Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động việc làm ở ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.94 KB, 45 trang )

GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một đất nước phát triển khi biết phát huy
những khả năng của lao động nói chung và của phụ nữ nói riêng, trân
trọng thành quả lao động mà họ mang lại, công nhận những đóng góp của
phụ nữ và nam giới như nhau. Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội điều này
chưa được nhận thức đúng đắn, đặc biệt là những nước đang phát triển.
Từ đó đã gây nên tình trạng không bình đẳng trong lĩnh vực lao động –
việc làm giữa nam và nữ. Việt Nam cũng không ngoại lệ khi rơi vào hoàn
cảnh này. Nó đã có những tác động tiêu cực đến sự phát triển lâu dài và
để lại những hệ lụy không nhỏ trong xã hội.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã triển khai hàng loạt những chính
sách, bộ luật góp phần thay đổi suy nghĩ, nhận thức của người dân và
nâng cao vai trò của phụ nữ, giúp họ phát huy những khả năng vốn có,
trau dồi kiến thức để xã hội phát triển. tuy nhiên, để làm được điều này
phải có trình tự, hệ thống, kiên trì, cố gắng và quan tâm của các ban
ngành đoàn thể. Có như thế mới đảm bảo quyền con người được áp dụng
triệt để và là nền tảng cho sự phát triển công bằng và hiệu quả.
Phụ nữ đã và đang khẳng định được khả năng, vai trò, địa vị của
mình trong xã hội, đặc biệt là họ đã làm chủ được cuộc sống của mình
khi họ có thể vừa là một người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa có thể
lao động – làm việc để khẳng định vai trò của mình. Nhưng hiện nay, còn
rất nhiều nguyên nhân đã kìm hãm sự phát triển, đảm bảo quyền bình
đẳng của con người mà cụ thể là phụ nữ. Để giải quyết tình trạng này,
không chỉ cần sự cố gắng từ phụ nữ, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
mà còn cần xã hội thay đổi suy nghĩ, nhận thức về vấn đề này. Đồng thời
cần những biện pháp, khuyến nghị để có sự bình đẳng trong lao động


giữa nam và nữ giới. Đây cũng là lý do sinh viên chọn đề tài “Bình đẳng
giới trong lĩnh vực lao động – việc làm” cho bài tiểu luận của mình.
1

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 1
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động - việc
làm, chỉ ra những thực trạng, nguyên nhân của vấn đề đồng thời có
những biện pháp để cải thiện tình hình. Ngoài ra, đề tài còn nêu nên một
số khuyến nghị nhằm phát huy những mặt thuận lợi và hạn chế những
khó khăn khi thực hiện những quyền đáng có của phụ nữ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động – việc làm.
Thời gian: từ ngày 10/05/2011 đến ngày 10/06/2011.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích tài liệu: gồm các văn bản có liên quan như
phân tích những chính sách, bộ luật của Đảng và Nhà nước về quyền của
phụ nữ, những đề tài liên quan đến vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực
lao động – việc làm.
Phương pháp quan sát thực tế.
Phương pháp tìm tài liệu trên mạng để bài tiểu luận của sinh viên
được hoàn thiện hơn.
5. Khách thể nghiên cứu.
Chính sách và văn bản liên quan tới bình đẳng giới trong lao động –
việc làm: các nghị định của Chính phủ về vấn đề bình đẳng giới, quyền
của phụ nữ, những luật định liên quan đến giới và bình đẳng giới.
2


SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 2
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.

1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM.
1.1.Bình đẳng.
Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có sự công bằng về
quyền lợi, trách nhiệm và bình đẳng về tiếp cận cơ hội và ra quyết định. Tức
là nam giới và phụ nữ cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng
và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia,
đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển;
được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành
quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội và quyết định cuộc sống của
mình
Theo khái niệm trên thì bình đẳng giới không phải là sự hoán đổi vai trò
của nam, nữ từ thái cực này sang thái cực khác và cũng không phải là sự
tuyệt đối hóa bằng con số hoặc tỉ lệ 50/50 mà là sự khác biệt về giới tính
trong các vai trò sản xuất, tái sản xuất, vai trò chính trị và cộng đồng, đặc
biệt là sự chia sẻ công việc gia đình, chăm sóc các thành viên gia đình để tạo
cơ hội và điều kiện cho nam, nữ phát triển tòan diện về mọi mặt. Đồng thời
tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ bù đắp những khoảng trống do việc mang
thai, sinh con và gánh vác phần lớn lao động gia đình đem lại.
1.2. Giới.
Giới (Gender): Là sự khác biệt về nữ giới và nam giới xét về mặt xã
hội. Nói cách khác, nói đến giới là nói đến các quan niệm, thái độ, hành vi,
các mối quan hệ và tương quan về địa lý xã hội về nữ giới và nam giới trong
một bối cảnh cụ thể
3


SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 3
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

1.3. Lao động.
Lao động là hoạt động tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội
Đây là hoạt động quan trọng nhất của con người, đóng vai trò quyết
định trong lịch sử phát triển của loài người. Ph. Ăng ghen đã viết “ lao động
là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người, đến một mức và
trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói rằng: Lao động đã tạo ra chính
bản thân con người” (C. Mác – Ph.Ăng ghen, tuyển tập, tập 5, NXB Sự Thật,
Hà Nội 1983 tr 491). Đây cũng chính là phương thức tạo ra của cải vật chất
và các giá trị tinh thần đem lại cuộc sông ấm no cho con người và là nhân tố
quyết định sự phát triển của xã hội.
Ngay từ thời kỳ nguyên thủy, con người đã biết săn bắt, hái lượm để
nuôi sống bản thân và dòng tộc, đây chính là hình thức lao động sơ khai đầu
tiên đã hình thành trong suy nghĩ của con người khi loài người xuất hiện.
Nhờ có lao động mà con người tách mình ra khỏi thế giới động vật, biết tích
lũy kinh nghiệm để chinh phục tự nhiên, làm chủ cuộc sống của mình, tạo
nên một nền văn minh của chính con người như ngày nay. Cac Mac cũng
khẳng định
Như vậy, có thể nói rằng biết lao động là một phẩm chất đặc biệt và là
phẩm chất sống còn của con người. trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyến thống lao động
cần cù, sáng tạo. Đây là một tài sản quý của con người và dân tộc Việt Nam,
truyền thống này cần được giữ gìn, tiếp tục phát huy trong công cuộc đổi
mới và xây dựng đất nước. Nhất là thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
đất nước.
1.4. Việc làm.
Khái niệm việc làm được Bộ luật lao động quy định: mọi hoạt động

tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm.
Hiểu một cách nôm na thì việc làm chính là sự kết hợp giữa sức lao
động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích
của con người.
4

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 4
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Mọi hoạt động lao động là tất cả các hoạt động tạo ra các giá trị vật
chất, tinh thần cho xã hội. Những hoạt động lao động này phải tạo ra nguồn
thu nhập và không bị pháp luật cấm. Đây cũng chính là sự khác nhau giữa
lao động và việc làm. Lao động được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm cả
lao động tạo ra nguồn thu nhập và lao động không tạo ra nguồn thu nhập
như lao động công ích, các hoạt động từ thiện, các sáng tạo nghệ thuật
không nhằm mục đích tạo ra thu nhập. Còn việc làm thì phải tạo ra thu nhập
cho người lao động.
Khái niệm này đã cho phép người lao động và người sử dụng lao động
có thể tạo ra nhiều việc làm phong phú và đa dạng.
1.5. Bình đẳng giới trong lao động – việc làm.
Là sự công bằng giữa nam giới và nữ giới về quyền lợi, vị trí, trách
nhiệm, tiếp cận cơ hội và ra quyết định trong quá trình tạo ra các giá trị vật
chất, tinh thần
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN.
Định kiến giới: Là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực
về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam và nữ ( Luật bình đẳng giới).
Giá trị giới: Là các ý tưởng mà mọi người nghĩ nữ và nam nên như
thế nào và hoạt động nào mà họ nên làm.
Nhu cầu giới: là nhu cầu của giới nam hoặc giới nữ, nó có thể là những

thứ nhìn thấy được, thiết thực, cụ thể, giúp họ tồn tại như cơm ăn, áo mặc,
nhà ở, điện nước, chất đốt hoặc có thể là những thứu khó nhận thấy, trừu
tượng nhằm giúp cho mỗi giới phát triển trí tuệ, phát huy năng lực bản thân,
nâng cao địa vị và vị thế trong xã hội như thông tin, được đến trường, học
hành, tham gia bầu cử, hội họp…
Phân biệt đối xử giới: Là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận
hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa
nam và nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội và gia đình.
5

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 5
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Phân công lao động: Là sự phân chia lao động để sản xuất ra một hay
nhiều sản phẩm nào đó mà phải qua nhiều chi tiết, nhiều công đoạn cần
nhiều người thực hiện.
Có hai loại phân công lao động, đó là: Thứ nhất, phân công lao động
cá biệt là chuyên môn hóa từng công đoạn của quá trình sản xuất trong từng
công ty, xí nghiệp, cơ sở Ví dụ sản xuất ra cái bàn thì cần người cưa,người
bào, người đục Sản phẩm của họ làm ra chỉ nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu
cầu tiêu dùng của người sản xuất. Vì vậy, kiểu sản xuất này được gọi là sản
xuất tự cấp tự túc, do đó sản phẩm của họ làm ra không có tính trao đổi hoặc
mua bán trên thị trường nên chưa được gọi là hàng hóa. Thứ hai, Phân công
lao động xã hội là chuyên môn hóa từng ngành nghề trong xã hội để tạo ra
sản phẩm ví dụ như sản xuất một chiếc xe máy, các chi tiết như lốp xe, sườn,
đèn, điện mỗi chi tiết phải qua từng công ty chuyên sản xuất chi tiết đó
cung cấp, sau đó mới lắp ráp thành chiếc xe máy. Các sản phẩm này không
còn giới hạn ở nhu cầu sử dụng của người sản xuất mà nó được trao đổi,
mua bán, được lưu thông đến người sử dụng trong xã hội, lúc này sản phẩm
đó được gọi là hàng hóa.

Thu nhập: Là phần chênh lệch giữa khoản thu về và khoản chi phí đã
bỏ ra. Loại thu nhập này lại gồm thu nhập từ lao động (tiền công, tiền lương
bao gồm cả lương hưu, các khoản trợ cấp bao gồm cả học bổng) và thu nhập
tài chính (lãi tiết kiệm, lãi mua bán chứng khoán, thu từ cho thuê bất động
sản) và các thu nhập khác (tiền thưởng, )
3. VAI TRÒ CỦA ĐỀ TÀI.
Đối với Việt Nam, lao động nữ luôn là nguồn nhân lực to lớn góp
phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nhờ những thành tựu nổi bật về
kinh tế - xã hội, những chính sách đúng đắn, những cam kết, luật về quyền
con người, Đảng và Chính phủ Việt Nam thực hiện một hệ thống chính sách
xã hội công bằng, tiến bộ, hướng vào mục tiêu phát triển con người, tạo điều
kiện và cơ hội cho mọi người, đặc biệt là phụ nữ. Thực tế cho thấy, phụ nữ
Việt Nam thực sự được giải phóng, tiềm năng lao động nữ được phát huy và
vị thế người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong xã hội. Tuy nhiên, bên
cạnh những thuận lợi, cơ hội, lao động nữ cũng đang có những khó khăn,
thách thức, nhất là trong lĩnh vực lao động – việc làm.
6

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 6
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Nguyên nhân của tình trạng này không chỉ phụ thuộc vào mức độ ảnh
hưởng từ những tư tưởng định kiến giới trọng nam khinh nữ trong xã hội,
quan điểm văn hóa truyền thống mà còn phụ thuộc vào nỗ lực của nhà nước
trong việc cải thiện sự bất bình đẳng giới. Điều đó dẫn đến sự hạn chế các cơ
hội để phụ nữ tiếp cận nền giáo dục và đào tạo, việc lựa chọn ngành nghề, cơ
hội nâng cao trình độ chuyên môn, vị trí và cải thiện vị thế của họ trong lĩnh
vực kinh tế. Để giải quyết tình trạng này, phải có những biện pháp phù hợp,
tích cực để phụ nữ và nam giới đều được hưởng những lợi ích cũng như cơ

hội như nhau.
Mục tiêu bình đẳng giới nói chung vừa là vấn đề quyền con người vừa
là một yêu cầu cơ bản cho sự phát triển công bằng và hiệu quả. Vì vậy việc
nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động – việc làm có ý
nghĩa quan trọng không chỉ trong việc hướng tới sự bình đẳng trong xã hội
mà còn góp phần tìm kiếm các biện pháp để nâng cao hiệu quả và hiệu lực
của tăng trưởng kinh tế - xã hội.
7

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 7
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM .
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Truyền thống xưa nay của phụ nữ Việt Nam là giỏi việc nước đảm
việc nhà. Trong gia đình nữ giới đã thể hiện tốt vai trò làm vợ, làm mẹ,góp
phần xât dựng gia đình hạnh phúc, êm ấm, trong hoạt động kinh tế - xã hội,
phụ nữ ngày càng khẳng định được mình trong thị trường lao động. Chính vì
vậy, vấn đề thúc đẩy bình đẳng giữa nam và nữ được được Đảng và Nhà
nước xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền kinh tế và
xây dựng một xã hội: công bằng – dân chủ và văn minh. Nhận thấy sự cần
thiết đó, ngay từ những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, bình đẳng giới đã là một mục tiêu lớn mà Đảng ta đặt ra. Trong
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”. tư tưởng đó đã
được quán triệt nhất quán trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền,
dân chủ nhân dân trong suốt hơn 60 năm qua. Từ đó, nhiều văn bản pháp
luật về bình đẳng giới đã được ban hành, hoàn thiện và áp dụng, bổ xung
cho đến ngày nay.

Chúng ta đều thừa nhận rằng việc xúc tiến sự bình đẳng giữa nam và
nữ sẽ đem lại cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho tất cả mọi người, đem lại
lợi ích cho toàn xã hội, giúp tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị
và công bằng xã hội. Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ cố gắng làm tốt
mục tiêu này. Không thể phủ nhận những thành quả mà Đảng và Nhà nước
đã đạt được cùng những lợi ích mà mọi nguời được hưởng, đặc biệt là phụ
nữ khi áp dụng những chính sách bình đẳng giới, đó là thành quả, công lao
đáng được ghi nhận và phát huy.
8

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 8
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong xã
hội, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Thực hiện bình đẳng giới đã giúp họ
thoát khỏi hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: cam chịu, là
người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc các thành viên trong gia
đình, đồng thời là người làm việc nhà là chủ yếu. Ngày nay, họ được tham
gia vào các lĩnh vực quan trọng như chính trị, giáo dục, y tế và đặc biệt là
trong lĩnh vực lao động – việc làm, họ đã làm chủ được cuộc sống của mình
khi là những người góp phần tạo ra thu nhập và tiếng nói của họ đã có trọng
lượng hơn trong gia đình, xã hội.
Tuy nhiên, trong thực tế phụ nữ vẫn chưa đạt được bình đẳng thực sự
trong việc tiếp cận các cơ hội và đối xử trong công việc. Đây thực sự là một
vật cản lớn, hạn chế cơ hội, khả năng phát huy năng lực của phụ nữ, kìm
hãm sự sáng tạo trong công việc của họ. Nó còn là căn nguyên của đói
nghèo, bất bình đẳng trong xã hội, gây nên tình trạng bạo hành gia đình. Một
khi vấn đề này chưa được giải quyết thì bình đẳng thực sự trong xã hội chưa
thể đạt được như mong muốn, quyền con người chưa được thực hiện một
cách tối đa.

9

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 9
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

II. THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
LAO ĐỘNG –VIỆC LÀM
2.1. Khái quát tình hình bình đẳng giới ở nước ta.
2.1.1. Trong lĩnh vực chính trị.
Phụ nữ ngày càng bình đẳng hơn trong việc tự ứng cử và tự giới thiệu
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và các tổ chức đoàn
thể. Tỷ lệ nữ đảng viên trong tổng số đảng viên mới kết nạp đã có xu hướng
tăng lên hàng năm. ở khối địa phương, tỷ lệ nữ đảng viên mới kết nạp chiếm
từ 25% đến trên 30% trong tổng số đảng viên mới kết nạp. ở khối cơ quan
trung ương, có nhiều Bộ, ngành tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng đã đạt từ
15 đến trên 20%.
Trong Quốc hội, tuy tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII
thấp hơn nhiệm kỳ trước và chưa đạt chỉ tiêu của chiên lược Quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ đén 2011, nhưng số dại biểu nữ giữ các trọng trách quan
trọng trong các cơ quan của Quốc hội đã tăng lên. Tại các địa phương, số
lượng nữ dại biểu Hội đồng nhân dân các cấp qua các nhiệm kỳ 1994 –
1999, 1999 – 2004 và nhiệm kỳ 2004 – 2009 ( và được kéo dài đến năm
2011 theo Nghị quyết của Quốc hội) đều tăng so với các nhiệm kỳ trước. Tại
ủy ban nhân dân cấp tỉnh, số thành viên nữ chiếm tỷ lệ 8,61%; Uỷ ban nhân
dân cấp huyện, số thành viên nữ chiếm tỷ lệ 6,4%; Uỷ ban nhân dân cấp xã,
số thành viên nữ chiếm tỷ lê 3,99%.
10

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 10
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển


Đội ngũ cán bộ, công chức tăng về số lượng và chất lượng, nhiều chị
đã được bổ nhiệm, đề bạt, giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp từ trung ương đến địa phương.
Số lượng cán bộ, công chức nữ trong các cơ quan hành chính nhà
nước, từ cấp huyện, tới trung ương chiếm khoảng 3,10%, trong đó, nữ lãnh
đạo chiếm khoảng 18,4%, phụ nữ ngày càng có cơ hội bình đẳng với nam
giới trong việc xây dựng và thực hiên quy định, quy chế của cơ quan, tổ
chức. Ở cấp xã, cán bộ chuyên trách nữ chiếm 16,27% trong tổng số cán bộ
chuyên trách. Nam giới và phụ nữ đã cùng bình đẳng trong tham gia xây
dựng và thực hiện quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên, kết quả tổng hợp báo cáo và khảo sát thực tế cho thấy, vẫn
còn tồn tại khoảng cách về giới trên lĩnh vực này, hầu hết nam giới giữ vị trí
lãnh đạo, có vùng tỷ lệ nữ dưới 10%. Tỷ lệ nữ ở khu vực đặc biệt khó khăn
tham gia HĐND cấp huyện và xã thấp hơn nhiều so với bình quân của toàn
quốc (6-7%, có vùng 12%).
2.1.2. Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo.
Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong
nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới
trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh
nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp: Tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi
từ 15 đến dưới 40 bị mù chữ đã giảm dần qua các năm, tỷ lệ đi học cấp tiểu
học của cả nước hiện nay đạt rất cao, năm học 2009 – 2010, tỷ lệ này đạt
100%. Tỷ lệ học sinh nữ cấp tiểu học trong tổng số học sinh hiện ở mức từ
47% đến xấp sỉ 49%, học sinh dân tộc cấp tiểu học cả nước đạt 17,82%. Về
cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp
học trước năm 2015. Có 4 loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành
cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội
học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước.
Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc

biệt là vai trò của giáo dục đối với xã hội, ngành GD&ĐT đã thực hiện
tương đối tốt vấn đề bình đẳng giới. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh
Mai đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “chiếm hơn 70% đội ngũ toàn
ngành, giới nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp GD&ĐT
11

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 11
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

nước nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo
như Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều
nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức
danh Phó Giáo sư. Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định
vai trò của giới mình bằng cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả
xuất sắc. Trong các kỳ tuyển sinh vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là
học sinh nữ. Còn trong các kỳ thi tốt nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng
cử nhân với thành tích xuất sắc.
Tuy nhiên, thực chất bình đẳng giới trong GD&DT còn nhiều vấn đề
cần xem xét. Hiện nay, nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ
vì sợ liên quan đến chế độ nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc
giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi học còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên.
Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường so với nam giới. Nếu tính trung bình
cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29%
so với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam
giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của
nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam hoặc phụ nữ chỉ
mới chiếm trên 5% tổng số giáo sư, phó giáo sư trong nghề dạy học và
nghiên cứu … Đồng thời, các chính sách trong giáo dục và Đào tạo cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến bình đẳng giới, chẳng hạn việc tăng giảm học phí ảnh
hưởng rất nhiều đến quyền lợi của trẻ em gái. Bởi vì trẻ em gái có nguy cơ

bị buộc nghỉ học cao hơn bé trai khi điều kiện gia đình khó khăn.
2.1.3. Trong lĩnh vực kinh tế và lao động.
Trong những năm gần đây, tỷ lệ phụ nữ trong tổng số lao động có việc
làm là 49,4% so với tỷ lệ 50,6% của nam giới, tỷ lệ nam giới và phụ nữ tham
gia hoạt động kinh tế ở mức gần bằng nhau với 83% của phụ nữ so với mức
85% của nam giới. Lao động nữ đã tham gia ngày càng nhiều trong khu vực
phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ
thuật, công nghệ cao và khu vực dịch vụ, khu vực kinh tế phi chính thức. Tỷ
lệ lao động nữ đã chiếm trên 46% trong số người làm công ăn lương trong
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh so với 54% của nam giới; hơn 41% số chủ
cơ sở sản xuất kinh doanh là nữ so với 59% nam giới. Tỷ lệ lao động nữ
tham gia xuất khẩu lao động hàng năm chiếm khoảng 33 – 34%. Sau khi có
luật đất đai sửa đổi năm 2003, đã có gần 90% giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được cấp mới có tên cả vợ và chồng. tạo thuận lợi cho phụ nữ bình
12

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 12
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

đẳng với nam giới trong việc thế chấp vay vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh
Tuy nhiên, do tình trạng mù chữ và tái mù chữ, rất ít phụ nữ sinh sống
trong các bản làng dân tộc thiểu số tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh,
hoặc làm việc trong các nhà máy, hay trở thành công chức Nhà nước. Tỷ lệ
phụ nữ vùng dân tộc thiểu số có việc làm rất thấp, lao động nữ làm nông
nghiệp là chủ yếu. Lao động nữ trong mọi loại hình doanh nghiệp đều có
mức lương cơ bản thấp hơn so với lao động nam, chiếm khoảng 68% lương
cơ bản của lao động nam, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao, khoảng 5,8%…
2.1.4. Trong lĩnh vực y tế.
Tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai trên 3 lần đạt tỷ lệ khá cao. Tỷ

lệ bà mẹ khi sinh con được cán bộ y tế chăm sóc cũng không ngừng tăng lên:
năm 2006 là 93,4%, năm 2007 là 92,92%, năm 2008 là 95,6%. Các hoạt
động về khám thai trên 3 lần cho phụ nữ có thai trước khi sinh và được cán
bộ y tế hỗ trợ chăm sóc trước khi sinh, trong sinh và sau sinh cho phụ nữ có
thai đã góp phần giảm dần tỷ suất chết của các bà mẹ có liên quan đến thai
sản. nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho nhân dân là một trong những
mục tiêu quan trọng trong đó có mục tiêu đến năm 2010 đảm bảo 100% các
trạm y tế có nữ hộ sinh; 80% trạm y tế xã, phường có bác sĩ…tuy nhiên, phụ
nữ ở vùng sâu, vùng xa vẫn ít có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ trên…do
điều kiện đi lại khó khăn, vật chất còn thiếu thốn…
2.1.5. Trong lĩnh vực thể dục – thể thao, văn hóa, xã hội.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực này được thể hiện tại điều 16 của Bộ
luật lao động với nội dung: Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động
văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao. Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ
văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin. Nó được áp dụng và thể
hiện rất rõ qua:
Trong lĩnh vực thể dục, thể thao, các vận động viên nữ và nam đã có
nhiều cống hiến và đóng góp vào thành tích chung của nền thể thao Việt
Nam. Năm 2009, tại SEAGAME 25, có 98 vận động viên nữ đạt huy
chương trong tổng số 215 huy chương của Đoàn thể thao Việt Nam – chiếm
45,5% (gồm 36/83 huy chương vàng, 36/75 huy chương bạc và 26/57 huy
13

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 13
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

chương đồng), trong đó nổi bật là thành tích của đội tuyển bóng đá nữ Việt
Nam đã giành được huy chương vàng tại giải thi đấu. Tại Đại hội Thể thao
trong nhà ASEAN Indoor Game lần thứ 3 (AIG 3), Đoàn Việt Nam đứng vị
trí thứ 2/42 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự Đại hội với 42 huy chương

vàng, 30 huy chương bạc và 22 huy chương đồng. Hầu hết các môn thi đấu
tại AIG 3 đều có sự góp mặt của các vận động viên nữ. Trong tổng số 8 vận
động viên của Việt Nam được ghi nhận phá kỷ lục tại SEAGAME 25 và AIG
3 có sự góp mặt của 2 nữ vận động viên do những thành tích xuất sắc mà các
chị đã đạt được.
Hiện nay, phụ nữ được giao lưu, tiếp xúc, gặp gỡ với bên ngoài để mở
mang kiến thức, hoàn thiện bản thân…tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều hạn chế
trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, do sự chênh lệch về điều kiện sống mà tỷ lệ
phụ nữ ở thành thị được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng cao
hơn phụ nữ ở nông thôn ( 38,3% phụ nữ thành thị được tiếp cận 3 loại hình
cơ bản của truyền thông: tivi, đài, báo in) nhưng tỷ lệ này ở nông thôn chỉ có
15,5%.
2.1.6. Trong gia đình.
Hiện nay, vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các
quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình, có quyền, nghĩa vụ ngang
nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập
chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. Đồng thời
bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện
pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con
ốm theo quy định của pháp luật. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc,
giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và
phát triển.
Tuy nhiên, vẫn còn nạn bạo hành trong gia đình, phụ nữ bị buôn bán
điều này thể hiện rõ trong chính sách xây dựng nhà tạm lánh của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam cho những nạn nhân của bạo lực gia đình, bị buôn
bán. Hiện nay, cả nước có 10 nhà tạm lánh, trong đó có 2 nhà dành cho nạn
nhân của bạo lực gia đình và con cái của họ (tại Hà Nội và Huế), số còn lại
là dành cho phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân bị buôn bán trở về (tại Hà Nội,
Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Cần Thơ và Tp. Hồ Chí Minh).
Các nhà tạm lánh là nơi giúp cho phụ nữ và trẻ em gái có thể tiếp cận các

14

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 14
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tư vấn, giáo dục, dạy nghề và một số kỹ năng
sống cần thiết…
2.2. Thực trạng bình đẳng giới trong lao động – việc làm.
2.2.1. Bình đẳng giới về phân công lao động.
Hiện nay, cả nước có 70% phụ nữ trong độ tuổi 16- 55 tham gia lực
lượng lao động, và phụ nữ chiếm 52% tổng lực lương lao động. Tuy nhiên
phụ nữ chỉ chiếm 40% số việc làm được trả lương và tiếp tục chiếm tỷ lệ
thấp trong những nghề nghiệp có vị thế cao, trong khi lại chiếm số đông
trong các nghề nghiệp có vị thế thấp. 41% lao động làm công ăn lương trong
các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) và 50% làm việc trong khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, khu vực kinh tế chính thức chỉ tạo việc làm cho dưới 20%
tổng số việc làm ở nước ta, và tỷ lệ này đang giảm. Theo báo cáo của Ngân
hàng thế giới (2009), 88% lực lượng lao động ở thành thị đang làm việc ỏ
khu vực kinh tế không chính thức ở các khu đô thị. Phụ nữ đã phải chịu tác
động không tương xứng so với nam giới do việc giảm biên chế ở khu vực
nhà nước và khu vực kinh tế hợp tác vào những năm 1992 – 1994. khoảng
550.000 phụ nữ đã bị mất việc làm do việc giảm bớt số lượng của doanh
nghiệp nhà nước, trong khi đó số nam giới bị mất việc là xấp xỉ 300.000.
điều đó dẫn đến một số lớn phụ nữ đã phải rời bỏ nhưng công việc mình yêu
thích, có tiền lương cao, chuyển sang các công việc trong khu vực kinh tế
không chính thức, điều kiện lao động về mức độ an toàn thấp hơn…
Số lao động nữ đang làm việc trong khu vực kinh tế không chính thức
ở nước ta dao động từ 70 – 80%. Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm
2008 – 2009, 50.1% lao động nữ ở khu vực thành thị tự xác nhận là lao động
tự do hoặc lao động tại nhà, 90% trong tổng số lao động tại nhà là phụ nữ,

trong đó 62% lao động nữ cho rằng làm việc nhà cũng là một nghề nghiệp,
trong khi chỉ có 32.2% tự xác nhận là chủ sử dụng lao động; số lao động là
nông dân làm việc tự do ở nam chiếm 54%, trong khi đó ở lao động nữ là
61%; số lao động nam được trả công cũng cao hơn phụ nữ: 37% lao động
nam được trả công, trong khi đó phụ nữ chỉ có 28%; nếu có 30% lao động
nam làm việc trong khu vực chính thức thì phụ nữ chỉ xấp sỉ 20%; 17% lao
động nam và 21% lao động nữ là lao động tự do trong các ngành kinh tế phi
nông nghiệp. Theo kết quả Điều tra lao động và việc làm 1/9/2009, tỷ số
15

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 15
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

việc làm trên dân số thành thị là thấp hơn so với nông thôn khoảng 10%.
Điều này có thể dễ lý giải bởi ở nông thôn có nhiều ngành nghề thủ công
nghiệp, chăn nuôi, trồng lúa…nên người dân ở đây sẽ có nhiều việc làm hơn
lao động thành thị.
Phụ nữ Việt Nam hiện nay đang phải chịu áp
lực lớn khi vừa phải cân đối giữa công việc và
trách nhiệm gia đình. Khi phụ nữ đã dành quỹ
thời gian cho công việc kiếm sống tương
đương với nam giới. Ngoài ra, họ còn phải
làm việc nhà, chăm sóc các thành viên trong
gia đình vì vậy kéo dài thời gian làm việc nhà
từ 1,5 – 3 giời mỗi ngày, hoặc từ 9 – 15 giờ/
tuần trong khi nam giới chỉ dành 12 phút/ngày
cho công việc này. Theo số liệu điều tra mức
sống hộ gia đình Việt Nam, lao động nữ cũng phải làm việc nhà với thời
lượng gấp đôi nam giới, và điều này cũng khớp với mức bình quân chung
của phụ nữ ở độ tuổi 25- 64, phụ nữ dành 700 giờ/ năm cho lao động tại nhà,

trong khi nam giới chỉ mất 300 giờ/ năm, đa số lao động nữ Việt Nam phải
làm việc với lượng thời gian nhiều hơn.
Như vậy, ta thấy thời giờ làm việc của phụ nữ nhiều hơn
nam giới nhưng phần lớn là các công việc không được trả công. Chính điều
này điều này đã cản trở phụ nữ tìm kiếm hoặc duy trì việc làm đầy đủ thời
gian, tác động đến những loại công việc mà họ tham gia và số năm công tác.
Tốc độ tăng trưởng của việc làm được trả công của lao động nữ trong giai
đoạn từ 2004 – 2005 đến 2008 – 2009 là 15,1%, trong khi tỷ lệ này ở nam
giới là 34.5%. 31% phụ nữ có việc làm được trả công làm việc trong các khu
nhà nước hoặc dịch vụ xã hội, trong khi tỷ lệ này ở nam giới là 23%. 14%
lao động nam làm việc trong ngành giao thông vân tải, nhưng tỷ lệ này ở lao
động nữ chỉ chiếm 4%.
Ngoài ra, tỷ lệ phần trăm phụ nữ lao động làm việc trong nông nghiệp
và thương mại lớn hơn so với tỷ lệ phần trăm nam giới lao động, và tình
hình ngược lại trong các lĩnh vực công nghiệp thứ cấp và dịch vụ. Ở cả
thành thị và nông thôn, số nam giới được xếp loại lao động có tay nghề cao
gần gấp đôi nữ giới ở cả hai lĩnh vực hưởng lương lẫn tự làm phi nông
16

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 16
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

nghiệp (nam nông thôn 14%, nữ nông thôn 7%, nam thành thị 28%, nữ
thành thị 14%). Đồng thời, nam giới cũng có trình độ chuyên môn cao hơn:
45% so với phụ nữ 34%, so với khi mới được tuyển dụng, tỷ lệ về trình độ
chuyên môn có tăng hơn (38% nam công nhân mới được tuyển dụng). Điều
này chứng tỏ chủ sử dụng lao động có xu hướng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho lao động nam nhiều hơn, tỷ lệ này ở nữ cũng tăng nhưng
rất chậm. Những lao động tốt nghiệp đại học, cao đẳng và sau đại học chiếm
13.8%, những người này chủ yếu làm việc trong các phòng ban hành chính

(41.66%) hoặc quản lý doanh nghiệp 20.83%.
Cơ cấu lao động cũng có sự khác biệt rõ ràng, số lao động đang làm
việc trong cá thể chiếm tỉ trọng lớn nhất trong các thành phần kinh tế trong
đó nam là 67.8%, nữ chiếm tỷ trọng cao hơn với 75.2%. Thấp nhất là lao
động trong vốn đầu tư nước ngoài, tuy cơ cấu của nam gần gấp đôi nữ
nhưng đều chiếm tỷ trọng thấp với 9% của nam và nữ là 5.3%.
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện số lao động trong các thành phần
kinh tế năm 2009
Nam Nữ

Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy được sự chênh lệch về giới trong các
thành phần kinh tế khá rõ: nam giới trong thành phần kinh tế trong kinh tế
tập thể nam chiếm 9%, trong khi đó nữ chỉ 5.3%, vậy là số lao động nam
trong thành phần kinh tế tập thể gần gấp đôi lao động nữ; thành phần kinh tế
17

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 17
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

tư nhân cũng vậy, nam chiếm 9.7% nhưng nữ chỉ chiếm 6.2%; tuy nhiên, số
lao động trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nữ lại chiếm ưu
thế với 3.8% trong khi đó nam có 2.0%. Nhìn chung, đang có sự thay đổi cơ
cấu lao động trong các thành phần kinh tế, thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài và tư nhân đang thu hút lực lượng lao động, đặc biệt là lao động
trẻ. Bởi ở khu vực nhìn chung có diều kiện làm việc tốt.
2.1.2. Bình đẳng giới trong đối xử, cơ hội và thu nhập.
Bình đẳng giới còn thể hiện ở sự phân bố giới
theo cấp bậc trong việc làm, nam giới có xu
hướng được hưởng lợi nhiều hơn từ những

công việc nằm ở vị trí có quyền ra quyết định
và họ là đối tượng có được triển vọng nghề
nghiệp nhiều hơn và tiền lương cao hơn. Rất
nhiều trong số các công việc này thuộc lĩnh
vực kỹ thuật hoặc mang tính chuyên môn. Nữ
giới có xu hướng tập trung ở những ngành nghề có thu nhập thấp, công việc
ít có thanh thế và it có điều kiện ra điều kện quyết định hoặc đề bạt… Kể cả
trong những khu vực phụ nữ chiếm ưu thế thì phụ nữ cũng hiếm khi được
giao những vị trí có uy tín, tầm ảnh hưởng mà chủ yếu tập trung ở những
việc làm ít có cơ hội nâng cao tay nghề hoặc chuyên môn. Ví dụ, mặc dù
phụ nữ chiếm 71% số việc làm trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhưng các
đơn vị giáo dục thường do nam giới lãnh đạo. Số nam giới làm quản lý hoặc
giám đốc nhiều gấp năm lần số nữ giới, hoặc trong ngành khoa học xã hội,
45% nhân viên là nữ thì khoảng 95% giám đốc các viện nghiên cứu là nam.
Tỷ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo còn thấp, không đồng đều ở các
cấp, các lĩnh vực và chưa tương xứng với lực lượng phụ nữ trong xã hội. Tỷ
lệ nữ qua đào tạo chỉ bằng 30% so với lao động nam, nữ làm chủ doanh
nghiệp mới chỉ chiếm trên 20% trong đó chủ yếu là mô hình doanh nghiệp
có quy mô nhỏ hoặc vừa và đang thiếu nhiều điều kiện để tiếp cận các nguồn
lực so với doanh nghiệp do nam giới làm chủ. Hệ quả là họ phải chịu nhiều
rủi do hơn các doanh nhân nam . Trong sản xuất nông nghiệp, phụ nữ ít
được tham gia tập huấn, vẫn còn tình trạng “ nữ làm, nam học” mặc dù họ
chiếm số đông trong các ngành chăn nuôi và trồng trọt.
18

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 18
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Phụ nữ và nam giới đã bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển
dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc và đặc biệt, nhiều doanh

nghiệp còn căn cứ vào tính chất đặc thù của từng ngành để thực hiện tuyển
dụng lao động nữ. Tuy nhiên cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, nắm bắt
thông tin và giao tiếp xã hội của phụ nữ thấp hơn so với nam giới. Điều này
gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển năng lực nghề nghiệp của phụ nữ.
Chẳng hạn, đào tạo đầu vào của lao động nữ thường thấp hơn nam giới.
Trong quá trình làm việc, họ cũng ít được tham dự các khoá bồi dưỡng nghề
nghiệp. Bồi dưỡng chức nghiệp công chức đối với nữ cũng chỉ chiếm tỷ lệ
30%. Lý do là các chủ doanh nghiệp không muốn cử nữ đi bồi dưỡng thêm
nghiệp vụ vì phụ nữ ngoài công việc cơ quan còn công việc nhà, trách nhiệm
khi sinh đẻ và nuôi con nhỏ…42% chủ sử dụng lao động cho rằng họ gặp
khó khăn khi tuyển lao dộng nữ vì những lý do trên.
Công việc đặc thù của phụ nữ thường bị đánh giá thấp hơn công việc
của nam giới. điều này thể hiện rất rõ qua việc chọn công việc của nam và
nữ: nữ thì làm trong lĩnh vực nông nghiệp, thương nghiệp nhiều hơn nam,
nam thì đi làm thuê nhiều hơn, còn nữ thì tự sản xuất, kinh doanh nhiều hơn
nam…và những công việc này phụ nữ vẫn có thể thực hiện tại nhà được.
Nhìn vào biểu đồ 2, ta thấy rõ sự chênh lệch khi tham gia vào hoạt
động kinh tế của lao động nam và lao động nữ: trong khi lao động nữ chủ
yếu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và thương nghiệp thì lao động nam
lại rất ít, số lao động nữ trong nông nghiệp là 61.6% thì nam giới là 56.5%,
trong thương nghiệp lao động nữ gần gấp đôi lao động nam với 13%, nam
giới là 7.5%.
Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nữ tham gia vào nông nghiệp và thương
nghiệp cao hơn nam giới ở Việt Nam
Đvt:%
19

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 19
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển



Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2009. Tổng cục thống kê
Hiện nay, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực: giảm
lao động trong nông- lâm – ngư nghiệp, tăng công nghiệp, thương mại, dịch
vụ, lao động nữ cũng được theo Vẫn biết rằng ngành nghề nào cũng quan
trọng trong sự phát triển kinh tế nhưng vốn dĩ đây là những định kiến giới
mà xã hội đã gắn với từng giới nên thật khó tránh khỏi những bất công cho
phụ nữ. Điều này dẫn đến sự chênh lệch trong thu nhập của phụ nư với nam
giới.
Về khía cạnh thu nhập, chỉ có 25% phụ nữ làm việc ở khu vực thành
thị và nông thôn có việc làm được trả công, thu nhập của phụ nữ tính trung
bình chỉ bằng 69% thu nhập của nam giới. phụ nữ làm việc trong khu vực tư
nhân kiếm được ít hơn nam giới 23.1%, phụ nữ trong khu vực doanh nghiệp
nhà nước có thu nhập ít hơn nam giới 14.5%. Khoảng cách thu nhập giữa lao
động kỹ thuật, có chuyên môn nghiệp vụ và người lao động không có tay
nghề là 1.08 lần.
Các kết quả điều tra cho thấy, lao động nữ chỉ nhận được 78% mức
tiền công cơ bản của nam giới, tiền lương cơ bản của lao động nữ trong tổng
thu nhập (69%) cũng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn so với nam giới (71%). Các cơ
sở sản xuất kinh doanh nhỏ trả lương tương đối bình đẳng hơn, và các doanh
20

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 20
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

nghiệp này không chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Lao động nữ được
hưởng các khoản trợ cấp theo các quy định của Luật lao động, nhưng không
phải tất cả lao động nữ đều được nhận. Tuy vậy, cho dù được nhận thêm các
khoản phụ cấp nhưng tổng thu nhập của lao động nữ vẫn thấp hơn lao động
nam, vì tiền lương cơ bản của họ thấp hơn lao động nam trong các doanh

nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã và
công ty trách nhiệm hữu hạn. Tính gộp cả tiền lương và các khoản trợ cấp
bằng tiền của lao động nữ thì tổng thu nhập của họ cũng chỉ tương đương
với 87% so với tổng thu nhập của lao động nam. Nhìn chung lao động nữ
trong mọi loại hình doanh nghiệp đều có mức lương cơ bản thấp hơn so với
nam giới.
Bảng 1: Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động theo nhóm
tuổi và giới tính năm 2009
Đvt: đồng
Độ tuổi Nam Nữ
Dưới 30 2.094,700 1.727,300
30 – 39 2.392,100 1.983,100
40 – 49 2.304,500 2.093,800
50 – 59 2.459,600 2.237,700
60 trở lên 1.396,600 976,900
Nguồn: Bộ Lao động thương binh – xã hội. Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng số liệu này, ta càng thấy rõ được sự chênh lệch trong
thu nhập của lao động nam và lao động nữ, trong khi đó thời gian và sức lao
động là như nhau. Ngoài ra, 51% lao động nữ trong cac doanh nghiệp có
đông loa động nữ phải làm thêm giới vớithời lượng nhiều hơn 4 giờ một
ngày, tỷ lệ này ở nam giới là 40%. Trong các cơ sở sản xuất nhỏ, 3/4 lao
động nữ và 1/3 lao động nam không được trả lương làm thêm giờ. Còn trong
khu vực không chính thức thì toàn bộ lao động phải làm thêm việc 47 – 48
giờ/ tuần. Đây chính là những bất công với phụ nữ nói chung và phụ nữ Việt
Nam nói riêng.
21

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 21
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển


Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước. Việc phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho lao động được
nhà nước quan tâm hết sức đặc biệt. Tỷ lệ thất ngiệp đã giảm dần xuống năm
2009 còn 4.1%, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 82%, trong
đó hơn 40% là lao động nữ được tạo việc làm. Hàng năm, tỷ lệ thất nghiệp
và thiếu việc làm của lao động ở nông thôn lẫn thành thị đã giảm đáng
kể.Tuy nhiên tỷ lệ thất ngiệp ở nữ vẫn cao hơn nam giới, tỷ lệ này ở nữ giới
là 4.8% so với tỷ lệ chung là 4.1. số phụ nữ bị thất nghiệp đang có chiều
hướng gia tăng bởi lẽ nhiều công ty đang tiến hành cổ phần hóa, doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ bị giải thể thường phải giảm biên chế và số người đó
thường là “ưu tiên giảm phụ nữ”
2.1.3. Bình đẳng giới về hưởng thụ và lợi ích trong lao động – việc làm
Hiện nay, phụ nữ và nam giới đã khá
bình đẳng trong việc thừa hưởng những
thành quả lao động mang lại, vẫn được
hưởng những quyền lợi, lợi ích trong Bộ
luật lao động quy định như BHYT, nghỉ
lẽ, tết Tuy nhiên, một thực tế mà ai
trong chúng ta cũng nhận thấy là phụ nữ
làm việc nhà nhiều hơn nam giới nhưng
tỷ lệ phụ nữ xem Tivi, đọc báo luôn thấp
hơn nam giới,, số lao động nữ được khám sức khỏe định kỳ thấp hơn nam
giới…tất cả những điều này không chỉ từ sự nhìn nhận của xã hội mà sâu xa
hơn chính là định kiến giới đã gắn nhiệm vụ với lợi ích của nam và nữ.
Theo số liệu điều tra của ILO, trung bình một ngày, phụ nữ chỉ dành
1.65 giờ cho các hạt động giải trí, trong khi đó nam giới là 2.85 giờ, có thời
gian ngủ thì tương đối bằng nhau: nữ ngủ 7.6 giờ và nam là 7.84 giờ nhìn
chung, nam giới có điều kiện hưởng thụ cuộc sống cao hơn nữ giới. ta cũng
hay bắt gặp các quán nhậu luôn đông khách nhưng 90% là nam giới chứ phụ
nữ thì rất ít, có chăng cũng chỉ là xã giao hoặc công việc.

Đa số hiện nay, các đội tượng lao động đều áp dụng bảo hiểm xã hội
chiếm 10% lao động nữ. Ngoài ra, phụ nữ còn phải thực hiện chức năng sinh
sản, nhưng hiện nay, Luật lao động vẫn chỉ quy định chế độ nghỉ thai sản
mới có 4 tháng. Thiết nghĩ, với thời gian này thì phụ nữ vẫn chưa yên tâm
công tác, làm việc bởi con họ còn quá nhỏ. Họ không yên tâm khi gửi con ở
22

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 22
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

các nhà giữ trẻ…điều này cũng ảnh hưởng đến thời gian nghỉ nghơi của phụ
nữ.
Phần lớn cả lao động nam và lao động nữ được khám bệnh định kỳ.
tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Bộ lao động thương binh xã hội thì số
lao động nữ khám bênh định kỳ vẫn thấp hơn nam, cụ thể: 52.8% lao động
nữ và 62.7% lao động nam trong các doanh nghiệp đã được khám sức khỏe
định kỳ. như vậy, vẫn còn một tỷ lệ lớn chưa được sự chăm sóc này. Đặc biệt
là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, các cơ sở sản
xuất nhỏ vẫn còn lao động chưa được khám sức khỏe định kỳ, nhất là lao
động nữ. Bảng 2 cho ta thấy rất rõ điều này.
Bảng 2. Tỷ lệ lao động chưa được khám sức khỏe định kỳ
Đvt:%
Loại doanh nghiệp Chung Nam Nữ
DN nhà nước 10.17 6.67 11.36
DN đầu tư NN 40.00 37.50 40.91
DN cổ phần 6.67 0.00 12.50
23

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 23
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển


Hợp tác xã 54.55 60.00 52.94
Công ty TNHH 76.92 73.68 78.79
Cơ sở sản xuất nhỏ 87.50 50.00 95.00
Nguồn: Bộ lao động thương binh xã hội. Tổng cục thống kê
Lao động trong môi trường nặng nhọc, nguy hiểm thì lao động nam
nhiều hơn nữ. Chẳng hạn, tỷ lệ lao động nam trong môi trường có tiếng ồn
lớn là 8.8%, phụ nữ là 7.6%; riêng lao động nam trong môi trường có độ ẩm
và không khí ô nhiễm là 1.8%, không có phụ nữ nào làm việc trong môi
trường này. Phần lớn lao động nam và nữ trong các doanh nghiệp đều được
đào tạo về an toàn và vệ sinh lao động, lao động trong doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp cổ phần được đào tạo nhiều nhất. thường thì các
doanh nghiệp đều thông báo cho người lao động về tình trạng độc hại nguy
hiểm. Nhưng vẫn còn 5.4% lao động nam và 11.3% lao động nữ không biết
về sự cần thiết của các loại biển báo an toàn và bênh nghề nghiệp nơi làm
việc. có từ 10 – 23% số lao động phản ánh các yếu tố độc hại trong nhiều
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh
nghiệp cổ phần.
Biểu đồ 3: Tình trạng cấp phương tiện bảo hộ lao động cho người
lao động năm 2010
Nam Nữ
24

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 24
GVHD: HOÀNG THỊ THU HOÀI Giới và phát triển

Nguồn: Số liệu điều tra của ILO/ RCFLG/ năm 2009
Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy: đa số lao động đều được cung cấp
phương tiện bảo hộ lao động, tuy nhiên số lao động nam được cung cấp đầy
đủ nhiều hơn nữ với 73.7%, nữ chỉ 62.6%, số lao động không được cung cấp

của nam là 3.5%, nữ là 9%. Nhìn chung, các doanh nghiệp đã quan tâm hơn
tới vấn đề an toàn lao động cho người lao động.
Bộ luật lao động nước ta được sửa đổi và bổ xung vào năm 2002 và
có hiệu lực vào năm 2003 đã sửa đổi một số quy định liên quan đến tuổi
nghỉ hưu của lao động nữ. tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 55 tuổi và hưởng
mức lương hưu tối đa (75%) nếu đóng bảo hiểm đủ 25 năm. Trong khi đó
luật quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nam là 60 tuổi. Mặc dù đây là một
nỗ lực lớn của Nhà nước ta trong việc thực hiện các chính sách đối với lao
động nữ và đáp ứng được đa số nguyện vọng của lao động nữ. Tuy nhên nó
chưa thể đáp ứng hết tất cả lao động nữ trong mọi lĩnh vực. Bởi vì, rất nhiều
phụ nữ làm công tác khoa học, công tác quản lý, lãnh đạo…còn sức khỏe và
khả năng, muốn được làm việc và nghỉ hưu như nam giới. Như vậy, nó đã
gián tiếp củng cố các mô hình dập khuôn giới theo truyền thống. Từ đó dẫn
đến sự khác biệt về đối xử với phụ nữ trong việc tiếp cận, hưởng lợi và ngăn
cản cơ hội thăng tiến.
III: NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN
NHÂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
25

SVTH: ĐẶNG THỊ YẾN 25

×