Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

bài tập học kỳ xã hội học pháp luật phân tích các yếu tố tác đông tới hoạt động xây dựng pháp luậtliên hệ với thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.55 KB, 17 trang )

Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
LỜI MỞ ĐẦU
Trước nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, trong
thời gian qua, nhiều đạo luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, thông tư,… đã được
ban hành, tạo khung pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc xây dựng, ban hành và thực thi các văn bản pháp luật đã bộc lộ những
vấn đề ảnh hưởng đến chất lượng và hướng dẫn thi hành luật. Nguyên nhân của các
vấn đề thể hiện ở các khía cạnh khác nhau, từ xây dựng chính sách đến ban hành luật
thể chế hoá chính sách và tổ chức thực hiện luật, trong đó có những vấn đề thuộc về
quy trình xây dựng và ban hành luật; có những vấn đề thuộc về khâu soạn thảo; có
những vấn đề thuộc về chính sách thể chế vào luật v.v…Chính vì muốn được hiểu rõ
thêm về thực tiễn của hoạt động xây dựng pháp luật em đã lựa chon đề tài: “Phân tích
các yếu tố tác đông tới hoạt động xây dựng pháp luật?Liên hệ với thực tiễn xây dựng
pháp luật ở nước ta hiện nay?”để hoàn thành bài tập lớn học kỳ của bộ môn Xã hội
học pháp luật. Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những sai dót về mặt nội dung
cũng như hình thức trình bày kính mong quý thầy(cô)thông cảm!
NỘI DUNG
I, Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật:
1, Khái niệm xây dựng pháp luật:
“Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của nhà
nước nhằm tạo ra công cụ, phương tiện hữu hiệu phục vụ công tác quản lý nhà nước,
quản lý xã hội”. Có thể nói, việc xây dựng pháp luật tạo ra được các văn bản quy phạm
pháp luật phản ánh chân thực nhu cậu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là
vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý nhà
nước.Đây là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội
được nhà nước trao quyền nhằm soạn thảo và ban hành các bộ luật, đạo luật , các văn
bản quy phạm pháp luật là hoạt động soạn thảo , ban hành các luật, văn bản pháp luật,
bao gồm từ khâu nghiên cứu, soạn thảo, thông qua và công bố văn bản.
2, Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật:
Ở nước ta hiện nay hoạt động xây dựng pháp luật vừa mang tính chất giai cấp, vừa
mang tính dân chủ rộng rãi, vừa là hoạt động có tính chất nghề nghiệp. Hoạt động xây


1 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
dựng pháp luật được tiến hành trên cơ sở kế hoạch(ngắn hạn và dài hạn) do cơ qaun có
thẩm quyền đặt ra.
Xét về mặt chủ thể, hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm không chỉ các cơ quan
chính quyền nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền, mà còn có tổ chức đoàn thể
xã hội được giao những nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước. Nhân dân là chủ
thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật.Ngoài ra các cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng pháp luật.
3, Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật:
Hoạt động xây dựng pháp luật là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn với quy trình
và hàng loạt các thao tác, thủ tục cần thiết diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định
do pháp luật quy rất chặt chẽ nhằm biến ý chí của nhà nước thành các quy phạm pháp
luật có tính bắt buộc chung. Các công đoạn của hoạt động xây dựng pháp luật đòi hỏi
sự đầu tư về thời gian, nhân công, kinh phí, và được triển khai theo các giai đoạn cụ
thể.
Có thể trình bày tóm lược quá trình xây dựng luật theo sơ đồ hoàn chỉnh sau đây:
*Quy trình chuẩn bị, xem xét, thông qua các dự luật:

- Đối với các dự án do Chính phủ trình thì
Chính phủ phân công các cơ quan chịu trách
nhiệm chủ trì soạn thảo và thành lập các Ban
soạn thảo.
- Đối với các dự án do tòa án nhân dân tối cao,
viện kiểm soát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trình
thì các cơ quan này tự tổ chức ban soạn thảo.
-Đối với các dự án do ủy ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc
2 | P a g e

Ủy ban thường vụ Quốc
hội phân công cơ quan
trình, cơ quan thẩm tra các
dự án thuộc chương trình
dự kiến tiến độ chuẩn bị
các dự án.
Thành lập các Ban soạn
thảo
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
hội hoặc đại biểu của Quốc hội trình, hoặc các
dự án lớn có tính chất liên nghành thì Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định các ban soạn
thảo.
1.Tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên
quan đến dự án luật, khảo sát, đánh giá thực trạng
quan hệ xã hội có liên quan đến nội dung chính
sách của dự án.
2. Tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên
quan đến dự án.
3. Chuẩn bị đề cương biên soạn và chỉnh lý dự án.
4. Tổ chức lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan và các đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của văn bản trong phạm vi và với hình thức
thích hợp tùy theo tính chất và nội dung của từng
dự án.
5. Chuẩn bị tờ trình và tài liệu liên quan đến dự
án.
6.Phối hợp với các cơ quan tổ chức hữu quan
chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết,

hướng dẫn thi hành.
7. Đối chiếu có tính đến điều ước quốc tế mà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia.

Cơ quan thẩm định về nững vấn đề sau:
a, Sự cần thiết ban hành luật, đối tượng,
phạm vi điều chỉnh của dự án.
3 | P a g e
Tổ chức việc soạn thảo
các dự án luật
Bộ Tư pháp thẩm
định dự án luật
Cơ quan chủ trì soạn
thảo
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
b, Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến,
hợp pháp và tính thống nhất của các dự án với
hệ thống pháp luật.
c, Tính khả thi của văn bản
d, Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo
e, Ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản
4 | P a g e
Trong quá trình chuẩn bị, có trường hợp dự
án luật được gửi để lấy ý kiến tại các địa
phương trong đó có các đoàn ĐBQH. Thư
ký đoàn ĐBQH có trách nhiệm giúp tổ
chức việc họp đoàn hoặc gửi tài liệu xin ý
kiến các thành viên trong đoàn và tập hợp

ý kiến của đoàn ĐBQH về dự án luật theo
đề nghị của cơ quan soạn thảo.
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có trách nhiệm tham gia ý kiến
bằng văn bản về dự án luật mà nội dung
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ quản lý
nghành, lĩnh vực của mình
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật

-Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo tờ trình
dự án luật.
-VPCP báo cáo kết quả tổng hợp ý kiến thành
viên của Chính phủ và ý kiến thẩm tra của VPCP
-Chính phủ xem xét thảo luận tập thể(những dự
án do Chính phủ trình biểu quyết theo đa số để
quyết định việc trình dự án luật ra Quốc hội).

5 | P a g e
Chính phủ xem xét
cho ý kiến về dự án
luật để trình Quốc
hội
Chính phủ trình
Quốc hội dự án
Luật
Hội đồng dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội thẩm tra dự án luật
Ủy ban thường vụ Quốc hội
cho ý kiến về dự án luật
Quốc hội xem xét cho ý

kiến về dự án luật tại kỳ
họp thứ nhất
Ủy ban thường vụ
Quốc hội chỉ đạo việc
tiếp thu chỉnh lý dự án
luật đã được Quốc hội
cho ý kiến
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
II, Các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng pháp luật:
1, Kỹ năng soạn thảo các dự án luật:
Thực tế cho thấy, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là
các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở nước ta trong thời gian qua, mặc dù số
lượng lớn nhưng còn có những hạn chế nhất địnhm nhiều văn bản chồng chéo lên
nhau, có nội dung trùng lặp, thiếu đồng bộ thậm chí mâu thuẫn nhaulaf cho hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó chất lượng cuare các quy
phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả. Trình độ lập pháp, lập
quy chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống xã hội nên đã
không tiên liệu, dự báo được hết những sự kiện, tinh huống pháp lý có thể xảy ra trong
thực tế xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những quy phạm pháp luật được ban hành
không phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc hậu so với đời sống xã hội, không phát
huy được hết hiệu lực trong thực tế cuộc sống.
Chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật, mà cụ thể là tính khả thi, hiệu lực và
hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phụ thuộc rất nhiều vào kỹ
năng soạn thảo các dự án luật. Vì vậy, đây là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt
động xây dựng pháp luật. Vấn đề này liên quan đến các khía cạnh cụ thể sau:
-Nhận thức của các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật về tầm quan trọng, sự cần
thiết của văn bản pháp luật cần xây dựng, ban hành. Sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ
hay mờ nhạt, nửa vời sẽ quy định thái độ tích cực hay tiêu cự, sự hăng hái, nhiệt tình
hay thờ ơ, lãnh đạm của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
6 | P a g e

Ủy ban thường vụ
Quốc hội trình Quốc
hội dự án luật đã
được tiếp thu chỉnh
lý.
Quốc hội xem xét
thông qua luật
Chủ tịch nước công
bố luật
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
Đến lượt mình, sự nhận thức này tác động đến kỹ năng soạn thảo và chất lượng các văn
bản đã ban hành.
- Trình độ hiểu biết xã hội, am hiểu nhất định của các chủ thể tham gia hoạt động xây
dựng pháp luật về lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh có tác
động rất quan trọng. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các mặt
các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần đến pháp luật, từ tình trạng
thực tế, nguyên nhân phát sinh, tồn tại của vấn đề cho đến các nhân tố văn hóa – xã hội
đang tác động đến vấn đề đó…, thì họ sẽ đưa ra được các quy phạm, chuẩn mực pháp
luật sát với thực tế, dự liệu được những khả năng, tình huống có thể phát sinh trong
tương lai mà đưa ra các quy phạm pháp luật đón trước.Ngược lại sự hiểu biết hời hợt,
nông cạn là nguyên nhân làm cho các văn bản pháp luật có thể bị xa rời thực tiễn,
không phát huy được tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Tri thức, hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia xây dựng
pháp luật là cái tác động mạnh mẽ đến chất lượng văn bản pháp luật được ban hành.
Nó là cơ sở đẻ các chủ thể nêu lên các sáng kiến luật, phân tích hình thức, nội dung cấu
trúc của các dự thảo quy phạm pháp luật đã hợp lý chưa, chỉ ra tính hợp hiến hay
không hợp hiến, sự trùng lặp hay không trùng lặp với những văn bản đã được ban
hành, đã bao quát được hết các khả năng có thể có hay còn bộc lộ những khe hở nào
đó…Những điểm này, khi được chú trọng xem xét trong quá trình soạn thảo dự thảo
dự án luật sẽ cho ra đời văn bản pháp luật tốt, có chất lượng cao, ngược lại, sự chồng

chéo, thiếu đồng bộ là chuyện có thể nhìn thấy trước.
- Hoạt động của các cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan chuyên trách soạn thảo và các
cơ quan tham gia, phối hợ cũng có tác động không nhỏ đến chất lượng văn bản dự thảo
luật. Về nguyên tắc, cơ quan chuyên trách phải hoạt động độc lập thì mới đảm bảo tính
khách quan, vô tư của các quy phạm pháp luật, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi
còi”. Sự tham vấn ý kiến của các cơ quan khác là rất cần thiết nhằm khắc phục sự cảm
tính, tùy tiện. Tham khảo các văn bản pháp luật của nước ngoài ở lĩnh vực có liên quan
cũng rất quan trọng, nhưng chỉ là tham khảo, tránh dập khuôn, máy móc vì mỗi đất
nước có nền kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán khác nhau.
Thực tế chỉ ra rằng, trong một số trường hợp, pháp luật được ban hành nhanh chóng trở
nên lạc hậu so với yêu cầu của cuộc sống chính là vì kỹ năng soạn thảo của các chủ thể
còn nhiều hạn chế, trình đọ kiến thức, hiểu biết xã hội, hiểu biết pháp luật của họ còn
thấp, chưa có các chuyên gia làm việc chuyên nghiệp trong lĩnh vực này. Một số văn
bản pháp luật điều chỉnh nghành nao, lĩnh vực nào thì giao cho nghành đó soạn thảo
nên chưa bảo đảm tính khách quan, vô tư trong các chuẩn mực pháp luật.Tất cả những
điều kiện đó cần được khắc phục để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động
xây dưng pháp luật.
7 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
2, Dư luận xã hội:
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các
nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên
quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện
trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Dư luận xã hội có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục, trong số đó
phải kể tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp
luật. Ở nước ta hiện nay, sự ảnh hưởng đó thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội là sự thể hiện những lợi ích chung thông qua tiếng nói
chung của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát huy

quyền làm chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng
pháp luật. Như đã nói ở trên, các tầng lớp nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động
xây dựng pháp luật. Hiến pháp của nhà nước ta đã khẳng định nguyên tắc quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân đồng thời thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho việc thực thi
quyền lực nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của
nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình
thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức
nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình. Đây là hình thức hữu hiệu
tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước,
khả năng tham gia tích cực và chủ động vào các hoạt dộng của nhà nước, trong đó có
hoạt động xây dựng pháp luật. Dân chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thông qua đó,
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, vận hành thoe quy định của Hiến pháp. Theo
cơ chế này, nhân dân bầu ra cơ quan đại diện. Cơ quan đại diện trực tiếp nhận quyền
lực từ nhân dân nên còn được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó Quốc hội là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương.
Thứ hai, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và
thiết thực đối với quá trinh xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy
phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành cac quyết định của các cá nhân, nhà
chức trách có thẩm quyền. Để có được các văn bản pháp luật sát thực tế, các văn bản
quyết định quản lý hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi cao, trước khi xây
dựng, soạn thảo các dự án hay ban hành các quyết định, các cơ quan lập pháp, cơ quan
quản lý phải nắm bắt được thực trang tư tưởng, tâm lý của các đối tượng xã hội mà văn
bản pháp luật, quyết định nhằm vào. Mọi chủ trương chính sách pháp luật khó có thể
trở thành hiện thực nếu không hợp lòng dân, không được nhân dân ủng hộ.Khi đã có
được các dự án luật, các thông tin phản hồi lại càng quan trọng. Mọi vướng mắc lệch
8 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
lạc trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó
lường trước, đều được bộc lộ qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội là một trong những cơ

sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các văn bản các
quyết định phù hợp lòng dân. Dư luận xã hôi có tác dụng phát hiện những thiếu hụt,
những khe hở trong các văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho nhà nước có các biện
pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh một cách kịp thời các văn bản pháp luật còn khiếm
khuyết, tháo gỡ các vướng mắc khó khăn phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội không mạng tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất to
lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên trong xã
hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền,
với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng nghe dư luận xã hội một
cách nghiêm túc và phân tích nó một cách một cách khoa học để có thể rút ra được
những kết luận chính xác về thực trạng của nhưng lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có
pháp luật điều chỉnh; góp phần tăng cường vai trò và hiệu lực của công tác quản lý xã
hội bằng pháp luật.
3, Thông tin đại chúng:
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền
hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng pháp luật, thể hiện
ở các điểm sau:
-Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa dạng
về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống chính trị, xã hội, pháp
luật, cung cấp những tri thức, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các chủ thể của hoạt
động xây dựng pháp luật cần thiết cho các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật,
phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri, hiểu biết pháp luật cần thiết cho các chủ thể của
hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sơt thông tin để các tàng lớp xã hội tham gia vào
hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia vào
hoạt động xây dựng pháp luật.
-Các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp luật
của nhà nước, các dự thảo văn bản pháp luật mới, đưa các thông tin đó đến được với
đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn luận để các
chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia bình luận, phân tích đóng góp ý

kiến của mình vào hình thức, nội dung, cấu trúc của văn bản pháp luật. Đồng thời các
phương tiện thông tin đại chúng đăng tải các thông tin phản hồi, các ý kiến đonhs góp
của các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân cho hoạt động xây dựng pháp luật. Bằng
cách tác động đó, thông tin đại chúng giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
9 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
tập hợp thông tin, xử lý và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho việc
sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
-Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò định hướng thông tin pháp luật, tạo lập
các luồng dư luận xã hội tích cực phản ánh hoạt động xây dựng pháp luật, tạo luồng
các dư luận xã hội tích cực phản ánh hoạt động xây dựng pháp luật; góp phần đấu tranh
chống lại các âm mưu phá hoại, các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc bịa đặt của các
thế lực thù địch về nội dung, bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước ta; củng cố
niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
III, Thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay:
1, Một số ưu điểm và thành tựu trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật:
1.1.Một số ưu điểm và thành tựu trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
- Trước hết về hoạt động lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Kể từ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ra đời năm 2008, công tác lập
chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được coi trọng, trở thành khâu
quan trọng trong toàn bộ quy trình xây dựng văn bản. Hoạt động lập chương trình đã
tạo thế chủ động cho các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành văn bản
nhất là chủ động lựa chọn ưu tiên ban hành văn bản đáp ứng nhu cầu điều chỉnh xã hội.
Trong thời gian qua Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thực hiện tốt quy định
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trình tự lập chương trình xây dựng luật,
pháp luật. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được chuẩn bị khá tốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai công tác xây dựng, ban hành số lượng lớn các luật, pháp
lệnh.
Một số địa phương(chủ yếu là cấp tỉnh) đã có chương trình xây dựng văn bản quy

phạm pháp luật hàng năm như: Phú Thọ, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bà Rịa-Vũng Tàu,…
chương trình được xây dựng trên cơ sở nhằm bảo đảm thực hiện luật và các văn bản
của các cơ quan nhà nước cấp trên.
- Về thủ tục soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:
Có thể khẳng định những quy định về thủ tục soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật là
một trong những nội dung thể hiện sự thành công của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
10 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
Thành lập ban soạn thảo là việc bắt buộc đối với việc soạn thảo dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành.Có thể thấy những dự
thảo luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
nghị quyết, nghị định của Chính phủ…khi đã được đưa vào chương trình xây dựng, các
cơ quan dự thảo thành lập Ban soạn thảo đúng theo quy định của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.Nhìn chung, trình độ, năng lực chuyên môn của các chuyên
gia là thành viên ban soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật ngày càng nâng cao. Thực
tế cho thấy hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật trong những năm qua bước đầu được chú trọng và được bảo đảm thực
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như mở Hội nghị, hội thảo…
- Về hoạt động thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chủ thể tiến hành hoạt
động thẩm tra thuộc về Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của các văn bản quy phạm pháp
luật, thời gian qua Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đã tiến hành thẩm tra
nhiều dự thảo.
Hoạt động thẩm định thuộc về Bộ tư pháp và Ban tư pháp. Công tác thẩm định của Bộ
tư pháp với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật đã đạt được kết quả khá tốt, góp
phần nâng cao chất lượng văn bản, đảm bảo tiến độ trình, thông qua, ký ban hành.
- Về việc lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật:

Nhìn chung, trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật những cơ quan có
thẩm quyền đã thực hiện tốt quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản.Dự thảo Bộ luật dân sự lần
thứ 12 được đưa ra lấy ý kiến đóng góp nhân dân có 701 điều, sau khi tổng hợp lấy ý
kiến, các cơ quan chức năng đã tiếp thu, chỉnh lý thành một dự thảo mới với 838 điều
trong đó có 98 điều giữu nguyên, 38 điều bị lược bỏ, hơn 600 điều được sửa đổi và 159
điều được bổ sung.So sánh giữa bản thảo dự thảo trước khi đưa ra lấy ý kiến và bản dự
thảo khi đã chỉnh lý theo ý kiến đóng góp thì bản dự thảo mới hoàn thiện hơn hẳn vì
được bổ sung thêm hoặc loại bỏ những nội dugn không phù hợp
1.2.Một số ưu điểm và thành tựu trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật:
- Về hoạt động thảo luận và thông qua văn bản quy phạm pháp luật:
Trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua, hoạt động
thảo luận, thông qua đã bước đầu tuân thủ đúng quy trình của Luật ban hành văn bản
11 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
quy phạm pháp luật. Đối với văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, thủ
tục thảo luận, thông qua đã được cải tiến hơn trước. Việc xem xét thông qua dự thảo
nghị quyết của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã phần nào đáp ứng
quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cũng như
quy chế hoạt động của tòa án nhân dân. Còn việc xem xét, thông qua dự thảo quyết
định chỉ thị của Ủy ban nhân dân đã được chú ý hơn trước nhất là ở cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
-Về hoạt động công bố văn bản quy phạm pháp luật:
Kể từ khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ra đời cho đến nay, hoạt động
công bố đã được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như đăng công báo, yết thị,
đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa lên mạng tin học diện rộng…
Thông qua những hình thức công bố khác nhau mà các đối tượng thi hành biết được
nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
thực hiện văn bản. Đối với việc đăng công báo các văn bản quy phạm pháp luật của các

cơ quan nhà nước ở trung ương được cải thiện đáng kể và từng bước đi vào nề nếp,
bước đầu tạo điều kiện để mọi người có thể tiếp cận được văn bản quy phạm pháp luật
cần quan tâm.
Những ưu điểm cũng như thành tựu trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật nêu trên đã góp phần làm cho số lượng cũng như chất lượng của các văn bản
quy phạm pháp luật ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
Đối với những dự thảo luật, pháp lệnh cần lấy ý kiến nhân dân thì Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội có quyền quyết định. Từ quy định này có thể thấy thẩm quyền
quyết định lấy ý kiến nhân dân mới chỉ dừng lại ở ý chí của cơ quan cấp trên(Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội), đồng thời cũng mới hạn chế ở dự thảo luật, pháp lệnh.
Về phía cơ quan nhà nước, các quy định này cũng chỉ dừng lại ở trách nhiệm thụ động
của họ mà chưa có các quy định về việc lấy ý kiến nhân dân trong đó có đối tượng chịu
sự tác động trực tiếp của văn bản là nhiệm vụ bắt buộc của các cơ quan chủ trì soạn
thảo. Điều đó cũng có nghĩa là chưa có một cơ chế hữu hiệu để nhân dân chủ động
tham gia vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
2, Những tồn tại và khuyết điểm trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật:
2.1. Những tồn tại và khuyết điểm trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
- Về hoạt động lập chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Trong thời gian qua, sô lượng các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được thông qua
chỉ chiếm khoảng 60 – 70% trong tổng số dự thảo đưa vào chương trình, kế hoạch
12 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
hằng năm hoặc cả nhiệm kỳ.Về lĩnh vực kinh tế, trong chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh cả nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XII có 15 dự thảo luật, 15 dự thảo pháp lệnh
đến tháng 8 năm 2010 mới thông qua được 10 luật còn 5 dự thảo luật chưa thông qua,
thông qua 6 pháp lệnh còn lại 9 dự thảo pháp lệnh chưa thông qua.
Việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hàng năm mặc dù về chủ
trương, nguyên tắc là đúng nhưng đi vào cụ thể còn nặng về cảm tính, thiếu tính khoa
học và thực tiễn nên chương trình lập ra phải điều chỉnh nhiều, kết qur thực hiện không

cao.Việc lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phần nào còn thiếu
đồng bộ, chưa tập trung đáp ứng những yêu cầu bức xúc của thực tế. Ngoài ra việc lập
chương trình còn bó hẹp trong nội bộ cơ quan có trách nhiệm nên chương trình còn
phiến diện, chưa bao quát, thiếu đồng bộ. Có văn bản chưa thực sự cần thiết lai đưa
vào chương trình dự án Luật thanh niên. Luật dân tộc đã được tiến hành soạn thảo từ
rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa thống nhất về phạm vi điều chỉnh của luật; ngược lại
có những văn bản thực sự cần thiết lại chưa đưa vào chương trình. Một khuyết điểm
nữa là do các bước chuẩn bị xem xét, thông qua chương trình chưa được xác định cụ
thể, hợp lý. Các quy định hiện hành chưa đề cao trách nhiêm của các cơ quan tham gia
vào việc lập chương trình và các chủ thể đề xuất lập chương trình.
Nhiều địa phương không tiến hành lập kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật,
tính bị động của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân là rất cao.
-Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật:
Quá trình chuẩn bị một dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thường bị kéo dài
về mặt thời gian do thiếu điều tra khoa học thực tế để đánh giá đúng thực trạng các
quan hệ xã hội cũng như mức độ cần tác động thích hợp của nhà nước. Bên cạnh đó có
một số dự án, dự thảo chất lượng còn thấp, chưa dự liệu được đầy đủ các khả năng tác
động của văn bản dẫn đến phải thường xuyên sử đổi, bổ sung như Pháp lệnh cán bộ,
công chức được ban hành ngày 26/2/1998 đến ngày 28/4/2010, Ủy ban thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức và cũng chỉ sau 2 năm thực hiện tại phiên họp thứ 8 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội khóa XI thông qua Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi có hieeujh lực ngày
1/7/2003.Việc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên, trong thời
gian ngắn như trên đã ảnh hưởng tới uy tín của các cơ quan ban hành đồng thời gây
khó khăn cho quá trình thực hiện trên thực tế.Tình trạng soạn thảo mang tính đối phó
diễn ra khá phổ biến do vậy chất lượng văn bản không thể đảm bảo.
-Về hoạt động thẩm định, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật:
13 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật

Trên thực tế bộc lộ một số điểm hạn chế như: chất lượng của các Báo cáo thẩm tra,
thẩm định chưa cao; các ủy viển thẩm định, thẩm tra hoạt động kiểm nghiệm chưa
dành nhieeug thời gian cho hoạt động này làm ảnh hưởng đến tiến độ công việc.Qua
khảo sát ở một số địa phương cho thấy vai trò thẩm định của các Ban của Hội đồng
nhân dân và thẩm định của Sở Tư pháp không được chú trọng thậm chí rất mờ nhạt.
Tại Thanh Hóa và Bình Định còn không quy định rõ Sở Tư pháp là cơ quan thẩm định;
có nơi lại giao cho Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng này như Lạng Sơn, Thừa
Thiên – Huế…
-Về hoạt động tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật:
Những hạn chế điển hình diễn ra là: Nhiều khi dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
không được gửi đi lấy ý kiến hoặc có gửi đi lấy ý kiến thì cũng mang tính hình thức,
chỉ lấy cho đủ mà không coi trọng vai trò vủa hoạt động này; những ý kiến đóng góp
của những đối tượng cũng sơ sài, chung chung, đôi khi không đóng góp vào nội dung
trọng tâm của dự thảo văn bản; thời gian xin ý kiến còn quá hạn hẹp, cho nên các đối
tượng được hỏi ý kiến không có đủ thời gian nghiên cứu kỹ về nội dung, hình thức dự
thảo.
2.2.Những tồn tại và khuyết điểm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật:
-Về quy trình thông qua văn bản quy phạm pháp luật:
Thực tế, vẫn còn nặng về hình thức và mất nhiều thời gian. Khi thảo luận dự án luật tại
kỳ họp của Quốc hội, các đại biểu thay vì quyết định những vấn đề lớn, có tính quan
điểm lại tập trung đóng góp ý kiến về câu chữ, kỹ thuật, cách hành văn từng điều
khoản cụ thể.Cách làm này vừa tốn thời gian, vừa chưa đảm bảo chất lượng và không
phát huy được trí tuệ tập thể.
Ngoài ra các quyết định, chỉ thị có nội dung chứa đựng các quy phạm pháp luật mặc dù
do Ủy ban nhân dân ban hành nhưng nhiều khi chỉ do cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân
dân trực tiếp ký mà không đưa ra thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.Như vậy
không đảm bảo đúng trình tự thông qua và tất nhiêm sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của
văn bản.

-Về hoạt động công bố văn bản quy phạm pháp luật:
Sau khi được chủ thể có thẩm quyền thông qua, văn bản quy phạm pháp luật sẽ được
đăng công bố bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức đăng công báo.
Mặc dù đã có những quy định của pháp luật về việc đăng công báo, nhưng trên thực tế
vẫn còn số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, đã có hiệu lực
14 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
nhưng chưa được đăng Công báo, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ,
cơ quan ngang Bộ ban hành.
3, Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xây dựng
pháp luật ở nước ta hiện nay:
• Tăng cường công tác thẩm tra các dự án luật bằng công cụ xã hội học.
• Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng
pháp luật.
• Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng pháp luật trước
yêu cầu mở rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững.
KẾT LUẬN
Hoạt động xây dựng pháp luật là lĩnh vực hoạt động cơ bản và quan trọng của nhà
nước luôn thu hút được sự quan tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu luật học và các
nhà xã hội học pháp luật mà còn liên quan đến cuộc sống nhiều mặt của mọi người dân
trong xã hôi nên luôn được sự quan tâm theo dõi, đóng góp ý kiến của mọi tầng lớp
nhân dân. Chính vì tầm quan trọng của hoạt động xây dựng pháp luật đối với xã hội mà
chúng ta cần phải không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật
đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.Hoàn thành mục tiêu xây dựng
một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đạt bốn tiêu chuẩn:” toàn diện, đồng bộ,
khoa học, thực tiễn” có khả năng điều chỉnh hiệu quả các mối quan hệ xã hội cơ bản
theo hướng phát triển nhanh, liên tục, ổn định, vững chắc, đem lại ngày càng nhiều lợi
ích vật chất, tinh thần cho xã hội và các thành viên xã hội.
15 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I, Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật trang 1
1, Khái niệm xây dựng pháp luật trang 1
2, Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật trang 2
3, Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật trang 2
II, Các yếu tố tác động tới hoạt động xây dựng pháp luật trang 6
1, Kỹ năng soạn thảo các dự án luật trang 6
2, Dư luận xã hội trang 8
3, Thông tin đại chúng trang 9
III, Thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay trang 10
1, Một số ưu điểm và thành tựu trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trang 10
1.1.Một số ưu điểm và thành tựu trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật trang 10
1.2.Một số ưu điểm và thành tựu trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật trang 11
2, Những tồn tại và khuyết điểm trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trang 12
2.1. Những tồn tại và khuyết điểm trong xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật trang 12
2.2.Những tồn tại và khuyết điểm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật trang 14
3, Một số giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xây dựng
pháp luật ở nước ta hiện nay trang 15
KẾT LUẬN
16 | P a g e
Bài tập học kỳ xã hội học pháp luật
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

-Giáo trình xã hội học pháp luật(tái bản lần thứ nhất có chỉnh sửa, bổ sung),
TS.Ngọ Văn Nhân, Nxb.Hồng Đức, 2012.
- MSVDLL&TT của hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở
nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đoàn Thị Tố Uyên.
- Các Website tham khảo:
www.luathoc5c.net
www.vanban.chinhphu.vn
www.xaydungphapluat.chinhphu.vn
17 | P a g e

×