Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.72 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… …1
I. Khái quát hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch…………………… 1
1. Khái niệm hiện tượng tội phạm…………………………………………… 1
2. Khái niệm hành vi sai lệch…………………………………………………… 1
2.1. Định nghĩa……………………………………………………………… …1
2.2. Phân loại hành vi sai lệch………………………………………… ……….1
3. Một số hiện tượng , hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cao cho xã hộị …… 2
3.1. Hiện tượng nghiện hút ma túy……………………………………………… 2
3.2. Hiện tượng say rượu………………………………………………………….3
3.3. Hiện tượng hooligan………………………………………………………….3
3.4. Hiện tượng tự tử………………………………………………………………3
3.5. Hiện tượng tha hóa về đạo đức……………………………………………… 4
II. Nội dung các biện pháp đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và các
hành vi sai lệch 4
• Biện pháp tiếp cận thông tin………………………………………………… 5
• Biện pháp tiếp cận phòng ngừa xã hội……………………………………… 7
• Biện pháp áp dụng hình phạt………………………………………………… 8
• Biện pháp tiếp cận y-sinh học………………………………………………….9
• Biện pháp tiếp cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội………………………….10
III. Đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp ở nước ta hiện nay………… 11
KẾT THÚC………………………………………………………………………13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Phòng chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch luôn là nhiệm vụ
trọng tâm của nước ta trong bất kì giai đoạn nào của tiến trình lịch sử. Trong giai
đoạn hiện đại, phòng chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch hơn lúc nào
hết cần đặc biệt được chú trọng bởi dưới tác động của công cuộc đổi mới mọi mặt
của nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, pháp luật…diễn biến của hiện
tượng tội phạm và các hành vi sai lệch là vô cùng phức tạp và có chiều hướng gia


tăng nhanh chóng. Đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai
lệch đòi hỏi phải tập trung hạn chế các nguyên nhân phát sinh ra nó. Công tác đấu
tranh này có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỉ cương, an
toàn xã hội. Đó cũng là lĩnh vực rất quan trọng đối với xã hội học tội phạm và được
xã hội học quan tâm nghiên cứu.
I. KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG TỘI PHẠM VÀ CÁC HÀNH VI SAI LỆCH
1. Khái niệm hiện t ượng tội phạm
Hiện tượng tội phạm là hiện tượng xã hội- pháp lý luôn ở trạng thái động, xuất
hiện trong xã hội có giai cấp, là thể thống nhất các tội phạm được thực hiện trong xã
hội nhất định và ở thời kì nhát định, có các nguyên nhân, các đặc điểm định lượng
(thực trạng) và định tính (tính chất, cơ cấu) của nó đồng thời có tính độc lập tương
đối.
2. Khái niệm hành vi sai lệch
2.1. Định nghĩa
Hành vi sai lệch là hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội vi phạm các nguyên
tắc, quy định của chuẩn mực xã hội.
2.2. Phân loại hành vi sai lệch
Các hành vi sai lệch thường được phân loại theo hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, căn cứ vào nội dung, tính chất của các chuẩn mực xã hội bị xâm hại gồm
có hành vi sai lệch tích cực và sai lệch tiêu cực.
• Hành vi sai lệch tích cực là những hành vi (có thể là cố ý hoặc vô ý) vi phạm,
phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp với
thực tế xã hội.
• Hành vi sai lệch tiêu cực là những hành vi (cố ý hoặc vô ý) vi phạm, phá vỡ
hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang phổ biến,
thịnh hành và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.
Ví dụ: Trẻ em thiếu hạnh phúc khi còn thơ ấu khi trưởng thành sẽ có xu hướng sai
lệch về hành vi tình dục, dễ vướng vào ma túy.
Thứ hai, căn cứ vào thái độ, tâm lý chủ quan của người thực hiện hành vi sai lệch
gồm có hành vi sai lệch chủ động va hành vi sai lệch thụ động.

• Hành vi sai lệch chủ động là hành vi có ý thức, có tính toán, cố ý (trực tiếp hay
gián tiếp) vi phạm, phá vỡ hiệu lực của các chuẩn mực xã hội, dù chuẩn mực đó đã
lạc hậu, lỗi thời hay còn đang tiến bộ.
• Hành vi sai lệch thụ động là hành vi vô tình, vô ý, không mong muốn vi phạm,
phá vỡ tính ổn định, sự tác động của các chuẩn mực xã hội.
3. Một số hiện t ượng, hành vi sai lệch có tính nguy hiểm cao cho x ã hội
3.1. Hiện t ượng nghiện hút ma túy
Nghiện hút ma túy là căn bệnh xã hội nguy hiểm gây nên tác hại xã hội khôn
lường, là biểu hiện của hành vi sai lệch nghiêm trọng. Nó là kết quả của một quá
trình sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày một tăng. Nó có mặt ở hầu hết các
lứa tuổi, đặc biệt là thanh thiếu niên như nhóm đối tượng lang thang, cơ nhỡ, bố mẹ
không quan tâm, sinh viên, diễn viên, viên chức… Tính nghiêm trọng của hiện
tượng này thể hiện ở chỗ nó là tác nhân trực tiếp hoặc gián tiếp phá hủy sức khỏe
người nghiện (gây rối loạn thần kinh, hô hấp, tai biến…),hủy hoại nhân cách con
ngươi (người nghiện thường thấy cuộc đời bế tắc, xử sự tiêu cực, bi quan, sống
gấp,cổ vũ cho lối sống thực dụng…), phá vỡ hạnh phúc gia đinh, tạo gánh nặng cho
xã hội (xã hội tốn kém tiền của để chạy chữa cho người nghiện,người nghiện sống
bám vào xã hội), ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội (tai nạn giao thông, mại
dâm, làm lan truyền HIV/AIDS). Nguy hại hơn nó còn là nguyên nhân làm phát sinh
các hành vi phạm tội: trộm cắp, cướp giật, giết người…
3.2. Hiện t ượng say rượu
Hiện tượng say rượu là trạng thái tinh thần bệnh hoạn, hình thành do kết quả
của việc sử dụng quá nhiều trong một lần hoặc có hệ thống các đồ uống có cồn
(rượu,bia); hậu quả là nồng độ cao làm cho người uống rơi vào trạng thái say, mất đi
lí trí và sự tỉnh táo. Say rượu thường là nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn giao thông
thảm khốc, bạo lực trong gia đình, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự khu phố,lối xóm…
Do trong trạng thái bị kích động mạnh, mất lí trí do say rượu, họ có thể gây ra các
hành vi tội ác.
3.3. Hiện t ượng hooligan
Hiện tượng hooligan là sự thể hiện của những hành vi sai lệch có tính chất hung

hãn, côn đồ, quậy phá, ẩu đả; thường do những kẻ lưu manh, những người quá khích
thực hiện, đôi khi mang tính tổ chức trong việc thực hiện hành vi. Đây là hiện tượng
phức tạp, rất nguy hiểm, gây tâm lí hoang mang, sợ hãi cho nhũng ngươi dân lương
thiện. Hiện tượng này thường xảy ra trong các lĩnh vực thể thao,kinh doanh, trong
lĩnh vực an toàn, trật tự công cộng. Trong đa số các trường hợp, hiện tượng này xâm
hại đến sức khỏe, danh dự,nhân phẩm của công dân.
Ví dụ: hiện tượng hooligan : tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép, gây rối trật
tự công cộng, chống người thi hành công vụ.
3.4. Hiện t ượng tự tử
Tự tử là hiện tượng bộc lộ rõ nét nhất thái độ tiêu cực của mỗi cá nhân thông
qua việc tự loại bỏ cuộc sống của chính mình bằng cách tìm đến với cái chết. Bên
cạnh nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân xã hội và chịu ảnh hưởng
của những yếu tố nhất định: nghèo khổ,nạn thất nghiệp, thất tình, góa bụa,khủng
hoảng tinh thần,ám ảnh về một tội ác đã phạm phải…
Tự tử không đơn thuần là việc cá nhân tự loại bỏ mạng sống của chính mình.
Bên cạnh những tổn thất, mất mát đối với gia đình (mất đi người thân), hành vi tự tử
của một người có thể để lại những hậu quả xã hội to lớn.
Ví dụ: Món nợ ngân hàng mà người tự tử để lại, những thân trong gia đình phải trả,
nếu không thể trả được có thể dẫn đến hiệu ứng dây chuyền đó là hành vi tự tử của
người khác.
Do vậy trong mọi trường hợp,tự tử là hành vi sai lệch cần được ngăn chặn, phòng
chống.
3.5. Hiện t ượng tha hóa về đạo đức
Tha hóa là khái niệm nói lên quá trình trong đó những sản phẩm do con người
tạo ra (sản phẩm lao động, đồng tiền, các quan hệ xã hội…) cũng như những thuộc
tính hoặc năng lực nào đó của con người trong điều kiện lịch sử nhất định,lại biến
thành những thứ độc lập với con người.
Tha hóa về đạo đức là một trong những biểu hiện của sự tha hóa nói chung,
chỉ sự thoái hóa về phẩm chất và đạo đức con người. Nó là biểu hiện của hành vi
xấu, tiêu cực phản ánh mặt trái của cơ chế thị trường.

Điều nguy hiểm của hiện tượng này là ở chỗ,khoảng cách giữa hành vi tha
hóa về đạo đức và hành vi phạm tội chỉ gần nhau trong gang tấc. Để thỏa mãn các
nhu cầu bất chính và phi pháp của bản thân, một số người có thể hoặc sẵn sàng tham
gia vào các tệ nạn xã hội như ma túy,mại dâm;dính líu vào các hành vi phạm tội như
trộm cắp,cờ bạc tham ô, nhận hối lộ…Đây là những loại tội phạm có tính ẩn dấu rất
cao.
II. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG HIỆN
TƯỢNG TỘI PHẠM VÀ CÁC HÀNH VI SAI LỆCH
Đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch được hiểu
là các hoạt động phát hiện và xử lí hiện tượng tội phạm. Hoạt động này chủ yếu do
các cơ quan điều tra,viện kiểm sát,tòa án và thi hành án thực hiện. Công tác phát
hiện và xử lí hiện tượng tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật nước ta trong
thời gian qua đã đạt được nhiều thành công. Nhiều vụ phạm tội nghiêm trọng đã
được phát hiện và xử lí. Tuy nhiên tỉ lệ tội phạm ẩn còn cao chứng tỏ hiệu quả hoạt
động của các cơ quan này còn chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm.
Kinh tế thị trường không chỉ tạo ra sự thay đổi lớn về mặt kinh tế mà còn tạo những
điều kiện vật chất cho hoạt động tội phạm. Người phạm tội đang cấu kết hình thành
các tổ chức xuyên quốc gia với sức mạnh kinh tế rất lớn. Nhiều tổ chức tội phạm còn
tìm mọi cách mua chuộc, liên kết hay bảo trợ cho các quan chức trong bộ máy Nhà
nước,từ đó khống chế họ để hình thành các tổ chức mafia có sự kết hợp giữa sức
mạnh kinh tế và chính trị. Kinh tế thị trường phát triển thì người phạm tội cũng như
các tổ chức phạm tội sẽ có điều kiện sử dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào
thực hiện và che dấu tội phạm. Đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và hành
vi sai lệch đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật không chỉ phải nâng cao trình độ
nghiệp vụ,nâng cao hiểu biết các lĩnh vực chuyên môn sâu mà còn phải được trang
bị những công cụ, phương tiện và nguồn tài chính đủ mạnh mới có đủ khả năng phát
hiện và xử lí nhanh chóng,kịp thời và chính xác các hành vi phạm tội. Xã hội học
pháp luật nghiên cứu các biện pháp đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và
các hành vi sai lệch:
• Biện pháp tiếp cận thông tin

Hoạt dộng trao đổi, tiếp nhận và xử lí thông tin trong cuộc sống hàng ngày có tác
dụng rất lớn trong việc nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết của con người, trong
chừng mực nhất định họ biết được những việc nên làm,điều nên tránh trong hành vi
của mình. Biện pháp tiếp cận thông tin hướng tới việc cung cấp, trang bị,hướng dẫn,
giải đáp các thông tin về chuẩn mực xã hội nói chung và pháp luật nói riêng.
Thứ nhất, trong trường hợp hành vi vi phạm có nguyên nhân là do người vi
phạm không biết, không hiểu các nguyên tắc, các quy định của chuẩn mực xã hội và
của pháp luật thì các cơ quan tư pháp phải phối hợp với các phương tiện thông tin
đại chúng như đài phát thanh, vô tuyến truyền hình…tiến hành các hoạt động tuyên
truyền, hướng dẫn, giải thích về nội dung và tính chất của các chuẩn mực đó hoặc
văn bản pháp luật có liên quan. Những việc làm đó của các cơ quan chức năng sẽ
góp phần cung cấp,trang bị cho các tầng lớp xã hội những kiến thức,hiểu biết nhất
định về chuẩn mực cũng như là pháp luật, hạn chế được phần nào các vụ việc phạm
pháp, phạm tội xảy ra có nguyên nhân do thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật. Đặc
biệt, cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật hình sự, luật
tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hiện tượng tội phạm,
vì những hành vi sai lệch, vi phạm pháp luật hình sự thường gắn liền với việc bị áp
dụng những hình phạt nhất định.
Thứ hai,nếu ý thức thái độ của những cá nhân và các nhóm xã hội nào đó đối
với pháp luật,đối với các giá trị, chuẩn mực xã hội còn mang tính lệch lạc, chưa
đúng mức; còn tỏ ra xem nhẹ,coi thường thì cần phải giáo dục, định hướng họ theo
cái đúng để họ hiểu và tuân thủ các chuẩn mực xã hội, chấp hành các nguyên tắc,
quy định của pháp luật hình sự.
Chẳng hạn: giới trẻ dễ bị kích động, lôi kéo, a dua vào những hành vi quá khích, coi
thường luật lệ an toàn giao thông, tham gia đua xe trái phép, gây mất trật tự công
cộng. Vì vậy, cần có những chương trình giáo dục, hướng dẫn hành vi cho họ.
Thứ ba,cần cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác,vạch ra tính ổn định và tính
nguyên tắc không thể không tuân thủ trong việc áp dụng các chuẩn mực xã hội, các
quy phạm pháp luật hình sự nhằm ngăn chặn các hành vi sai lệch và tội phạm.
Thứ tư,cần chú trọng nâng cao uy tín của hệ thống pháp luật đang tham gia điều

chỉnh các quan hệ xã hội trong xã hội. Pháp luật phải công bằng nghiêm minh để
mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng và thực hiện. Lưu ý rằng, uy tín của pháp luật, tính
công bằng, nghiêm minh của nó không chỉ thể hiện ở “nội tại” các quy phạm pháp
luật, mà chủ yếu được thực hiện ra trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật,
đặc biệt là ở hành vi của các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Thứ năm,cần cảnh giác, tích cực đâu tranh với những thông tin sai trái, những
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và bịa đặt của các thế lực thù địch về các giá
trị,chuẩn mực xã hội, về hệ thống pháp luật, làm lệch lạc nội dung và vi phạm áp
dụng của chuẩn mực pháp luật, gây tâm lí hoang mang, bất an trong một cộng đồng
dân cư nhất định.
Biện pháp tiếp cạn thông tin đòi hỏi chúng ta phải vạch trần các âm mưu, thủ
đoạn nói trên, làm phá sản “chiến lược diễn biến hòa bình”, làm thất bại các hoạt
đọng gây rối, chống phá Nhá nước của các thế lực thù địch.
• Biện pháp tiếp cận phòng ngừa xã hội
Phòng xã hội luôn luôn là biện pháp đấu tranh phòng chống sai lệch và tội phạm
mang lại hiệu quả cao, nó thường được đặt lên vị trí hàng đầu trong số các biện pháp
được áp dụng. Đây là biện pháp tiếp cận nhằm tìm hiểu, làm sáng tỏ các nguyên
nhân, điều kiện dẫn tới hành vi sai lệch và tội phạm, từ đó đề xuất các phương pháp
phòng ngừa cụ thể.
Phòng ngừa xã hội là theo đuổi mục đích phát hiện, xóa bỏ, vô hiệu hóa các
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch.
Nó là tổng thể các biện pháp xã hội như tác động vào kinh tế, xã hội, chính trị, tư
tưởng, tâm lí, giáo dục, văn hóa, pháp luật…mà Nhà nước và xã hội áp dụng nhằm
loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch;
góp phần định hướng để hình thành những hành vi cư sử hợp pháp, hợp đạo đức của
công dân.
Cơ sở khoa học của biện pháp phòng ngừa xã hội là sự nhận thức hành vi, hoạt
động của con người vốn mang bản chất tuân theo quy luật hướng thiện; mọi người
đều có khả năng trở thành những công dân tốt, có ích cho xã hội. Hành vi sai lệch,
hành vi phạm tội của họ, bên cạnh động cơ, ý chí cá nhân, còn xuất phát từ những

nguyên nhân, điều kiện xã hội nhất định. Nếu vô hiệu hóa được những nguyên nhân,
điều kiện đó thì con người sẽ không bị sa ngã vào môi trường tiêu cực, tội ác. Bên
cạnh đó, việc xây dựng môi trường xã hội- pháp lí lành mạnh, trong đó mỗi công
dân đều ý thức được điều hay, lẽ phải, mong đợi điều tốt lành, tránh điều tội lỗi…
mới là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất. Biện pháp phòng ngừa xã hội thường
được thể hiện ở hai cấp độ là phòng ngừa chung và phòng ngừa chuyên ngành.
• Phòng ngừa chung được thực hiện trên cơ sở tạo ra những tiền đề tích cực,
những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật cơ bản nhằm loại trừ hiện
tượng tội phạm.
Ví dụ: hình thành ý thức pháp luật tích cực cho công dân, nâng cao trình độ học
vấn, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
• Phòng ngừa chuyên ngành là tập hợp những giải pháp cụ thể nhằm đi sâu vào
việc ngăn ngừa những loại hành vi sai lệch và những hành vi tội phạm nhất định.
Trong đó, đối với tội phạm, phòng ngừa hình sự là biện pháp quan trọng nhất, ngăn
chặn có hiệu quả hiện tượng tội phạm.
• Biện pháp áp dụng hình phạt
Áp dụng hình phạt là phương thức pháp lí hình sự trong đấu tranh phòng
chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch, tức là các hành vi phạm tội cụ
thể. Nó được áp dụng đối với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái với
pháp luật hình sự, có lỗi, do đó, bị đe dọa phải chịu hình phạt với tư cách là biện
pháp cưỡng chế mà Nhà nước áp dụng có tính mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất nhằm
trừng trị kẻ phạm tội.
Việc truy tố xét sử và buộc kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định có tác
dụng rất quan trọng trong đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm. Ngoài việc
trực tiếp trừng trị kẻ phạm tội, cải tạo, cảm hóa họ trở lại con đường hướng thiện, trở
thành công dân có ích cho xã hội; hình phạt còn coa ý nghĩa giáo dục, ngăn ngừa,
răn đe, tác động tới những người khác khiến cho họ phải từ bỏ những ý định phạm
tội, thậm chí sự chuẩn bị hay âm mưu tiến hành tội phạm nào đó.
Trong hệ thống pháp luật, chỉ có bộ luật hình sự quy định về tội phạm và hình
phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta, nhằm góp phần vào việc đấu tranh,

ngăn chặn tội phạm, quy định hai loại hình phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ
sung.
• Các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
• Các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu
tài sản, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính, trục xuất khi không áp dụng
là hình phạt chính.
Ví dụ: A bị bắt vì tội mua bán trái phép chất ma túy. Theo quy định tại khoản 1 điều
194 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì A chịu khung hình phạt từ 2 năm tù đến 7 năm
tù.
Đối với tội giết người khung hình phạt cũng được quy định tại điều 93 Bộ luật
hình sự năm 1999, tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự 1999)…
• Biện pháp tiếp cận y-sinh học
Trong công tác phòng chống đấu tranh các hành vi sai lệch và tội phạm,
biện pháp tiếp cận y-sinh học thường do các nhân viên cơ quan nghiệp vụ như y tế,
điều tra giám định, chuyên gia tâm thần học thực hiện đối với những người có hành
vi sai lệch và hành vi phạm tội. Mục đích của biện pháp này là nhằm tìm hiểu, phát
hiện ở họ những khuyết tật về thể chất: mù, câm, điếc…; những khuyết tật về trí lực,
như mắc các chứng bệnh hoang tưởng, bệnh tâm thần hoặc phạm tội trong các trạng
thái say rượu, nghiện ma túy… Những khuyết tật đó làm cho người vi phạm không
có hay bị mất đi một phần hay toàn bộ khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi của bản
thân, do đó bị mất năng lực chịu trách nhiệm hành vi. Còn từ chỗ bị mất năng lực
trách nhiệm hành vi mà có bị truy cứu trách nhiệm hoặc áp dụng các biện pháp tư
pháp khác hay không còn tùy thuộc vào các nguyên tắc, quy định của pháp luật hình
sự.
Biện pháp tiếp cận y-sinh học có ý nghĩa rất quan trọng, nó góp phần làm sáng
tỏ nguyên nhân, điều kiện của hành vi sai lệch và hành vi phạm tội, giải thích cơ chế
tâm lí của những hành vi đó.
• Biện pháp tiếp cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội

Trước hết cần nhận thức rõ rằng công tác đấu tranh phòng chống hiện tượng sai
lệch và hiện tượng phạm tội không chỉ là trách nhiệm của riêng cá nhân hay cơ quan
hữu trách nào, mà nó phải coi là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Nó đòi hỏi phải
huy động sự phấn đấu, nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nghĩa là Đảng và
Nhà nước cần có hệ thống đường lối, chính sách kinh tế- xã hội đúng đắn, hiệu quả
và ban hành pháp luật đồng bộ, kịp thời. Nó cũng đòi hỏi phải thu hút được sự tham
gia rộng rãi của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, của các tổ chức,
đoàn thể xã hội, của các nhà hoạt động chính trị- xã hội và sự tham gia của đông đảo
các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Củng cố các nguyên tắc đạo đức gắn liền với sự tôn trọng của những người có
chức, có quyền khi giải quyết công việc của công dân, có thái độ tôn trọng đúng mức
đối với các nhu cầu, đòi hỏi chính đáng của người dân.
Giáo dục các giá trị văn hóa pháp luật, giá trị đạo đức truyền thống, xây dựng
và phổ biến lối sống lành mạnh, tiến bộ cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đề
cao nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cơ sở, nền tảng của sự công bằng, dân
chủ, văn minh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Mở rộng các loại hình hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh, tiến bộ cho các
tầng lớp nhân dân nói chung và tầng lớp thanh niên nói riêng. Bên cạnh đó, phải
nâng cao chất lượng các sinh hoạt văn hóa-văn nghệ, thể dục-thể thao nhằm rèn
luyện thể chất, giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần cho
các tầng lớp nhân dân; tạo ra môi trường xã hội- pháp lý lành mạnh, trong đó mọi
công dân đều có ý thức tôn trọng và làm theo pháp luật.
Cải tiến, đổi mới công tác giáo dục pháp luật trong hệ thống nhà trường trung
học cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp,cao đẳng và ở bậc đại học.
Mở rộng hoạt động phổ biến, tuyên truyền, giải thích pháp luật trong các tầng lớp
nhân dân, giúp họ có những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật, hình thành
thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
Cơ quan công an, tòa án, viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác phải
nghiêm chỉnh thực hiện các quy phạm pháp luật, giữ đúng vị trí, vai trò, chức năng
và nhiệm vụ của mình, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống hiện tượng tội

phạm và các hành vi sai lệch. Chú trọng nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, trình
độ học vấn, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp
luật.
Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng các biện pháp và
kết quả đấu tranh với các vụ việc vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa để các tầng lớp
nhân dân được biết và thêm tư tưởng vào hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Đồng thời thường xuyên tổ chức thăm dò dư luận xã hội đối với những vấn đề cụ thể
của cuộc sống để có phương hướng điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật và đề ra
các biện pháp giải quyết kịp thời.
Dựa trên cơ sở các dự báo về diễn biến của tình hình phạm tội để xây dựng các
kế hoạch đấu tranh có hiệu quả với từng loại tội phạm ở các khu vực và trong
khoảng thời gian nhất định.
Trong điều kiện ngày nay, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cần được
mở rộng hơn nữa sự kết hợp trên phạm vi quốc tế. Sự tham gia ngày càng đầy đủ,
sâu rộng của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế, như ASEANAPOL, INTERPOL…
chính là nhằm đáp ứng đòi hỏi này; đặc biệt, nó góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác phòng,chống tội phạm xuyên quốc gia.
III. ĐÁNH GIÁ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÁC BIỆN PHÁP Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
Tính hiệu quả của các biện pháp đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và
các hành vi sai lệch phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: bản chất giai cấp của nhà nước
và xã hội; những quan điểm chính trị, đạo đức, pháp luật đang thịnh hành và giữ vai
trò chủ đạo trong xã hội; mặt bằng trình độ dân trí; khả năng về nguồn tài chính,
kinh tế và các điều kiện về trang thiết bị kĩ thuật; sự hoạt động của các phương tiện
thông tin đại chúng như báo trí, phát thanh, truyền hình…; sự hoạt động của các cơ
quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…
Ở nước ta, nhìn chung việc áp dụng các biện pháp đấu tranh phòng chống hiện
tượng tội phạm và các hành vi sai lệch ở trên mang tính hiệu quả cao, tỉ lệ những
người phạm tội có xu hướng giảm. Biện pháp tiếp cận thông tin góp phần cung cấp
cho con người những kiến thức, những hiểu biết nhất định về pháp luật, phần nào

làm hạn chế được các vụ việc phạm pháp do thiếu kiến thưc và thiếu hiểu biết. Biện
pháp phòng ngừa xã hội luôn được nước ta đặt lên hàng đầu trong số các biện pháp
được áp dụng, biện pháp này hướng người dân đi đúng đường, tránh những hành vi
sai lệch, mọi người đều hoặc có khả năng trở thành những công dân tốt có ích cho xã
hội. Bên cạnh đó việc áp dụng hình phạt ở nước ta có ý nghĩa giáo dục, răn đe,
những kẻ phạm tội khiến họ không dám tái phạm, ngoài ra nó còn tác động tới
những người khác từ bỏ ý định hay âm mưu phạm tội. Đây là biện pháp hết sức hữu
hiệu. Biện pháp tiếp cận y-sinh học cũng góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả của
hoạt động xét xử tội phạm trên nguyên tắc không xử oan người vô tội, người được
miễn trách nhiệm truy cứu hình sự; đồng thời cũng không để lọt lưới kẻ phạm tội,
bảo đảm tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Cuối cùng, biện pháp tiếp
cận tổng hợp và kế hoạch hóa xã hội nó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đòi
hỏi mỗi người dân trong xã hội, đặc biệt là những cán bộ trong bộ máy Nhà nước
phải đi đầu trong việc thực hiện biện pháp này, từ đó hướng người dân có ý thức tôn
trọng và làm theo pháp luật, từ đó hình thành nên những thói quen sống và làm việc
theo pháp luật. Hơn nữa, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được mở rộng
trong phạm vi quốc tế, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống tội
phạm xuyên quốc gia. Nhưng bên cạnh đó, vẫn có không ít những kẻ coi thường
pháp luật. Chính vì vậy, nước ta cần áp dụng nghiêm chỉnh, nâng cao hiệu quả và
triệt để hơn nữa các biện pháp này để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, để cho không còn những kẻ phạm tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, những
người vô tội không phải sống hoang mang, lo sợ, cuộc sống ổn định cùng với những
văn hóa lành mạnh, pháp luật nghiêm chỉnh dẫn đến nước Việt Nam phát triển.
KẾT THÚC
Phòng và chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch là hai mặt gắn bó
hữu cơ với nhau. Hoạt động chống hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch đạt
hiệu quả cao sẽ góp phần ngăn ngừa mọi người không thực hiện hành vi phạm tội.
Mặt khác, hoạt động phòng hiện tượng tội phạm và các hành vi sai lệch chính là áp
dụng các biện pháp để hạn chế không cho tội phạm xảy ra nên hoạt động này cùng
mục đích với hoạt động chống tội phạm. Hoạt động phòng và chống tội phạm muốn

đạt hiệu quả cao đòi hỏi trước hết phải luôn luôn tiến hành đồng bộ các biện pháp
đấu tranh phòng chống hiện tượng tội phạm và hành vi sai lệch.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội học, Nxb. CAND, Hà Nội,
2010.
• TS. Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010.
• Tạp chí Luật học, số 1/2010, Đại học Luật Hà Nội

×