Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

so sánh nghi lễ đám cưới của các quốc gia đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Châu Á là châu lục lớn nhất và đông dân nhất thế giới, bao gồm 50 quốc gia.
Nhắc đến châu Á là nhắc đến một vùng Viễn Đông đầy bí ẩn và lãng mạng. Và khi
nói đến đám cưới người châu Á, chính sự khác biệt về vị trí địa lý, sự đa dạng,
phong phú của các nền văn hóa, các truyền thống, tập quán và tôn giáo đã biến
những đám cưới ở đây trở thành những lễ hội đặc biệt luôn tuân theo những tập tục
truyền thông, vừa thiêng liêng lại vừa nhộn nhịp, tràn đầy sắc màu và đậm đà bản
sắc dân tộc.
Không giống như người phương Tây, đám cưới của người châu Á, dù ở bất
kì quốc gia nào, cũng đều có những hình ảnh, biểu tượng truyền thống tượng trưng
cho dân tộc, cho cội nguồn, thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn đối với tổ tiên, ông
bà mình. Người châu Á rất coi trọng hôn nhân, coi hôn nhân là một dịp lễ trọng đại
của đời người. Vì vậy đám cưới của họ thường được tổ chức rất long trọng sau một
thời gian dài chuẩn bị kĩ lưỡng và thường kéo dài nhiều hơn một ngày.
Bài tiểu luận này chỉ tập trung đề cập đến việc tổ chức hôn lễ của một vài
quốc gia châu Á. Đó là: Hàn Quốc, Nhật Bản và Lào với mong muốn sẽ giúp cho
người đọc hiểu thêm về một số tập quán thú vị trong đám cưới của người châu Á.
1
Phần I : Đám cưới ở Hàn Quốc
1. Trước lễ cưới
Tại Hàn Quốc, hôn nhân giữa nam và nữ đồng nghĩa với việc kết nối hai gia
đình, chứ không chỉ đơn thuần là kết nối hai cá nhân với nhau. Với ý nghĩa đó, sự
kiện này được gọi là Taerye – Đại Lễ, và mọi người thân quen đều đến tham dự.
Lễ cưới được tổ chức linh đình và vô cùng trang trọng với nhiều thủ tục, nghi lễ
kéo dài và cầu kì. Chịu ảnh hưởng của giá trị Khổng Giáo truyền thống, nghi thức
kết hôn tại Hàn Quốc khá dài dòng và phức tạp.
a) Eui Hon (Mai mối)
Tiến trình tìm kiếm người vợ hoặc chồng tương lai cho con cái trong nhà
thường phải nhờ đến các nhà mai mối, họ sẽ thu thập thông tin từ những cô gái -
chàng trai theo dòng dõi gia đình, học vấn hay đẳng cấp xã hội sao cho tương
xứng. Người làm mai mối sẽ kết nối cho các cặp vợ chồng tương lai và định ngày


để hai bên cha mẹ giáp mặt. nhưng lúc này cô dâu chú rể tương lai sẽ không được
gặp mặt nhau. Gia đình chú rể sẽ gửi lời cầu hôn đến cha mẹ cô dâu - người có
quyền chấp nhận hay từ chối thay mặt con gái mình.
b) Napchae (Định ngày lành)
Sau khi lời cầu hôn được chấp nhận, gia đình chú rể sẽ chuẩn bị Saju - xác
định ngày, tháng, năm, giờ sinh chính xác của chú rể theo âm lịch, sau đó gửi đến
gia đình cô dâu. Giấy trắng cao 40cm, rộng 90cm, gấp lại 5 lần đều nhau sau đó
viết Saju vào chính giữa rồi bỏ vào phong bì màu trắng. Không sử dụng keo để
dán bì thư mà gia đình chú rể dùng nhánh tre gói bao thư vào trong sau đó cột lại
bằng chỉ xanh và chỉ đỏ. Cuối cùng dùng Sajubo, loại vải bọc màu đỏ bên trong và
màu xanh bên ngoài quấn lại thật kỹ.
Dựa theo thông tin từ Saju, thầy bói quyết định ngày giờ tốt lành để cử hành
hôn lễ. Sau đó gia đình cô dâu gửi Yeongil đến gia đình chú rể cho biết ngày cưới.
c) Napp'ae (Trao đổi hồi môn)
Trước ngày cưới, gia đình chú rể đưa quà cưới sang nhà gái trong một hộp lễ vật
2
gọi là Ham. Thêm vào đó Hamjinabi (người bưng Ham) đồng thời bưng Bongch'i
Deok - bánh gạo đậu đỏ từ nhà trai sang nhà gái.
Ham thường có 3 lễ vật. Honseo - hôn thư gói trong vải lụa đen, ghi tên
của người gửi và mục đích hôn sự. Đây là biểu tượng của sự trung thành mà người
vợ dành cho người chồng tương lai của mình. Người vợ phải giữ hôn thư mãi mãi
bên mình, khi chết phải chôn theo. Chaedan là một số cây vải xanh đỏ dùng để
may trang phục. Vải xanh được cột bằng chỉ đỏ còn vải đỏ cột bằng chỉ xanh. Hai
màu xanh đỏ là đại diện cho Eum/Yang hay còn gọi là Âm/Dương. Honsu là
những món đồ giá trị dành cho cô dâu từ gia đình nhà chú rể
Thông thường chú rể đến nhà cô dâu để cử hành nghi lễ, sau đó ở lại 3 ngày
trước khi đưa cô dâu quay về nhà mình. Nghi lễ thật sự bao gồm một số nghi thức
nhỏ với nhiều điệu bộ tượng trưng và các nghi thức lạy cầu kỳ.
Hôn nhân là đại diện cho sự kết hợp hoàn hảo và sự cân bằng của hai yếu tố
chủ thể trong thế giới này: Eum - bóng tối, yếu tố nữ giới và Yang - ánh sáng, yếu

tố nam giới; còn gọi là âm và dương. Thông thường, lễ thành hôn diễn ra vào lúc
chạng vạng, đại diện cho sự cân bằng giữa ánh sáng ban ngày và bóng tối ban
đêm. Màu xanh tượng trưng cho Eum còn màu đỏ tượng trưng cho Yang.
Kireogi (Uyên ương - cặp ngỗng dại)
Một đôi ngỗng dại làm từ gỗ đại diện cho tân lang và tân nương. Trong nghi
thức Jeonanrye của lễ cưới, chú rể đưa một con ngỗng gỗ kireogi cho nhạc mẫu
của mình. Ngỗng tượng trưng cho nhiều quy tắc mà đôi vợ chồng mới phải tuân
theo trong đời sống hôn nhân của họ:
- Ngỗng dại chỉ có một bạn đời trong suốt cuộc sống của mình. Ngay cả khi 1 con
chết, con còn lại sẽ không bao giờ tìm bạn đời mới.
3
- Ngỗng dại là loài vật hiểu rõ ràng tôn ti trật tự. Ngay cả khi bay trên bầu trời,
chúng vẫn duy trì đúng cơ cấu và sự hài hòa tuyệt đối.

Gà trống và gà mái được bọc lại bằng vải xanh và vải đỏ được đặt ngồi trên hoặc
dưới bàn hôn lễ. Mào gà trống đánh dấu sự khởi đầu của một ngày mới, sự khởi
đầu tươi sáng như ý nghĩa của cuộc hôn nhân bền vững. Tiếng gáy của gà trống
còn báo hiệu cho quỷ dữ biết rằng ngày đã đến và chúng phải mau biến mất khỏi
thế giới này. Chú gà trống trong lễ cưới đánh dấu niềm hy vọng rằng các linh hồn
ma quỷ sẽ phải tránh xa, không làm phiền cặp vợ chồng mới cưới.
Ý nghĩa thứ hai đại diện cho niềm hy vọng rằng cặp vợ chồng mới cưới sẽ có
nhiều con cái - điều rất quan trọng trong xã hội nông nghiệp truyền thống
Cuối cùng ngày hôn lễ cũng đã đến. Các thành viên trong gia đình và dân
làng lân cận đều đến để xem cử hàng lễ cưới.
2. Trong và sau lễ cưới
Lễ cưới diễn ra với nhiều nghi thức, từ việc đi đứng cho đến phong cách cúi
chào đều rất lễ nghi:
 Ch'inyoung (Diễu hành)
4
Theo nghi thức truyền thống, hôn lễ diễn ra bên nhà gái. Chú rể thường cỡi

ngựa hay lừa, cùng đoàn tùy tùng đi đến nhà cô dâu hay nơi diễn ra lễ cưới. Chú
rể thường đưa theo một đoàn nhạc công, thổi nhạc cụ để không khí nhộn nhịp hơn.
 Jeonanrye (Trao ngỗng)
Trong nghi thức sang nhà gái tiến hành hôn sự, Girukabi - người dẫn đầu ôm
chú ngỗng gỗ kireogi trong lòng. Ngay khi đến nhà cô dâu, Girukabi đưa chú
ngỗng gỗ này cho chú rể sau đó chú rể đặt ngỗng gỗ xuống chiếc bàn nhỏ. Ngay
sân nhà, chú rể cúi lạy mẹ vợ tương lai hai lần và bà sẽ cầm ngỗng gỗ đi vào nhà.
 Gyobaerye (Giao bái)
Trong hôn lễ truyền thống Hàn Quốc, lễ bái tổ tiên cũng là lần đầu tiên cô
dâu và chú rể biết mặt nhau. Đầu tiên, chú rể sẽ bước đến phía Đông bàn cưới sau
đó cô dâu bước đến phía Tây. Rể phụ bắt đầu trải chiếu hay thảm ra cho chú rể
còn dâu phụ giúp đỡ cô dâu làm công việc tương tự. Chú rể và cô dâu đứng đối
diện nhau, những người phụ lễ giúp họ rửa tay để "tẩy trần" chuẩn bị cho buổi lễ.
5
Với sự giúp đỡ của phụ lễ, cô dâu cúi lạy chú rể hai lần và phụ lễ giúp chú rể
lạy đáp lễ cô dâu một lần. Cô dâu lại cúi lạy 2 lạy và chú rể đáp lễ 1 lạy nữa. Sau
đó họ quỳ xuống đối diện nhau. Lễ giao bái mang ý nghĩa hứa hẹn sẽ chung thủy
trọn đời và có trách nhiệm với nhau.
 Hapgeunrye (Giao bôi)
Nghi thức này trong lễ cưới truyền thống có hai hình thức khác nhau tùy theo
sự khác biệt tôn giáo. Hình thức thứ nhất là cô dâu chú rể uống rượu chung một
cốc. Hình thức thứ hai là cô dâu chú rể dùng rượu từ hai phần khác nhau của quả
bầu biểu thị rằng chú rể với cô dâu tuy hai mà một - gắn kết trọn đời. Lễ giao bôi
biểu thị cho duyên phận của tân lang và tân nương cũng như sự hòa thuận của
cuộc sống chồng vợ.
Trước tiên, những người phụ lễ rót rượu vào cốc nhỏ cho chú rể dùng còn
một người khác rót rượu cho cô dâu, nhưng cô dâu chỉ nhấp môi hoặc giả vờ uống
mà thôi. Phụ lễ sẽ lại rót đầy cốc cho chú rể uống cạn. Phụ lễ rót rượu lần nữa và
cô dâu lại tiếp tục nhấp môi hay giả vờ uống. Cuối cùng, cô dâu và chú rể cùng
"giao bôi" và cúi lạy 3 lần: một lạy phụ mẫu, hai lạy tổ tiên và ba lạy quan khách.

6
Sau lễ cưới, chú rể sẽ phải đến nhà cô dâu và ở lại đó 3 ngày trước khi đón cô dâu
về nhà mình.
Phần II : Đám cưới ở Nhật Bản
Thanh niên của Nhật Bản dù có tân tiến, hiện đại đến mấy vẫn luôn tổ chức
lễ cưới theo truyền thống dân tộc. Khái niệm về nghi lễ và hôn nhân tại Nhật tuy
có một vài thay đổi để phù hợp nhưng vẫn duy trì những sắc thái cổ truyền.
1. Trước lễ cưới
Sau khi hai bên đã thống nhất đi đến hôn nhân, nakodo sẽ đứng ra tổ chức
một nghi lễ đính hôn gọi là Yuinou. Nghi lễ này có lịch sử gần 1400 năm từ thời
thiên hoàng Nintoku, và được phổ biến rộng rãi vào cuối thời Edo.
Trong lễ Yuinou, cả hai gia đình gặp nhau tại bàn tiệc, trao đổi quà tặng và ăn
mừng chuẩn bị cho lễ cưới sắp tới. Thông thường nhà trai sẽ nộp tiền và lễ vật
tượng trưng cho sự may mắn như kombu (rong biển- tượng trưng cho sự phát đạt
của con cháu về sau) . Nhà gái sẽ tặng lại một món quà tương đương phân nửa giá
7
trị lễ vật mà họ nhận. Ngày nay, lễ này càng bị lược bỏ, thay vào đó chàng trai
tặng cô gái chiếc nhẫn đính hôn và cô gái tặng lại một món quà.
Hai gia đình sẽ trao đổi những món quà gọi là Yuinouhin tượng trưng cho
may mắn và hạnh phúc. Các món quà khác nhau tuỳ theo tục lệ riêng từng vùng,
nhưng thường là số lẻ và có thể lên đến 9 món quà. Ngoài obi cho cô dâu và
hakama cho chú rể, một vài món quà thường thấy là:
(Surume) cá khô để thể hiện ước
muốn về hạnh phúc dài lâu
(Tomoshiraga) ước mong cho cô dâu
chú rể sẽ hạnh phúc đến già
(Yanagidaru) bình rượu tượng trưng
cho gia đình hạnh phúc
(Suehiro) cái quạt để cầu mong sự
thịnh vượng cho gia tộc

(Yubiwa) nhẫn đính hôn, bằng chứng
của hôn ước hai bên
(Yuinoukin) tiền sính lễ
8
(Naganoshi) vật dâng lên bề trên
2. Trong và sau lễ cưới
Sau lễ Yuinou, việc còn lại là chuẩn bị tổ chức đám cưới. Đầu tiên là rước
dâu. Đám rước dâu dẫn đầu là một thầy tu Shinto, theo sau là các miko, cô dâu
chú rể, cha mẹ hai bên và cuối cùng là các vị khách mời.

Trong dịp trọng đại này, cô dâu sẽ mặc một bộ kimono trắng thể hiện sự
thanh khiết. Trên đầu cô dâu, ngoài kanzashi để trang trí thì bạn còn có thể thấy
9
một chiếc mũ Tsuno Kakushi màu trắng. Nó thể hiện sự phục tùng của cô dâu với
người chồng tương lai. Đơn giản hơn, chú rể mặc một bộ montsuki với quần
hakama và áo khoác haori có gia huy của gia đình mình.
Nghi thức của đám cưới, kekkonshiki, được tổ chức khá riêng tư trong một
ngôi đền Shinto, với sự góp mặt của người thân. Lễ cưới truyền được bắt đầu bằng
một nghi lễ thanh tẩy nơi làm lễ. Chủ lễ sẽ dâng gạo và muối cùng những vật tế
khác lên trước bàn thờ trước khi cầu nguyện với thần linh. Tất cả mọi người sẽ
đứng dậy lắng nghe những lời chúc phúc cho đôi bạn trẻ đang làm lễ thành hôn.
Tiếp theo là nghi lễ san san kudo, khi cô dâu và chú rể cùng uống rượu sake.
Bộ chén uống rượu được đưa ra gồm ba chiếc chén gọi là sakazuki có kích thước
tăng dần. Chú rể sẽ bắt đầu với chiếc nhỏ nhất, nhấp 3 ngụm rượu trước khi
chuyển sang chiếc lớn hơn. Cô dâu cũng làm theo tương tự. Ba lần ba là chín, nó
tượng trưng cho hạnh phúc trường tồn, cầu chúc cho cặp vợ chồng sẽ mãi mãi bên
nhau. Hai người sẽ thề trước thần linh và dâng một nhánh cây sakaki gọi là
10
Tamagushi lên cho các thần. Nếu có nhẫn cưới thì đây chính là lúc trao nhẫn.


Sau nghi thức này, gia đình hai bên sẽ cùng nâng chén để đánh dấu sự hoà
hợp không chỉ của hai vợ chồng mới cưới mà còn là của hai gia đình. Các nhạc
công được mời đến sẽ chơi những bản nhạc truyền thống trên các nhạc cụ cổ như
đàn và sáo. Sau khi các nghi lễ này kết thúc, hai vợ chồng sẽ thực hiện công việc
cuối cùng là tiếp đón bạn bè, khách khứa đến dự bữa tiệc cưới.
Sau tiệc cưới, cô dâu và chú rể dâng hoa đôi bên cha mẹ tỏ lòng biết ơn đấng
sinh thành đã cho họ một nửa của đời mình.
Phần III : Đám cưới ở Lào
1. Trước lễ cưới
Theo tập tục của người Lào, sau hôn lễ chú rể phải về ở nhà cô dâu. Người
Lào gọi tục lệ này là “Vivahamongkhon”, người Việt gọi là “gửi rể”.
Con gái Lào, từ 16 tuổi trở lên, được tự do tiếp bạn trai tại nhà, có thể cùng bạn
trai đi dự các buổi lễ (Bun), hội chợ (Ngan) trong hay ngoài làng. Tình cảm nam
nữ nảy nở cũng từ sự giao thiệp cởi mở trong khuôn khổ lễ giáo đó. Người Lào
quan niệm vấn đề nam nữ như Cát với Nước, cát với nước tự nhiên thu hút nhau
qua tiếp xúc, giao tế. Còn người Việt Nam thì cho rằng chuyện tiếp xúc giữa trai
gái giống như Lửa với Rơm, do đó mà mới có câu “lửa gần rơm lâu ngày cũng
bén”.
11
2. Trong và sau lễ cưới
Phong tục cưới xin của người Lào gồm các tục lệ sau:
 Tục Bắn Tin (Thạp Tham): bố mẹ chàng trai nhờ ông bà mai đưa tin cho
cha mẹ cô gái về ý định của mình. Và tuy tự do, cởi mở nhưng cô phù-
sáo (thiếu nữ Lào) cũng vùng vằng e lệ, đỏ mặt ngượng ngùng khi cha mẹ
trực tiếp hỏi mình “chịu” hay “không chịu”. Thường thì các cô gái Lào sẽ
trả lời : con không biết, con không lấy chồng đâu, con sẽ ở vậy với cha
mẹ suốt đời. Điều này đồng nghĩa với việc cô gái đồng ý với lời dạm hỏi.
o Lễ vật ăn hỏi của người Lào gọi là Khà Đoòng. Dĩ nhiên số lượng cao
thấp là do tài thương lượng của ông bà mai với bố mẹ cô gái. Ở thành
phố, phần vật liệu thách cưới thường được tính bằng tiền hay vàng ta.

Ở nông thôn thì là trâu bò hay ruộng đất. Khà Đoòng chỉ phải nộp
trong ngày cưới.
o Lựa chọn ngày cưới: Người Lào có tục lệ chỉ cưới gả nhau vào những
tháng chẵn. Tháng sáu là tháng tốt nhất vì nhằm mùa Bun Bang Phay
tức lễ cầu mưa. Tháng sáu cũng là tháng cuối cùng vì qua tháng bảy là
mùa đồng áng, còn tháng tám lại nhằm mùa Khậu Vặt Sá tức mùa
cấm phòng của chư tăng ni tiểu thừa kéo dài mãi đến trăng tròn tháng
11. Đây là khoảng thời gian người Lào tuyệt đối Kha-lăm (kiêng cữ)
nên phải chờ đến tháng 12 mới tổ chức đám cưới.
 Lễ Nghinh hôn: Như đã nói, người Việt đón dâu, người Lào đưa rể. Hình
thức và nội dung nghi lễ trong hôn nhân Lào bao gồm những lễ sau:
12
soukhouan (su-khoắn), baci (ba-xi) và phoukkhen (phục-khen). Đó là 3
danh xưng khac nhau để chỉ cùng một hình thức tổ chức biểu hiện một
nội dung tín ngưỡng giống nhau:
- Su-khoắn có nghĩa là lễ cầu vía để vía khỏi phiêu lãng rời khỏi xác.
- Ba-xi là biệt từ chỉ lễ Soukhouan trong giới trưởng giả phú quý.
- Phục-khen (buộc chỉ vào cổ tay) là tên bình dân của Soukhouan.
o Hình thức vật chất của Su-khoắn là Pha-khoắn, có nghĩa là một cái
mâm hay “mâm tiệc dành cho vía”, bao gồm các ô và các khan (loại
mâm nhỏ) được đặt chồng lên nhau. Trên đỉnh Pha-khoắn là “ống loa”
to nhất cũng làm bằng lá chuối nhưng đặc biệt là hoa Champa được
nâng niu kết lại trên từng cái găm dài nhỏ bằng gỗ hay tre, cắm rủ dài
xuống trông như mái tóc bạch kim long lánh. Ngoài ra trên Pha-khoắn
còn có cả trầu cau, thuốc lá, trứng luộc, xôi, rượu, bánh trái, tiền,
nhang, nến và những sợi dây màu trắng, dệt bằng vải bông…
13
o Trong các buổi lễ khác, Pha-khoắn nhỏ hay lớn, ít hay nhiều tầng
(nhiều mâm nhỏ chồng lên nhau), lượng lễ vật ra sao là tùy hoàn cảnh
tài chính của gia chủ.

o Hai Pha-khoắn trong ngày cưới đặc biệt hơn thường lệ , nhiều khi cao
tới 7 hay 9 tầng có chu vi bằng cả thước và có cả tiền lẫn vàng. Hoa
Champa thì được thế bằng DDooocHac (hoa cau).
o Nghi lễ Su-khoắn phải được diễn ra nơi trang trọng nhất trong nhà,
thường là phòng khách, nhân dịp này nó lại được lau chùi, dọn dẹp kĩ
hơn, bày biện mỹ thuật đẹp mắt hơn nên trông rất sang trọng. Người
được mời làm chủ lễ theo lẽ là các vị sư song thực tế thường là do một
Chan hay một Thít tức tu sĩ đã hoàn tục. Rồi trong khung cảnh đông
đủ mà trang nghiêm, mọi người hiện diện xung quanh Pha-khoắn đều
chắp tay trước ngực hay trước trán còn vị chủ lễ ngồi xấp bằng trên
thảm, an vị theo hướng tốt đã chọn kỹ, đối diện người được hân hạnh
nhận lễ Su-khoắn, bắt đầu cất tiếng Suột Môn (tụng kinh).
o Trong mỗi cuộc hôn nhân, theo phong tục Lào, có tất cả 3 lễ Su-
khoắn:
- Do gia đình nhà trai tổ chức riêng cho chú rể.
- Do gia đình nhà gái tổ chức riêng cho cô dâu.
14
- Do hai gia đình sui gia cùng tổ chức.
o Bài kinh cầu trong buổi lễ thứ nhất và thứ hai có nội dung tốt đẹp gần
giống nhau, nhắc nhở cô dâu chú rể về công đức sinh thành của bố
mẹ,… Bài kinh trong buổi lễ thứ ba có nội dung đặc thù cho tình
nghĩa vợ chồng, bổn phận dâu rể Trước mâm Pha-khoắn, chú rể ngồi
bên phải, cô dâu ngồi bên trái.
 Cuối cùng là lễ đưa rể: theo phong tục thì cuộc đưa chồng về nhà vợ
được tổ chức sau ngày làm lễ Su-khoắn .
o Đến giờ lành, phái đoàn nhà trai – tuyệt đối không được có bà góa hay
người đã li dị - mang lễ vật đã được đôi bên thỏa thuận đến nhà gái. Hai
Pha-khoắn nói trên đã được mang đến nhà gái từ trước.
o Phái đoàn nhà trai tiến dần về hướng nhà gái trong tiếng reo hò, lăm,
khắp, xởng (các điệu hát, hò đặc biệt của Lào) hòa lẫn âm thanh của các

nhạc cụ cổ truyền với mục đích bào tin vui cùng xóm làng, trời đất.
o Trước khi được phép vào nhà cô dâu, phái đoàn hè-khới (đưa rể) phải
trải qua mấy cửa ải giăng dây, chận cổng, đối đáp, yêu sách tinh nghịch
giống như họ nhà trai bên ta đi rước dâu vậy. Có điều trước khi bước
chân lên cầu thang, chẩu-bào (chú rể) phải đặt hai chân lên một miếng đá
có phủ lá chuối xanh tươi do gia đình chẩu-sáo (cô dâu) chuẩn bị sẵn.
Một người anh em của chẩu-sáo sẽ mang tới một ô thay thau nước cùng
15
một tấm khăn và rửa chân thật kĩ cho chẩu-bào. Tục này ngụ ý chú rể về
ở nhà vợ với tấm thân trong sạch.
o Sau đến lễ Su-khoắn Tân Hôn rồi mới tiệc tùng, ca hát, khiêu vũ kéo
dài thâu đêm.
 Ba ngày sau, chú rể đưa cô dâu về thăm cha mẹ ruột. Đây là dịp tân lang,
tân nương mang theo vài kỉ vật làm quà biếu cha mẹ và anh chị em chồng.
Và như thế, đôi vợ chồng mới chính thức được hòa hợp vào cả hai gia đình.
LỜI KẾT
Tóm lại, trong đời sống của người châu Á, đám cưới chính là biểu hiện của
nếp sống xã hội, của nền vǎn hoá dân tộc. Nó vừa kế thừa truyền thống phong tục,
tập quán của dân tộc, vừa được cách tân ngày càng vǎn minh theo sự phát triển của
thời đại. Và cũng trong hôn lễ của người châu Á, sự chân thành, sâu sắc của tình
yêu đôi lứa được thể hiện qua các tục lệ cổ truyền. Đó là lời khẩn nguyện (lễ thề
nguyền) của cô dâu chú rể trước gia tiên hai họ, kèm theo là sự trao kỷ vật như trao
nhẫn cưới, hứa hẹn ǎn ở với nhau cho đến "mãn chiều xế bóng" Tất cả đều nhằm
đánh dấu một sự chín muồi của tình yêu để dẫn tới hôn nhân.
Có thể khẳng định rằng, từ lâu, việc tổ chức lễ cưới đã là một phong tục
không thể thiếu trong cuộc sống cộng đồng người dân châu À, mà ý nghĩa xã hội
16
của nó thể hiện ở nhiều khía cạnh: kinh tế, xã hội, đạo đức, vǎn hoá. Đối với người
phương Đông, lễ cưới cũng chính là sự ghi nhận quá trình trưởng thành của đôi
thanh niên nam nữ, sau quá trình tìm hiểu. Đến với đám cưới, con người có cơ hội

gặp gỡ, tiếp xúc, làm quen với nhau, tǎng cường giao tiếp, mở rộng các mối quan hệ
xã hội. Đến với đám cưới là đến với một sinh hoạt vǎn hoá lành mạnh không thể
thiếu trong cuộc sống mỗi con người và cả cộng đồng người châu Á nói chung.
Có thể nói, hôn lễ đã trở thành một nét văn hóa tinh thần không thể thiếu của
toàn bộ người dân châu Á. Một bài nghiên cứu về châu Á sẽ không trọn vẹn nếu
thiếu đi việc tìm hiểu các phong tục cưới hỏi ở châu lục này.
17

×