của lợn nái mang thai ở các giai đoạn khác nhau tại trại chăn nuôi lợn phước bình 1 của công ty CP việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.63 MB, 45 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Hiện nay chăn nuôi đang là mũi nhọn phát triển kinh tế trong nông
nghiệp, trong đó chăn nuôi lợn đang được chú trọng quan tâm. Với xu hướng
phát triển chăn nuôi tập trung quy mô lớn, phương thức chăn nuôi chuồng kín
đang dần phổ biến đã mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, phương thức chăn
nuôi này thuận lợi hơn cho công tác kiểm soát dịch bệnh.
Chuồng kín có một tiểu khí hậu độc lập được ngăn cách và ít bị ảnh
hưởng bởi môi trường ngoài. Tiểu khí hậu bao gồm các chỉ tiêu thông dụng như
nhiệt độ, ẩm độ, tốc độ gió và chỉ số nhiệt ẩm (THI) Các chỉ tiêu này là một
trong các yếu tố tạo nên môi trường sống và phát triển của lợn, chúng trực tiếp
hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới quá trình trao đổi chất, cảm giác nóng lạnh và một
số chỉ tiêu sinh lý của lợn. Trong đó chỉ tiêu nhịp thở biểu hiện rõ và dễ dàng
nhận bằng mắt thường. Khi có sự thay đổi bất kỳ của một trong các chỉ tiêu nói
trên thì đều kéo theo sự thay đổi các chỉ tiêu khác và làm thay đổi nhịp thở của
lợn.
Trại chăn nuôi lợn Phước Bình 1 của công ty CP Việt Nam là một mô
hình chăn nuôi chuồng kín điển hình. Tại đây, chuồng nuôi được thiết kế hệ
thống dàn mát ở đầu chuồng và hệ thống quạt thông gió cuối chuồng. Tiểu khí
hậu chuồng nuôi luôn được giữ ở mức ổn định và được điều chỉnh thường
xuyên. Với mục đích tìm hiểu rõ hơn về điều kiện tiểu khí hậu trại chăn nuôi
của công ty CP, xác định ảnh hưởng tiểu khí hậu chuồng nuôi đến nhịp thở của
lợn nái mang thai ở các giai đoạn khác nhau, từ đó tìm biện pháp khắc phục
nhằm đảm bảo sức khỏe cho lợn nái, sự phát triển tốt của thai. Vì vậy tôi thực
hiện đề tài: “Khảo sát một số chỉ tiêu tiểu khi hậu chuồng nuôi và ảnh
hưởng của chúng đến nhịp thở của lợn nái mang thai ở các giai đoạn khác
nhau tại trại chăn nuôi lợn Phước Bình 1 của công ty CP Việt Nam”.
Mục tiêu của đề tài:
- Khảo sát và đánh giá sự đồng đều của các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng
nuôi tại các vị trí khác nhau trong chuồng và sự giao động các chỉ tiêu đó theo
thời gian trong ngày.


- Tìm hiểu sự ảnh hưởng của các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi tới
nhịp thở của lợn nái mang thai ở các giai đoạn khác nhau.
1
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số chỉ tiêu tiểu khí hậu
2.1.1. Độ ẩm
2.1.1.1. Độ ẩm tuyệt đối
Độ ẩm tuyệt đối a của không khí trong khí quyển là đại lượng đo bằng
khối lượng m (tính ra gam) của hơi nước có trong 1m
3
không khí. Đơn vị đo
của a là g/m
3
.
2.1.1.2. Độ ẩm cực đại
Nếu độ ẩm tuyệt đối của không khí càng cao thì lượng hơi nước có
trong 1m
3
không khí càng lớn nên áp suất riêng phần p của hơi nước trong
không khí càng lớn.
Áp suất này không thể lớn hơn áp suất hơi nước bão hòa p
o
ở cùng
nhiệt độ cho trước nên độ ẩm độ ẩm tuyệt đối của không khí ở trạng thái bão
hòa hơi nước có giá trị cực đại và được gọi là độ ẩm cực đại A.
Độ ẩm cực đại có độ lớn bằng khối lượng riêng của hơi nước bão hòa
trong không khí tính theo đơn vị g/m
3
.

* Chú ý: độ ẩm cực đại được lấy bằng khối lượng riêng của hơi nước
bão hòa, ví dụ: độ ẩm cực đại ở 28
o
C là 27,2(g/m
3
).
2.1.1.3. Độ ẩm tương đối
Độ ẩm tuyệt đối a chưa cho biết không khí ẩm nhiều hay ẩm ít, vì nhiệt
độ càng thấp thì hơi nước càng dễ bão hòa và độ ẩm tuyệt đối càng gần độ ẩm
cực đại.
Để mô tả mức độ ẩm của không khí ở mỗi nhiệt độ, người ta dùng độ
ẩm tỉ đối B.
Độ ẩm tỉ đối f là đại lượng đo bằng tỉ số phần trăm giữa độ ẩm tuyệt
đối a và độ ẩm cực đại A của không khí ở cùng nhiệt độ cho trước:
2
(39.1)
Trong khí tượng học, độ ẩm tỉ đối f được tính gần đúng theo công thức:
(39.2)
Ý nghĩa độ ẩm tỉ đối cho ta biết mức độ ẩm của không khí. Không
khí càng ẩm thì độ ẩm tỉ đối của nó càng cao.
Có thể đo độ ẩm của không khí bằng các ẩm kế : Ẩm kế tóc, ẩm kế
khô – ướt, ẩm kế điểm sương.
2.1.1.4. Ảnh hưởng của độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí ảnh hưởng đến cân bằng nhiệt của động vật, đặc biệt ở
môi trường quá nóng hoặc quá lạnh. Trong trường hợp quá nóng, giảm nhiệt độ
cơ thể do bốc hơi nước là rất quan trọng đối với sự ổn định thân nhiệt. Áp suất
hơi nước của môi trường càng cao thì sự chênh lệch áp suất hơi nước giữa da
hoặc đường hô hấp với không khí càng thấp, do vậy sự bốc hơi càng giảm. Nói
chung, sự gia tăng áp suất hơi nước của môi trường ít tác động đến cân bằng
nhiệt của các loài động vật chủ yếu dựa vào thở để giảm nhiệt khi có stress nhiệt

nhu đối với lợn.
Làm mát bằng bốc hơi là một cơ chế tỏa nhiệt quan trọng. Ở động vật ít
lông, sự tỏa nhiệt bằng bốc hơi ở da là đặc biệt quan trọng. Trong trường hợp
bốc hơi qua đường hô hấp, nhiệt được lấy từ màng nhầy của cơ quan hô hấp
phía trên. Việc tăng độ ẩm tưong đối trong bất kỳ nhiệt độ nào đều dẫn đến việc
giảm khối lượng nước vận chuyển ra bên ngoài, vì vậy tốc độ bốc hơi giảm. Qua
tính toán tốc độ bốc hơi nước ở lợn do Morrison vies (1975) tiến hành ở 29°C và
có sử dụng giá trị ẩn nhiệt (latent heat) do Holmes và Mount (1967) [17] đưa ra
thì trung bình tổng tỏa nhiệt bằng bốc hơi ở lợn cái 90kg là 3,79; 4,27; 4,10 và
3,10 KJ/lợn/giờ ở độ ẩm tương đối 30, 50, 70 và 90%. Những tính toán đó cho
thấy rằng độ ẩm cao đã cản trở tỏa nhiệt bằng bốc hơi ở lợn.
Đối vói những lợn có khối lượng 90kg không có sự khác nhau nhiều về
phản ứng khi chúng ở trong điều kiện độ ẩm tuơng đối 30 và 94% với nhiệt độ
32°c. Khi nhiệt độ không khí tăng lên đến 36ºC với độ ẩm tương đối 30% thì lợn
3
sụt cân nhưng vẫn sống qua khỏi một giai đoạn kéo dài. Trong trường hợp lợn
phải chịu nhiệt độ 36°C và một độ ẩm tương đối tăng từ 30 lên 94% trong 4 giờ
thì tần số hô hấp tăng gấp đôi vì thân nhiệt tăng 1,4°C.
Về tầm quan trọng của độ ẩm, Holmes vi Close (1977) [19] kết luận f là
nhiệt độ 30°c nếu tăng độ ẩm lên 18%, đồng nghĩa với tăng nhiệt độ lên 1ºC.
Trong chuồng nuôi gia súc, độ ẩm không khí có liên quan chặt chẽ với
nhau. Khi nhiệt độ không khí cao, khả năng giữ hơi nước (độ ẩm cực đại) của
không khí tăng và tốc độ nước bốc hơi tăng. Nếu chuồng nuôi ẩm ướt thì độ ẩm
tuyệt đối của không khí tăng cao cùng với nhiệt độ.
Ngoài độ ẩm của không khí trong chuồng nuôi, người ta còn dùng độ ẩm
sinh lý được xác định theo nhiệt độ trên bề mặt hay trong lớp lông của con vật
để chỉ trạng thái không khí bao quanh da, lẫn trong lớp lông, hấp thụ nhiệt và
nước từ trong da bốc ra. Chỉ tiêu độ ẩm sinh lí nói lên khả năng tỏa nhiệt của
con vật, cho thấy con vật có được dễ chịu hay không.
Trong trường hợp ngược lại, nếu độ ẩm không khí cao, nhiệt độ không khí

thấp thì thúc đẩy các quá trình tỏa nhiệt bằng bức xạ, truyền dẫn và đối lưu dẫn
đến cơ thể mất nhiều nhiệt và bị cảm lạnh.
Độ ẩm không khí trong chuồng nuôi bị chi phối bơi các yếu tố như: sự lưu
thông của không khí, áp suất khí quyển, nước ngầm trong đất, hơi nước do gia
súc thở ra, phân, nước tiểu, nước vệ sinh chuồng trại Để đảm bảo độ ẩm thích
hợp trong bất kỳ nhiệt độ không khí nào, cần vệ sinh chuồng trại một cách
thường xuyên, giảm sự xâm nhập của hơi ẩm vào trong không khí chuồng nuôi.
2.1.2. Nhiệt độ.
Nhiệt độ là đại lượng biểu thị mức độ nóng lạnh. Đây là yếu tố ảnh hưởng
lớn nhất đến cảm giác của gia súc. Người ta thường sử dụng 2 thang nhiệt độ độ
C và độ F.
2.1.2.1 Nhiệt độ tới hạn thấp
Nhiệt độ tới hạn thấp là mốc nhiệt độ môi trường thấp, động vật phải tăng
sản sinh nhiệt lớn hơn nhiệt lượng trao đổi cơ bản để duy trì thân nhiệt.
Quá trình này bao gồm các phản ứng tự vệ như co mạch máu ngoại biên,
dựng lông, điều chỉnh tập tính để giảm mất nhiệt khỏi bề mặt cơ thể.
Tùy thuộc vào điều kiện dinh dưỡng, mật độ nuôi mà mốc nhiệt độ tới hạn
4
thấp có sự khác nhau. Trong trường hợp lợn cùng khối lượng nhưng nuôi cá thể
thì nhiệt độ tới hạn thấp là cao và ngược lại khi nuôi theo nhóm, do đặc tính điều
hòa nhiệt mang tính chất quần thể nên tiết kiệm được nhiệt năng và cuối cùng là
yêu cầu nhiệt ít, nên cần một nhiệt độ tới hạn thấp hơn. Trong cùng khối lượng cơ
thể nhưng mức dinh dưỡng cung cấp lớn thì hạ thấy được nhiệt độ tới hạn thấp.
2.1.2.2. Nhiệt độ tới hạn cao
Nhiệt độ lới hạn cao là mốc nhiệt độ mà trên đó con vật phải thực hiện cơ
chế sinh lý nhằm đưa nhiệt độ cơ thể xuống mức bình thường bằng cách bốc hơi
thông qua tiết mồ hôi, tăng tần số hô hấp, giãn mạch máu ngoại biên nhằm tăng sự mất nhiệt từ bề mặt cơ
thể. Các phương thức tỏa nhiệt như truyền dẫn, bức xạ và đối lưu được thực hiện. Cũng như nhiệt độ tới hạn thấp, nhiệt độ tới
tới cao cũng có thể bị chi phối bởi các yếu tố như đã nêu ở trên. Theo NRC (1981) lợn từ 3 - 100kg có thể chịu đựng được
nhiệt độ lên tới 35ºC song lợn nái và đực giống thì không vượt quá 33ºC (bởi ở mức nhiệt độ này sẽ ảnh hưởng đến tính chất

sinh vật học của tinh trùng và trứng).
2.1.2.3.Vùng nhiệt trung hòa
Vùng nhiệt trung hòa là vùng nhiệt độ môi trường mà ở đó động vật
không có trạng thái stress. Nó bắt đầu lừ mốc nhiệt độ tới hạn thấp đến mốc
nhiệt độ tới hạn cao.
Như dã nói ở phần trên, mỗi loài gia súc, lứa tuổi cũng như mức độ sử
dụng khác nhau yêu cầu một vùng nhiệt trung hòa khác nhau. Có một vài sự
khác nhau trong các kết quả thí nghiệm về quan hệ giữa nhiệt độ tối ưu và sự
phát triển của lợn, đặc biệt là lợn có khối lượng trong khoảng tử 45-90kg. Theo
Morrison và cộng sự (1968) đề nghị nhiệt độ là 22°C và độ ẩm tuơng đối 55%;
trái lại, theo Hazen và Mangold (1960) cho là 19°C và 55%; theo Cunha (1977)
đưa ra một giá trị là 18°C. Trong thực tế không có một khoảng nhiệt độ chính
xác có thể được xác nhận. Theo Heitman và cộng sự (1958) và Mangold và cộng
sự cho rằng sức sản xuất tốt nhất của lợn đang lớn khi nhiệt độ xung quanh được
duy trì trong khoảng 16-21°C. Tuy nhiên, theo Zhang (1994) vùng nhiệt thích
bợp của lợn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường.
Theo NRC (1981) và Yousef (1985) vùng nhiệt trung hòa lại được chia
thành 3 vùng nhỏ là: vùng mát, vùng tối ưu và vùng ấm.
- Vùng mát là phạm vi ở dưới của trung hòa nhiệt, ngay trên mốc nhiệt
độ tới hạn thấp. Các quá trình điều hòa lý học bắt đầu diễn ra. Tốc độ trao đổi
chất tăng cường vì vùng này tiếp giáp với nhiệt độ tới hạn thấp, chính vì vậy
mà tăng sinh nhiệt. Các quá trình này làm tăng nhẹ nhu cầu năng lượng thức
5
ăn cho duy trì của con vật. Vì vậy sức sản xuất và hiệu quả sử dụng thức ăn
có chiều hướng giảm.
- Vùng tối ưu là phạm vi ở dưới của vùng nhiệt trung hòa, trong vùng này
các chỉ tiêu sinh lý ở trạng thái bình thường, sức sản xuất của con vật là tối đa.
- Vùng ấm là phạm vi phía trên của vùng nhiệt trung hòa. Sự giãn mạch
máu và thay đổi diện tích bề mặt cơ thể bằng cách thay đổi tư thế của động vật,
thu nhận thức ăn có thể bị giảm (Ewing và cs, 1999) [8].

2.1.2.4. Vùng stress lạnh
Là khoảng nhiệt độ thấp hơn vùng nhiệt trung hòa và ngay phía dưới nhiệt
độ tới hạn thấp. Các hoạt động cơ học làm giới hạn sự mất nhiệt chuyển dịch về
giá trị tối đa và hoạt động trao đổi chất tăng, tốc độ trao đổi chất tiếp tục tăng tới
mức cao nhất và có thể duy trì trong một giai đoạn dài. Tuy nhiên, con vật chỉ có
thể chịu đựng thêm vài độ thấp hơn. Nhiệt độ cơ thể hạ thấp, kết quả là con vật
giảm thân nhiệt và cuối cùng sẽ chết.
2.1.2.5. Vùng stress nóng
Là vùng phía trên nhiệt độ tới hạn cao. Trong vùng này, con vật giảm các
hoạt động tiêu hao sinh nhiệt trong các mô và thay đổi cách thải nhiệt (như đổ
mồ hôi, thở hổn hển, ). Sản lượng nhiệt tăng do năng lượng cần cho tiêu hao
nhiệt, thêm vào đó là tích nhiệt từ môi trường, con vật sẽ rất khó tự vệ. Kết quả
là lượng ăn vào của con vật giảm và có thể ở trạng thái hôn mê nếu stress nóng
nặng. Khi nhiệt độ cơ thể tăng trên mức bình thường do nhiệt mất đi ít hơn sự
sinh nhiệt trong cơ thể và nhiệt nhận từ môi trường, cuối cùng con vật chết.
Nếu duy trì nhiệt độ ở mức 35ºC thì lợn sẽ bị stress nóng. Tuy nhiên, nếu
chỉ có một số thời điểm có nhiệt độ cao và trung bình nhiệt độ ngày đêm không
vượt quá 25ºC thì sức sản xuất của lợn ở gần vùng nhiệt tối ưu.
Có nhiều phương thức điều hòa thân nhiệt trong điều kiện nhiệt độ môi
trường thay đổi, song tất cả chúng đều quy về 2 phương thức chính là điều hòa
nhiệt vật lý và điều hòa nhiệt hóa học.
2.1.2.6. Tác động của nhiệt độ tới bộ máy hô hấp của lợn
Nhiệt độ cao làm tần số hô hấp tăng lên. Ở gia súc có tuyến mồ hôi kém
phát triển thì hoạt động này là rất rõ. Con vật tiết nhiều nước bọt loãng cũng để
6
tỏa nhiệt cho cơ thể.
Không như ngựa và bò, lợn bốc hơi qua da kém, do vậy trong môi trường
nhiệt độ cao thì bốc hơi nước qua hô hấp để thải nhiệt thừa ra ngoài là chủ yếu.
Để thực hiện tỏa nhiệt theo phương thức này, trước tiên con vật phải tăng tần số
hô hấp.

Theo Morrison và cộng sự (1967) cho thấy rằng: trung bình tần số hô hấp
của lợn cái nặng 90kg tăng 8 lần khi nhiệt độ xung quanh tăng từ 15 lên 29ºC
với độ ẩm tương đối là 70% tương ướng với tăng 3 lần lượng nước bốc hơi qua
đường hô hấp.
Trong tự nhiên, chúng ta cũng thường quan sát thấy lợn chống lại ảnh
hưởng của nhiệt độ cao bằng cách đắm mình trong các vũng bùn, nước. Điều
này gợi cho chúng ta khả năng làm mát cho lợn bằng phương pháp bay hơi nước
ở ngoài mặt da. Heitman và Hughes (1949) [16] đã làm thí nghiệm đối với lợn ở
nhiệt độ không khí 38ºC để chứng minh tầm quan trọng của việc tăng cường
thoát nhiệt từ mặt ngoài da nhằm nâng cao khả năng chịu nhiệt của lợn, sau khi
chuồng lợn được làm ướt bằng một luồng nước chảy chậm, trong vòng 20 phút
tần số hô hấp giảm từ 150 xuống 75 lần/phút, thân nhiệt cũng giảm.
Các phản ứng tự vệ này rất cần thiết cho sự duy trì thân nhiệt khi nhiệt độ
không khí gần bằng nhiệt độ cơ thể với điều kiện là độ ẩm tương đối của không
khí dưới 50%. Nếu độ ẩm tương đối là 90% hoặc cao hơn thì phản ứng của lợn
thể hiện rõ rệt hơn, tần số hô hấp tăng nhanh và nhiệt độ cơ thể đo ở trực tràng
cao hơn, lý do là hơi nước đã bảo hòa trong không khí hít vào nên lượng bốc hơi
ở đường hô hấp giảm đi.
Khi cường độ trao đổi chất càng tăng thì khả năng chịu nhiệt của cơ thể
lợn càng giảm. Đối với lợn có chửa, sự gia tăng nhiệt của bào thai đổi hỏi lượng
nhiệt đó phải được tiêu hao.
Những nghiên cứu ở Việt Nam của một số tác giả cho thấp nhiệt độ môi
trường thay đổi thì tần số hô hấp của lợn cũng thay đổi.
Bảng 2.1. Tần số hô hấp của lợn ở các mốc nhiệt độ môi trường khác nhau [1].
Loại lợn Nhiệt độ (ºC)
15-20 20-25 25-30 30-35 >35
7
Đực giống 12± 3 16 ± 4 25 ± 4 43 ± 8 86 ± 15
Nái mang thai 14 ± 3 18 ± 6 27 ± 5 56 ± 12 97 ± 9
Nái đẻ 25 ± 5 26 ± 5 32 ± 7 - -

Nái nuôi con 24 ± 7 25 ± 7 41 ± 6 62 ± 15 92 ±18
Lợn hậu bị 18 ± 4 22 ± 6 36 ± 8 54 ± 9 85 ± 14
Lợn choai 18 ± 5 20 ± 8 33 ± 7 57 ± 14 91 ± 17
Lợn vỗ béo 13 ± 3 16 ± 4 28 ± 6 65 ± 16 120 ± 26
Như vậy, khi nhiệt độ không khí tăng thì tần số hô hấp của lợn tăng, tăng
mạnh khi nhiệt độ không khí từ 30ºC trở lên. Tần số hô hấp tăng, đồng nghĩa với
tăng sự mất nước.
Nghiên cứu của Toshihiko và Notsuki (1987) [23] trên 6 lợn Landrace
thiến ở các khoảng nhiệt độ không khí từ 12-33ºC, độ ẩm 70%, tốc độ gió bằng
1,3m/s cho thấy tỷ lệ nước bốc hơi qua đường hô hấp/tổng lượng nước bốc hơi
có sự thay đổi khi nhiệt độ không khí thay đổi.
Nước bốc hơi qua đường hô hấp chiếm 50-60% khi nhiệt độ không khí
nhỏ hơn 20%,nhưng tăng lên 70% ở nhiệt độ cao. Giá trị tối đa của tỷ lệ này là
74% ở 33ºC.
Theo Morrison và cộng sự (1967) khi nghiên cứu ở nhiệt độ không khí
30ºC và độ ẩm tương đối 90% thì tỷ lệ này là 66%.
Trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao, do sự gia tăng tần số hô hấp dẫn
đến một lượng nước mất theo. Theo Trần Cừ và Nguyễn Khắc Khôi (1985) [1],
nhiệt độ môi trường càng cao, lượng nước mất đi càng lớn, đồng thời nhu cầu về
oxy cũng như sự thải khí CO
2
cũng tăng.
Bảng 2.2. Sự biến đổi trạng thái sinh lý hô hấp của lợn ở cá nhiệt độ khác
nhau của môi trường
Nhiệt độ
không khí
Tần số
hô hấp
Độ sâu
thở vào

Thông khí
ở phổi
Trao đổi khí ở phổi
Nhu cầu
O
2
Thải CO
2
17 19 0,74 14,12 288 252
8
21 31 0,61 18,95 378 364
26 47 0,45 21,45 396 378
27 63-87 0,42-0,36 26,89-31,2 466-540 414-430
Nguồn Trần Cừ và Nguyễn Khắc Khôi (1985) [1]
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến tần số hô hấp trong điều kiện
nhiệt độ biến đổi vùng nhiệt trung hòa là 20ºC (đối với lợn 20-50kg) và 17ºC
(đối với lợn 55-80kg) so với khí hậu nhiệt đới (trung bình thấp nhất là 20ºC và
trung bình cao nhất là 29ºC, độ ẩm 69-91%) và được đo lúc 23 giờ, đối với lợn
20-50kg hô hấp tăng từ 22-120 lần/phút; còn đối với lợn 55-80kg tăng từ 33-120
lần/phút.
Những nghiên cứu của Toshihiko và Notsuki (1987) [23] cho thấy: tần số
hô hấp tăng cùng với sự tăng nhiệt độ không khí và đặc biệt tăng mạnh khi
không khí đứng yên.
2.1.3. Sự chuyển động của không khí (gió)
2.1.3.1. Nguyên nhân sinh ra gió
Gió là sự chuyển động của không khí tương đối với mặt đất theo phương
nằm ngang.
Nếu khối không khí chịu những áp suất như nhau ở khắp mọi phía thì
khối lượng không khí đó ở trạng thái cân bằng. Còn nếu áp suất tác động lên
khối không khí không đồng đều thì khối không khí đó di chuyển từ nơi có áp

suất cao đến nơi có áp suất thấp. Và sự di chuyển đó cứ tiếp tục cho đến khi nào
sự chênh lệch về áp suất bị triệt tiêu [3].
Vậy, nguyên nhân sinh ra gió là do sự phân bố không đồng đều của áp
suất trên bề mặt của trái đất, sự phân bố không đồng đều của khí áp lại gây nên
bởi sự phân bố không đồng đều của nhiệt độ [3].
Trong hệ thống chuông kín, gió được tạo ra nhờ sự chênh lệch áp suất bằng
việc sử dụng hệ thống quạt hút. Khối không khí bên trong chuồng luôn chuyển động
từ trong ra ngoài và nguồn không khí mới được hút vào qua hệ thống dàn mát.
2.1.3.2. Ảnh hưởng của gió tới cơ thể gia súc
9
Chuyển động của không khí ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi nhiệt thông qua sự chuyển động của
chất mang nhiệt và phương thức thoát hơi nước.Tuy vậy, tầm quan trọng của ảnh hưởng này được điều tiết một phần thông
qua việc giảm nhiệt độ da nhờ sự co thắt mạch quản làm giảm sự chênh lệch nhiệt độ giữa cơ thể với môi trường.
Sự lưu thông của không khí được xác định bởi nhiệt hữu hiệu mà con vật cảm nhận được, đặc biệt là trong
điều kiện ẩm kết hợp với tốc độ không khí lớn và khi nhiệt độ không khí thấp. Trong trường hợp đó làm tăng lượng ăn vào.
Tốc độ lưu thông không khí thấp cũng làm tăng lượng khí CO
2
và sự nảy sinh của vi sinh vật.
Theo Close (1989) [7] thay đổi tốc độ gió 0,2m/s tương đương nhiệt độ môi trường 1ºC, còn trong môi trường
nóng, tốc độ tăng độ ẩm tương đối là 15% cũng tương đương tăng nhiệt độ lên 1ºC.
Gió ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới cơ thể gia súc. Chủ yếu là ảnh
hưởng tới quá trình trao đổi nhiệt của nó. Điều đó thể hiện trong việc tăng sự
mất nhiệt bằng bốc hơi và đối lưu. Do vậy khi nhiệt độ không khí cao kết hợp
với gió mạnh thì giảm được quá trình điều tiết nhiệt của cơ thể. Cho nên trong
những ngày nóng nực gió là một yếu tố quan trọng thúc đẩy việc thải nhiệt
lượng thừa ra khỏi cơ thể. Trong trường hợp ngược lại, khi nhiệt độ không khí
thấp kết hợp gió mạnh thì đó là một tác động không có lợi cho cơ thể, nó làm
cho thân nhiệt giảm xuống rất nhanh và lạnh đi.
Tốc độ gió tăng lên thì ảnh hưởng một cách phản xạ đến quá trình trao đổi
chất của cơ thể. Nếu gió mạnh (>20m/s) thì làm rối loạn quá trình hô hấp, làm

cho cơ thể mệt mỏi và ít linh hoạt. Thí nghiệm cho thấy: Cho tốc độ gió nhỏ
(0,2m/s) thổi thẳng góc vào da có lông dài 21cm tác động kéo dài trong 55 phút
thì nhiệt độ của da giảm 3,5ºC, nhiệt độ trong tầng lông giảm 2,8ºC và nhiệt độ
ngoài tầng lông giảm 2,9ºC.
2.1.4. Chỉ số nhiệt - ẩm
Chỉ số nhiệt - ẩm (Temperature - Humidity Index, THI) là con số có được
do cách tính toán theo phương trình, kết hợp những thông số giữa nhiệt độ và độ
ẩm để xây dựng nên một chỉ số, nhờ đó, xác định được khoảng vi khí hậu (trong
chuồng nuôi) thuận lợi hoặc bất lợi cho sức khoẻ hoặc năng suất vật nuôi, nhất
là trong mùa nóng. Ban đầu, chỉ số này được gọi là “chỉ số không thoải mái”.
Tổ hợp các yếu tố khí hậu - Nhiệt độ môi trường hữu hiệu (EAT -
effective ambient temperature):
Vì động vật luôn tiếp xúc và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố môi trường
cho nên có nhiều cách khi đưa ra các chỉ số nhằm đánh giá phán ứng của động vật. Những chỉ số
này thể hiện ảnh huởng tổng hợp của môi trường sống của động vật.
10
EAT là một chỉ số mô tả yêu cầu về nhiệt của môi trường, cụ thể là nhiệt độ của một môi trường đẳng nhiệt không
có sự chuyển động đáng kể của không khí hoặc sự gia tăng của nhiệt bức xạ. Nhiều tác giả đã thiết lập nhiều phương pháp
nhằm lượng hóa EAT. Hầu hết các cố gắng đều không như dự tính, vì thông thường động vật đang phải chống chọi với stress
bằng các phản ứng hành vi và sinh lý. Chính những phản ứng này lại ảnh hưởng đến yêu cầu về nhiệt độ của môi trường.
Chưa có các công thức để tính toán EAT cho từng loài động vật riêng rẽ, mặc dầu ảnh hưởng kết hợp của một số yếu tô môi
trường đã được đề cập đến, ví dụ các yếu tố gió lạnh (wind chill), chỉ số nhiệt ẩm (THI). Tuy vậy, EAT là một khái niệm hữu
ích khi dự đoán ảnh hưởng của môi trường đến động vật. Mặc dù người ta thừa nhận rằng bên cạnh yếu tố không khí còn có
nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến yêu cầu về nhiệt môi trường.
2.1.4.1. Chỉ số THI có phổ biến không?
Chỉ số THI đã được áp dụng ở nhiều nước để dự đoán stress nhiệt cho gia
súc, gia cầm. Tại nước ta, trong mấy năm qua, nhiều công trình nghiên cứu trên
bò sữa hoặc lợn đã xác định mức độ ảnh hưởng của stress nhiệt và chỉ số THI
đến dinh dưỡng, sinh trưởng, năng suất sữa, sinh sản xủa vật nuôi. Một số tài
liệu trong nước đã công bố mà chúng tôi có được:

- Trên bò sữa: Vương Tuấn Thực và cộng sự (2007), Đoàn Đức Vũ và
cộng sự (2008) .
- Trên bò vàng: Võ Thị Kim Thanh (2008).
- Trên lợn: Nguyễn Văn Phước và cộng sự (2004), Huỳnh Thị Thanh
Thuỷ và cộng sự (2008) .
2.1.4.2. Cách tính THI như thế nào?
Người ta sử dụng nhiệt độ không khí đo bên bầu khô và nhiệt độ không
khí đo bên bầu ẩm (dry- Nilh and wct-bulb air temperatures) để tính toán chỉ số
nhiệt ẩm cho các loài khác nhau. Đối với bò (bài tiết mồ hôi khi có stress nhiệt),
chỉ số này được tính như sau (NRC, 1981) .
THI= (0.35 x nhiệt độ bầu khô) + (0,65 x nhiệt độ bầu ẩm)
Trong khi đó đối với lợn, một loài ít bài tiết mồ hôi, nhiệt độ của bầu ẩm
có trọng số thấp hơn và chỉ số nhiệt ẩm được tính như sau:
THI = (0.65 x nhiệt độ bầu khô) + (0.35 x nhiệi độ bầu ẩm)
Một vài tác giả đã đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của nhiệt độ ở nhiệt kế
khô và độ ẩm tương đối bảng chỉ số nhiệt ẩm cho một số loài. Sự liên quan đó
với lợn về bản chất là hai sự tiếp cận riêng biệt. Theo Trung tâm dự báo thời tiết
quốc gia Hoa Kỳ, chi số thứ nhất (trước tiên là cho người nhưng sau đó thay đổi
cho lợn), đã được trình bày bao gồm những hằng số dựa trên những kết quả của
Viện Bảo tồn vât nuôi.Nó được sử dụng để đánh giá giới hạn dựa trên những
11
quan sát tập tính của vậi nuôi trong thời gian nuôi và vận chuyển. Phương trình
cơ bản cho chỉ số thứ nhất là:
I
1
= 0,72t
w
+ 0,72t
d
+40,6

Trong đó t
d,


t
w
là nhiệt độ của bầu khô và bầu ướt được tính bằng
0
C.
Từ những ảnh hưởng giống nhau của các vùng tổ hợp nhiệt ẩm khác nhau,
người ta đã tìm ra biểu đồ dự báo. Biểu đồ được chia thành ba vùng: báo động,
nguy hiểm và khẩn cấp. THI vượt quá 75 được coi như là tình trạng báo động để
đề phòng con vật sắp bị stress nhiệt. Giữa 79 và 83 là nguy hiểm đối với vật
nuôi nhốt đặc biệt là lợn. Chỉ số cao hơn 84 cho thấy là tình trạng khẩn cấp.
Chỉ số thứ hai cũng giống như chỉ số thứ nhất, cũng có một vài điểm khác
về hằng số. Hơn nữa, xuất phát từ sự quan sát tập tính vật nuôi, chỉ số được dựa
trên tốc độ tăng nhiệt độ cơ thể, phần sâu như là một số đo stress sinh lý. Chỉ số
này được sử dụng với sự thay đổi chút ít của một vài tác giả như Fehr và cộng sự
(1982) [12] và Gates và cộng sự (1991) [11], dạng nguyên bản của chỉ số thứ 2 là:
I
2
= 0,63t
w
+ 1,17t
d
+ 32
Trong đó t
d,



t
w
là nhiệt độ của bầu khô và bầu ướt được tính bằng
0
C.
Hiện nay, THI được sử dụng dưới dạng 2 yếu tố cấu thành là nhiệt độ trên
bầu khô và nhiệt độ trên bầu ẩm qua hàm số dạng:
THI =a*tw + b*td+ c
a= 0,45; b=1,35; c=32 Roller và Goldman (1969),
a=1,53; b=0,27; c=34,07 Fehr và cs (1982) [12],
phương trình hiện đang được sử dụng phổ biến trong việc sử dụng stress để dự
báo mức độ.
Chỉ số nhiệt ẩm thấp khi nhiệt độ không khí thấp và trong trường hợp
nhiệt độ không khí cao thì giá trị THI càng xa nhau.
Với những nỗ lực để thiết lập và cải tiến các chỉ tiêu nhằm lượng hóa
EAT là mục tiêu của các nghiên cứu sau này cho dù hiện tại còn những hạn chế
trong sử dụng.
12
Đa số các tác giả ngoài nước và trong nước ứng dụng phương pháp và công
thức tính toán của Frank Wiersma (1990), dùng đo nhiệt độ và mức độ bốc hơi nước
trong chuồng nuôi (độ ẩm tương đối) rồi tính theo công thức nhiệt kế khô - ướt
THI = nhiệt độ bên khô (
0
F) + [0,36 x nhiệt độ bên ướt (
0
F) + 41,2]
83,6+(0,36*84,2+41,2)10,6
13
2.1.4.3. Bảng tính sẵn chỉ số THI
Bảng tính sẵn chỉ số THI cho lợn (dựa theo Trường Đại học Bang lowa, 2002)

ĐỘ ẨM TƯƠNG ĐỐI (%)
0
F 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65 70 75 80 85 90 95 100
74
76 Vùng chưa stress
78 Vùng cảnh báo stress
80
82
84
86
Vùng stress nguy
hiểm

88
90
92
94
96 VÙNG STRESS KHẨN CẤP
10
0

10
2

10
4

10
6


10
8

11
0

Để sử dụng các bảng trên, ta có thể quy đổi
0
F sang
0
C như sau:
14
0
C = (
0
F - 32)/1,8.
Cụ thể:
0
F 75 80 85 90 95 100 105 110 115 120
0
C 23,88 26,66 29,44 32,22 35,00 37,77 40,55 43,33 46,11 48,88
2.1.4.4. Sử dụng THI để cảnh báo stress nhiệt cho gia súc
Với bò: THI <70: thoải mái; THI=72 - 79: cảnh báo; THI = 80 - 89: nguy
hiểm; THI ≥ 90: khẩn cấp
Với lợn: THI < 75: thoải mái; THI = 75 - 78: cảnh báo; THI = 79 - 83:
nguy hiểm; THI ≥ 84: khẩn cấp
Với bò vàng Việt Nam, Võ Thị Kim Thanh (2008) đã phát hiện HSP70
(protein sốc nhiệt 70) ngay khi nhiệt độ chuồng 25
0
C và độ ẩm tương đối 90% .

2.1.4.5. Tác động của THI đến vật nuôi
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, cứ tăng một đơn vị THI
thì năng suất sữa sẽ giảm 0,26 kg/ngày. Nhưng sau khi đã gặp phải stress nhiệt,
nếu dùng biện pháp kỹ thuật để giảm một đơn vị THI thì cũng chỉ tăng được
0,11 kg sữa/ngày.
Khi THI tăng từ 68 lên 78 vào 2 ngày trước khi phối giống, tỷ lệ thụ thai
của bò sẽ giảm từ 66 xuống còn 35%.
Khi THI >75, lượng thức ăn ăn được của lợn sẽ giảm. Khi THI > 80, lợn
cái chậm động dục, giảm tỷ lệ thụ thai, tăng tỉ lệ chết phôi. Vài tuần cuối kỳ
mang thai, nếu lợn nái gặp THI > 90, dễ làm tăng tỉ lệ thai chết lưu.
Với lợn đực giống, sau khi bị stress nhiệt 3 tuần, tinh trùng dễ bị chết và
lợn đực có thể vô sinh. Khi nhiệt độ không khí lên đến 40
0
C (THI > 90), lợn đực
không có phản xạ giao phối.
2.1.5. Ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố không khí đến cơ thể gia súc
Các yếu tố vật lý không ảnh hưởng dến cơ thể gia súc một cách tổng hợp.
Sự kết hợp khác nhau giữa các yếu tố này gây nên những ảnh hưởng có lợi hoặc
có hại đối với cơ thể gia súc. Như vậy, cho phép chúng ta kết hợp như thế nào
15
đấy giữa các yếu tố vật lý không khí khi mà tác động không lợi của yếu tố này
được tác động bù lại bởi yếu tố có lợi khác.
Tuy nhiên trong thực tiễn của ngành chăn nuôi khó có thể xác định yếu tố
nào tác dụng chính yếu và yếu tố nào tác dụng thứ yếu.
Thí dụ: để xác định mức cung cấp sữa của một con bò cái ở môi trường
nhiệt đới, chúng ta không chỉ nhìn tách riêng từng yếu tố nhiệt độ, độ ẩm mà còn
phải nhìn vào thành phần và chất lượng thức ăn, giống bò, các tính trạng di
truyền…kể cả tình trạng nhiễm giun sán và các bệnh ký sinh trùng khác. Để làm
được việc đánh giá đó, phương pháp nghiên cứu một yếu tố biến đổi trong phức
hợp các yếu tố khác không đổi ở trong phòng thí nghiệm có thể chấp nhận được.

Trong điều kiện thí nghiệm khó giống như trong thiên nhiên, nhất là đối với một
số yếu tố khí tượng như bức xạ mặt trời,…khó tạo lập trong phòng thí nghiệm.
Do đó cần kết hợp phương pháp phòng thí nghiệm và phương pháp hiện trường
ngoài trời để nghiên cứu về sinh khí tượng vật nuôi [4].
Môi trường mà cụ thể là chuồng trại, nơi tạo ra các điều kiện về ăn uống,
ngủ nghỉ, hoạt động cho gia súc trong quá trình sinh trưởng. Để thẩm định môi
trường chăn nuôi phải xét đến 4 vấn đề: Chất lượng không khí chuồng nuôi;
nhiệt độ chuồng; yếu tố quần thể chuồng trại; chất lượng và số lượng nước.
* Đối với chất lượng không khí, có 4 thành phần: Ammonia, Monoxide
cacbon, độ ẩm chuồng nuôi, bụi chuồng, nếu những yếu tố này vượt quá chỉ tiêu
sẽ rất nhiều nguy hại
+ Ammonia (NH3) là chất được sinh ra từ nước tiểu hay đạm dư thừa
trong phân, nếu hàm lượng trong chuồng đo được 25 phần triệu sẽ gây ra cay
mắt, ho, giảm khả năng chống bệnh; 50 phần triệu lợn sẽ giảm tăng trọng 12%,
gây nhức đầu: 100 phần triệu giảm tăng trọng 30% gây rát họng chảy nước mắt.
Do vậy hàm lượng tối đa cho phép là 25 phần triệu. Để khắc phục khí Ammonia
phải dọn dẹp vệ sinh, di chuyển phân hàng ngày đến nơi quy định có hố ủ, bổ
sung chất Micro aid vào thức ăn để giảm mùi.
+ Monoxide cacbon (CO) là chất sinh ra trong quá trình đốt cháy đặc biệt
từ khí gaz, nếu hàm lượng đo được trong chuồng 50- 100 phần triệu lợn nái sẽ
đẻ ít con và con nhỏ, tỷ lệ con chết lưu cao. Nếu hàm lượng đo được từ 150- 350
phần triệu lợn sẽ giảm ăn 10- 30%, nái chửa sẽ sảy thai, nhiều lợn con chết lưu.
16
Hàm lượng cho phép tối đa là 50 phần triệu, do vậy người chăn nuôi phải
thường xuyên điều chỉnh đèn và bếp gaz, tăng thông thoáng chuồng.
+ Độ ẩm chuồng nuôi, nếu độ ẩm cao từ 80% trở lên sẽ là điều kiện tốt
cho dịch bệnh phát triển, đặc biệt đối với lợn con theo mẹ và sau cai sữa dễ bị
tiêu chảy phân trắng, cần giữ chuồng nền khô ráo, không tắm và cọ rửa nền
chuồng. Nếu độ ẩm thấp quá mức 50%, gây nên khô hanh, làm tăng nồng độ bụi
chuồng, nguy cơ bệnh phổi. Độ ẩm cao ta nên tăng cường độ thông thoáng; nếu

độ ẩm thấp giảm độ thoáng, vẩy một ít nước tạo ẩm.
+ Bụi chuồng, nếu nồng độ bụi có trong không khí cao sẽ ảnh hưởng đến
sức khỏe của lợn, gây ho, viêm nhiễm đường hô hấp, lợn giảm ăn, giảm tăng
trọng. Do vậy ta phải thường xuyên điều chỉnh máng ăn hợp lý, sửa chữa máng
hỏng, tăng độ thông thoáng, vẩy nước vào máng ăn. Mức độ bụi chuồng khuyến
cáo ở mức vừa phải tới thấp.
* Nhiệt độ chuồng nuôi, lợn có nhu cầu nhiệt độ khác nhau ở các giai
đoạn khác nhau, nếu nhiệt độ nóng, thấp quá hoặc lạnh quá mức cho phép sẽ có
một số triệu chứng thường thấy ở lợn như đi phân bừa bãi, cắn tai đuôi nhau,
lông thô xù, tăng tỷ lệ bệnh và chết. ảnh hưởng của điều kiện cách nhiệt trần nhà
và tường chắn, sàn nền chuồng, gió lùa cũng rất rõ rệt với lợn.
+ Trường hợp quá lạnh, lợn bị xù lông, nằm chồng đống lên nhau, lợn con
bị mất nhiệt, thiếu hụt năng lượng dễ bị tiêu chảy. Cứ lạnh quá 1 độ C so với
nhiệt độ cho phép lợn sẽ phải ăn thêm một khối lượng thức ăn để chống lạnh.
Do vậy ta phải có hệ thống phông rèm để che chắn gió mưa tạt, các cửa phải
được đóng kín, đối với lợn con theo mẹ và sau cai sữa tạo ra ô ủ úm và đèn sưởi.
+ Trường hợp nóng quá, lợn giảm ăn, giảm tăng trọng và tỷ lệ sinh sản.
Đối với lợn choai và thịt, cứ 3 độ C tăng hơn so với nhiệt độ thích hợp lợn giảm
ăn và giảm tăng trọng 10- 15%; lợn nái nuôi con giảm ăn từ 0,5- 1,8 kg thức ăn,
tỷ lệ nái hao mòn cao, giảm trọng lượng con cai sữa và kéo dài thời gian khô
nái. Với lợn đực giống nhiệt độ từ 26 độ C trở lên đã phải làm mát cho đực,
nóng quá con đực sẽ giảm lượng tinh và chất lượng tinh, tuỳ theo mức độ nóng
thời gian bị ảnh hưởng có thể kéo dài từ 2- 7 tuần sau đó Cách chống nóng tốt
nhất là chuồng phải cao ráo, thông thoáng, làm trần chóng nóng, lắp hệ thống
phun mưa làm mát trên mái, đặt hệ thống ống nước giỏ giọt trên gáy lợn v.v.
17
2.2. Sinh lý mang thai ở lợn nái
2.2.1. Sự thay đổi của cơ thể lợn mẹ trong quá trình mang thai
Sự biến đổi toàn thân: Thời kỳ đầu, quá trình trao đổi chất tăng lên, con
vật ăn khoẻ, tiêu hoá nhanh, khả năng tích lũy lớn dẫn đến con vật nhanh béo. Ở

thời kỳ cuối của thai do yêu cầu phát triển của bào thai, nó phải hấp thụ chất
dinh dưỡng từ con mẹ nên con mẹ thường gầy đi. Trong thời gian có chửa hoạt
động của tim, phổi trở nên khó khăn do áp lực của bào thai đè lên xoang bụng và
ngực. Quá trình lưu thông máu, sự hô hấp và bài tiết đều bị ảnh hưởng. Do vậy ở
thời cuối có chửa con vật thường bị phù nề, khó thở và hay đi tiểu tiện, có thể
mệt mỏi.
2.2.2. Tình hình phát triển của thai lợn
Tùy từng giống mà có sự sai khác nhau rất lớn về kích thước của thai và
ngay trong cùng một ổ thì thai cũng có kích thước to nhỏ khác nhau, nhưng
trung bình thì ta thấy như sau:
- Một tháng: thân dài 1,6-18cm, các bộ phận trong cơ thể đã hình thành.
- Hai tháng: 35 ngày thân dài 5cm, 60 ngày thân dài 8cm. Ngoại hình đã
rõ và đã phân biệt được thai đực thai cái.
- Ba tháng: thân dài 14-18cm, mép, tai, đuôi đã có lông tơ nhỏ. Trước khi
lợn đẻ dài 20-25cm, toàn thân phủ lông dày, xương sọ cứng và đã có răng cửa và
răng nanh [3].
2.2.3. Chăm sóc lợn nái mang thai
Chuồng trại: không sử dụng chuồng 2 bậc, mỗi lợn nái được nhốt riêng
một ô chuồng, nhiệt độ trong chuồng luôn đảm bảo từ 22 – 26
o
C, tốc độ lưu
thông gió khoảng 1,2m/s. chuồng luôn được vệ sinh sạch sẻ, khô ráo. Trước khi
đẻ 7 - 10 ngày chuyển lợn mẹ sang chuồng đẻ để cho lợn mẹ làm quen với
chuồng mới. Chuồng phải được vệ sinh khử trùng theo một quy trình khép kín
nhằm đảm bảo chuồng không có vi trùng.
Vệ sinh thú y: định kỳ tẩy giun sán trong thời gian có chửa, tẩy lần cuối
trước khi đẻ 2 tuần và chú ý tắm rửa định kỳ tuần 2 lần, xịt ghẻ, diệt ký sinh
trùng ngoài da trước khi chuyển sang ô chuồng mới.
2.2.4. Hô hấp và tần số hô hấp
18

Hô hấp là cánh cửa quan trọng của quá trình trao đổi chất. Ở gia súc và
động vật bậc cao khác do cường độ trao đổi chất cao, hơn nữa hầu hết các tế bào
nằm sâu trong cơ thể chỉ để lại lớp tế bào da tiếp xúc với môi trường bên ngoài.
Do vậy, đã hình thành cơ quan hô hấp chuyên biệt là phổi để đảm nhận chức
năng hô hấp. Qúa trình trao đổi khí được thực hiện qua màng phế nang phổi
Tần số hô hấp (nhịp thở) được đo bằng số lần thở trong một phút. Là chỉ
tiêu quan trọng biểu hiện cường độ trao đổi chất của cơ thể. Gia súc non có
cường độ trao đổi chất cao hơn gia súc già nên nhịp thở nhanh hơn. Nhịp thở
còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như: tình trạng bệnh tật, trạng thái sinh lý vận
động, nhiệt độ môi trường, thời tiết, khi hậu…
Tần số hô hấp của lợn là 8-18 nhịp/phút [5]. Đối với lợn mang thai thì tần
số hô hấp cao hơn do cường độ trao đổi chất mạnh hơn và có sự chèn ép của thai
lên cơ hoành.
2.2.5. Phương thức hô hấp
Tùy thuộc vào sự tham gia của các nhóm cơ vào động tác hô hấp mà
người ta phân định ra các kiểu hô hấp sau:
Hô hấp sườn- bụng: khi gia súc thở bình thường thì cả bụng và sườn cùng
thay đổi. Đó là do tác dụng của cơ hoành và nhóm cơ nâng sườn.
Hô hấp sườn: chù yếu, chỉ có nhóm cơ nâng sườn tham gia vào động tác
hô hấp, thấy khi gia súc mang thai do bào thai phát triển chèn ép cơ hoành. Thai
càng to thì tần số hô hấp càng tăng.
Hô hấp bụng: chủ yếu chỉ có cơ hoành tham gia vào động tác hô hấp.
Thấy khi gia súc già yếu, cơ vùng bụng teo hay xoang ngực, tim bị lệch [5].
2.3.1. Một số mô hình nuôi lợn trong chuồng kín
Trang trại chăn nuôi của anh Huỳnh Công Bằng, số 23/3, ấp Trung Lân, xã
Bà Điểm, huyện Hóc Môn, hiện nuôi 400 con heo trên diện tích 700m2 nhưng
tọa lạc ở khu dân cư đông đúc. Tuy nhiên, theo đánh giá của bà con thì trại chăn
nuôi heo của gia đình anh không gây ảnh hưởng môi trường xung quanh. Do áp
dụng mô hình chuồng nuôi khép kín như bố trí quạt làm mát để tạo tiểu khí hậu
chuồng nuôi tối ưu, xung quanh chuồng có rèm che để vừa đảm bảo che mưa,

che nắng, tránh mưa tạt, gió lùa. Phía trước trại được thiết kế một dàn máy làm
19
lạnh kiểu tổ ong để làm mát chuồng nuôi. Phía sau, cuối trại được gắn 4 quạt
máy cỡ lớn liên tục quay để thông gió. Chuồng nuôi có hệ thống biogas (gồm 3
hầm 60m3) để xử lý chẩt thải và tận dụng khí đốt dùng cho sinh hoạt, chạy máy
phát điện với công suất 10 kW/h.
Theo anh Bằng, từ khi có máy phát điện chạy bằng khí gas từ hầm biogas,
các thiết bị dùng điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của gia đình như bơm
nước, đun nấu, thắp sáng, sưởi ấm, làm mát cho heo và các tiện nghi khác đều
hoạt động hết công suất mà điện vẫn ổn định. Việc sử dụng khí gas từ hầm
biogas để chạy máy phát điện có thể giúp gia đình anh tiết kiệm từ 3 - 4 triệu
đồng mỗi tháng. Đây là một khoản tiền không nhỏ đối với đại đa số các hộ nông
dân hiện nay. Hơn nữa, việc sử dụng khí gas từ hầm biogas để chạy máy phát
điện còn góp phần giảm bớt tình trạng thiếu điện như hiện nay. Ngoài ra, nó còn
mang lại sự chủ động trong sản xuất, sinh hoạt ở trại chăn nuôi.
Trung bình 1m3 thể tích hầm biogas sẽ sinh ra khoảng 1m3 gas/ngày. Theo
kết quả khảo sát, lượng gas này sẽ xuất ra 0,5 kw điện, có giá trị 1.250 đ. Như
vậy, sau một năm, 1m3 thể tích hầm biogas sẽ thu được 400.000 - 5 00.000đ.
Nếu là hầm ủ bằng túi nilon (giá khoảng 300.000 - 400.000đ/m3) thì sau hơn 1
năm người dân có thể thu hồi vốn; sau hơn 2 năm nếu là hầm ủ xây bằng xi
măng dạng hình vuông hay hình chữ nhật (giá khoảng 700.000 - 800.000 đ/m3);
và sau hơn 3 năm đối với hầm ủ xây bằng xi măng dạng vòm kiểu Thái Đức
hoặc kiểu KT1 Trung Quốc (giá khoảng 1.000.000 đ/m3).
Hiện tại, trại chăn nuôi heo của gia đình anh có 400 con heo thường xuyên
có mặt trong chuồng, trong đó có 60 heo nái sinh sản, 140 heo hậu bị và 200 heo
thịt. Được bố trí làm 3 khu: khu chăn nuôi heo nái sinh sản, khu nuôi heo con
giống và khu nuôi heo thịt. Nhờ vậy, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đều đạt yêu
cầu. Lợi nhuận thu được sau khi khấu trừ mọi chi phí như lãi ngân hàng, thức ăn
gia súc, khấu hao chuồng trại, điện nước, công lao động,… mỗi năm gia đình
thu được 250 - 300 triệu đồng.

Do thực hiện tốt khâu vệ sinh phòng dịch, thường xuyên tiêu độc, khử trùng
chuồng nuôi nên mặc dù tình hình dịch bệnh lở mồm long móng, heo tai xanh
đang diễn biến phức tạp nhưng trại chăn nuôi heo của gia đình anh vẫn an toàn và
hiệu quả kinh tế đạt cao. Anh Bằng cho biết thêm “kết quả ngày hôm nay phần
lớn là nhờ sự giúp đỡ của Trạm Khuyến nông Hóc Môn đã tạo điều kiện cho tôi
20
tham dự nhiều buổi tập huấn, tham quan, hội thảo. Qua đó, tôi đã thu thập được
nhiều kinh nghiệm tốt để chăn nuôi heo được hiệu quả và an tòan. Hiện mô hình
chăn nuôi của gia đình tôi đang được nhân rộng ra toàn địa bàn để đảm bảo vừa
mang lại hiệu quả kinh tế cao vừa đảm bảo sức khỏe của cộng đồng”.
2.3.2. Mô hình chuồng nuôi lợn mang thai ở trại Phước Bình 1
Tổng diện tích 2337,5m
2
với chiều dài chuồng là 88,5m, chiều rộng
chuồng là 27m. Gồm 8 dãy chuồng, mỗi dãy có 120 ô chuồng phân bố theo
chiều dọc của chuồng.
Chuồng được thiết kế theo mô hình trại kín có hệ thống làm mát gồm dàn
mát đầu chuồng và quạt gió cuối chuồng. Tiểu khí hậu trong chuồng luôn được
điều chỉnh thường xuyên ở mức ổn định.
Các chỉ tiêu cần đạt được trong chuồng:
Nhiệt độ: 24-26ºC
Ẩm độ: 75-85% ( tốt nhất là 80%)
Tốc độ gió: 1,5-2,0m/s ( giữa chuồng )
• Mô hình cắt ngang chuồng bầu của trại Phước Bình 1
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
21
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lợn nái mang thai ở 3 giai đoạn khác
nhau: 2-3 tuần, 7-8 tuần và 13-14 tuần, lợn nái F1 (Landrace xYorkshire) nuôi

tại trại Phước Bình 1 Công ty CP Việt Nam.
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ ngày 02 tháng 01 năm 2012 đến ngày 05 tháng
05 năm 2012.
- Điạ điểm nghiên cứu: đề tài được thực hiện tại trại Phước Bình 1 của Công
ty CP Việt Nam 186 ấp 7 xã Phước Bình huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá sự đồng đều của các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi giữa các
vị trí khác nhau trong chuồng theo chiều cao, chiều dọc, chiều ngang và theo
thời gian trong ngày.
- Xác định sự ảnh hưởng của các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi đến
nhịp thở của heo nái mang thai ở giai đoạn khác nhau: 2-3 tuần, 7-8 tuần và 13-
14 tuần.
3.4. phương pháp nghiên cứu
- Xác định các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi: nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ
gió và chỉ số nhiệt ẩm (THI) bằng máy KESTREL 3000 (hình 3.1).
Hình 3.1. Máy Kestrel 3000
- Phương pháp sử dụng máy được trình bày ở phần phụ lục 1.
- Các vị trí đo tiểu khí hậu chuồng nuôi: các chỉ tiêu được đo ở 4 dãy (dãy
1, 4 5 và 8), mỗi dãy đo ở 3 vị trí (đầu chuồng, giữa chuồng và cuối chuồng),
mỗi vị trí đo ở 2 điểm (điểm trên và điểm dưới).
22
• Đầu chuồng cách dàn mát 4,2m
• Giữa chuồng cách dàn mát 42m
• Cuối chuồng cách quạt 3,8m
• Điểm trên cách sàn 1.6m
• Điểm dưới cách sàn 50-60cm
- Thời gian đo: các chỉ tiêu tiểu khí hậu được đo 4 lần trong 1 ngày: 7-8
giờ, 10-11 giờ, 13-14 giờ và 16-17 giờ.
- Các chỉ tiêu tiểu khí hậu sau khi đo được ghi vào bảng theo dõi kết quả

Bảng 3.1. Theo dõi các chỉ tiêu: nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió và chỉ số nhiệt ẩm
- Nhịp thở của lợn được xác định bằng cách đếm số lần nâng lên và hạ
xuống của thành bụng và thành ngực, một lần nâng lên và hạ xuống được tính
một nhịp thở.
- Trong trường hợp khi đếm nhịp thở mà lợn đang đứng thì đếm con khác
sau đó quay lại đếm tiếp. Còn nếu lợn thở yếu thì đặt tay lên thành bụng hoặc
thành ngực để đếm.
- Nhịp thở của lợn sau khi đếm được ghi vào bảng theo dõi kết quả sau:
Bảng 3.2. Theo dõi nhịp ở của lợn
23
3.5. Phương pháp sử lý số liệu
- Số liệu được xử lý bằng phần mềm excel và minitab
- So sánh gía trị trung bình giữa các chỉ tiêu và nhịp thở với mức ý nghĩa
P<0,05.

PHẦN 4
24
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐÁNH GIÁ SỰ ĐỒNG ĐỀU CỦA CÁC CHỈ TIÊU TIỂU KHÍ HẬU
CHUỒNG NUÔI
4.1.1. Đánh giá sự đồng đều các chỉ tiêu theo chiều cao
Để đánh giá sự đồng đều các chỉ tiêu tiểu khí hậu chuồng nuôi chúng tôi
tiến hành đo nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió và chỉ số nhiệt ẩm trong 7 ngày. Mỗi vị
trí được đo 2 điểm (trên và dưới). kết quả thu được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Kết quả đánh giá các chỉ tiêu lợn chiều cao
Chỉ tiêu
Buổi
Vị trí
Sáng Trưa Chiều Chiều tối
Trung

bình
ngày
Nhiệt độ Trên 26,7±1 28±0,6 27,8±1,2 26,9±1,1 27,3±0,8
Dưới 27,2±0,3 28,1±0,5 28,5±0,7 27,1±1,2 27,7±0,4
TB
*
26,9±0,8 28±0,5 28,1±1 27±1,1 27,5±0,7
P 0,209 0,851 0,191 0,739 0,234
Độ ẩm
(%)
Trên 96,2±1,7 93,3±2,2 92,8±3 94,7±2,9 94,3±1,9
Dưới 94,4±2,1 92,6±1,5 91,6±1,7 93,3±3,2 92,9±1,6
TB* 95,5±2 93±1,9 92,2±2,5 94±3,1 93,7±1,9
P 0,074 0,467 0,353 0,358 0,127
Tốc độ
Gió
(m/giây)
Trên 1,31±0,3 1,26±0,4 1,29±0,3 1,23±0,3 1,29±0,3
Dưới 0,96±0,2 1,02±0,3 1,01±0,1 1,01±0,2 0,99±0,2
TB* 1,14±0,3 1,14±0,4 1,15±0,3 1,12±0,3 1,14±0,3
P 0,011 0,143 0,019 0,117 0,027
THI
Trên 32,8±2,3 35,9±1,7 35,4±2,9 33,3±2,7 34,3±2,1
Dưới 33,9±0,7 35,7±1,4 36±1,9 33,4±2,5 34,8±1,4
TB* 33,3±1,8 35,8±1,5 35,6±2,4 33,3±2,5 34,5±1,7
P 0,240 0,788 0,613 0,982 0,553
TB*: trung bình
Qua bảng 4.1 ta thấy, nhiệt độ trung bình ngày trong chuồng nuôi của trại
Phước Bình 1 là 27,5ºC, độ ẩm trung bình ngày là 93,7%, tốc độ gió trung bình
ngày là 1,14m/giây, chỉ số nhiệt ẩm THI trung bình ngày là 34,5. không có sự

sai khác có ý nghĩa về thống kê giữa 2 điểm trên và dưới đối với các chỉ tiêu
nhiệt độ, ẩm độ và THI. Riêng tốc độ gió thì có sự sai khác giữa 2 điểm này với
mức P<0,05.
25

×