Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tác động kinh tế tới nhân tố con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.26 KB, 20 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
Nhân tố con người có vai trò to lớn với sự phát triển của mỗi quốc gia nói chung
và trong phát triển kinh tế nói riêng. Sự phát triển của mỗi nước dựa trên nhiều nguồn
lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò vị trí quan trọng nhất, là yếu
tố cơ bản, là nguồn lực nội sinh vừa là mục tiêu, động lực cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Phát triển toàn diện con người là mục tiêu cao nhất đồng thời cũng là động
lực quyết định sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Phát triển con người - trung
tâm của mọi sự phát triển là chiến lược của mọi chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
Nhận thức rõ điều này Đảng ta đã khẳng định: “ Phát huy nguồn nhân lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững ”, và theo chủ nghĩa Mác –
Lênin thì “con người là chủ thể tích cực của mọi hoạt động, là chủ thể thực sự của các
quá trình xã hội và là chủ thể sáng tạo duy nhất ”. Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, với thế mạnh là nguồn nhân lực dồi dào đã tạo ra nhiều thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó thì còn phải đối mặt với nhiều thách
thức, đặc biệt là trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý
nguồn nhân lực là một yêu cầu cơ bản và bức thiết của mỗi quốc gia trong mỗi giai
đoạn lịch sử cụ thể. Với đặc điểm là tổng hòa của các mối quan hệ nên việc đào tạo
con người là kết quả của nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau trong xã hội. Vì thế nghiên
cứu về nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế là một vấn đề quan trọng và cần
thiết trong thời đại hiện nay.
Vấn đề nhân tố con người trong phát triển kinh tế đã và đang thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà khoa học. Trong những năm gần đây đã xuất hiện một số công trình
nghiên cứu cũng như các bài viết tiêu biểu như : “ Lấy việc phát huy nhân tố con
người làm nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” của GS.TS Phạm
Minh Hạc xuất bản trong tạp chí xây dựng Đảng số 7 năm 1995 đề cập đến vai trò của
con người trong sự vận động và phát triển của sản xuất xã hội, thực trạng nguồn lực
con người ở nước ta hiện nay cũng như một số yêu cầu về con người để phục vụ cho
nhu cầu của đất nước và nêu ra một số giải pháp về đào tạo nâng cao trình độ tri thức
cho công nhân để phục vụ cho đất nước. Hay trong “ Phát triển toàn diện con người
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ” GS.TS Phạm Minh Hạc, Nxb chính trị


quốc gia Hà Nội năm 2001 một lần nữa đã nêu lên tầm quan trọng của sự phát triển
toàn diện con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - phát
triển về mọi mặt cả về trí thể lực, đạo đức. TS Nguyễn Bá Thể với “ Phát huy nguồn
nhân lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” của NXB Lao động xã hội năm
2005 đã đề cập đến một số vấn đề lý luận trong việc phát huy nguồn lực con người để
phát triển kinh tế. Trên cơ sở thực trạng nguồn lực con người ở nước ta trong 10 năm
qua, tác giả đã đề xuất định hướng và những giải pháp, cơ bản phát huy nguồn nhân
lực con người để công nghiệp hóa, trong thời gian tới. Và “ Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của TS Nguyễn Quý Thanh, NXB
chính trị quốc gia Hà Nội năm 2005 trình bày khái quát quan niệm của chủ nghĩa Mác-
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và quan niệm của Đảng ta về phát huy nguồn lực con
người, đề ra chiến lược phát triển nguồn lực con người có chất lượng cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trên cơ sở lấy phát triển giáo dục đào tạo làm quốc sách hàng đầu.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã nói lên được vai trò và tầm quan trọng của
nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Từ những kết quả của các cuộc nghiên cứu đã cho thấy sự cần thiết cho việc phát huy
tối đa nguồn lực con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, dân
tộc là rất quan trọng. Ý thức được tầm quan trọng của nhân tố con người và những
yêu cầu đặt ra chúng tôi đã thực hiện đề tài: “ Nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế ” nhằm tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhân tố con người và phát triển kinh tế -
vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế và sự tác động ngược lại giữa
phát triển kinh tế đến con người, tình hình thực tế nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam
và từ đó đưa ra các giải pháp để phát huy tối đa nhân tố con người trong sự nghiệp
phát triển kinh tế đất nước.
II. Các khái niệm cơ bản.
Theo quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người thì con người là
một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Con người vừa là chủ thể vừa là
sản phẩm của lịch sử.
Nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khả năng hoạt động tích cực,

sáng tạo của con người, vai trò của con người như là chủ thể tổng hợp của đời sống xã
hội.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các
mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu,
thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã hội.
III. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và nhân tố con người.
1. Vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế.
Con người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân
loại. Con người sử dụng sức lao động về thể lực và trí tuệ của mình kết hợp với các
công cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên và sản
xuất ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống con người. Trong tất cả các lĩnh vưc kinh
tế như nông nghiệp, công nghiệp hay thương mại dịch vụ thì con người là lực lượng
sản xuất không thể thay thiếu. Có được thành quả như hiện nay đều là do con người sử
dụng sức lao động làm ra nhằm chăm lo cho cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn.
Như vậy trong sự phát triển kinh tế con người lao động đóng một vai trò vô cùng quan
trọng.
Từ ngàn xưa con người đã biết làm chủ tự nhiên, khám phá ra nhiều nguồn tài
nguyên khoáng sản quý phục vụ cho nhu cầu sống của mình. Hiện nay, con người
ngày càng khám phá ra những nguồn năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng
lượng mặt trời, năng lượng gió thay thế cho những nguồn tài nguyên đang ngày càng
khan hiếm và không thể phục hồi như: khí đốt,dầu mỏ, quặng, than đá Bên cạnh đó
con người đã và đang phát minh ra nhiều sản phẩm công nghệ hiện đại như trong sinh
học con người đã khám phá ra bản đồ gen người phục vụ đắc lực cho ngành y khoa,
hay trong công nghệ thông tin thì phát minh ra các thiết bị điện tử tinh vi đã đưa xã hội
ngày một phát triển phục vụ đắc lực cho nhu cầu cuộc sống hiện đại.
Có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn tài
nguyên là thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn tài nguyên con người đó
là trí tuệ. Thực tế cho thấy các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể cạn kiên song trí
tuệ của con người thì đã đang và sẽ phát triển không ngừng, có nghĩa là trí tuệ của con

người là vô hạn. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận trong sự phát
triển xã hội. Con người đã làm nên lịch sử của chính mình bằng lao động được định
hướng bởi trí tuệ đó. Ta đã biết rằng tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất
nhiên phải thông qua đầu óc của họ, tức là phải thông qua trí tuệ của họ. Trước tiên,
những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng như bất kỳ
một động vật nào khác. Nhưng rồi bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình- đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sự khác biệt căn bản về mặt tổ
chức cơ thể giữa con người và con vật chính là bộ óc và đôi bàn tay. Bộ óc điều khiển
đôi bàn tay, nghĩa là bằng trí tuệ và lao động con người đã tiến hành hoạt động biến
đổi tự nhiên làm nên lịch sử xã hội, đồng thời trong quá trình đó đã biến đổi cả bản
thân mình. Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh
khoa học, những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo, dù
rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức hoàn hảo nhất cũng chỉ là một mảng cực nhỏ, một
sự phản ánh rất tinh tế thế giới nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình phát
triển khoa học kinh tế, của hoạt động trí tuệ của con người. Mọi máy móc dù hoàn
thiện, dù thông minh đến đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người.
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn góp phần quyết định đến sự phát triển xã
hội đặc biệt là trong phát triển kinh tế.
Con người đề ra các chính sách các chiến lược hoạch định để phát triển kinh tế.
Trong qua trình phát triển kinh tế, nhờ những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn do
con người đề ra mà nhiều quốc gia đạt được những thành tựu to lớn. Và với các chính
sách về chính sách phát triển công nghiệp, chính sách phát triển nông nghiệp hay
chính sách phát triển thương mại và dịch vụ đã góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế đất nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Con người còn là
động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Để đạt được thành tựu về kinh
tế như ngày hôm nay tất cả là những nỗ lực không ngừng của con người, con người
làm cho xã hội ngày một phát triển, nhằm hướng tới một xã hội văn minh,mà phát
triển kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu.
Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vị trí

vai trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà
chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày
càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “ Những giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người ”, thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi chúng ta, con người
ngày càng thể hiện rõ vai trò là “ chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất
- văn hoá và mọi nền văn minh của các quốc gia ”. Trong công cuộc đổi mới đất nước,
chỉ có con người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mới là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Hay nói
cách khác, công cuộc đổi mới đất nước mà cụ thể là công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
do con người, phụ thuộc vào con người và vì con người.
2. Sự tác động giữa nhân tố con người và sự phát triển kinh tế.
Qua nhiều giai đoạn biến đổi thì hiện nay nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển hơn
và đang dần thể hiện bản lĩnh trên thế giới, một trong những yếu tố quan trọng cho sự
phát triển đó là nhân tố con người. Nhân tố con người với sự phát triển kinh tế luôn có
mối quan hệ qua lại với nhau, ngoài những vai trò to lớn mà nhân tố con người mang
lại thì kinh tế cũng có tác động ngược trở lại, sự tác động ấy theo 2 hướng tích cực và
tiêu cực.
2. 1.Tích c ực.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển hơn thì đòi hỏi sự thay đổi lớn từ xã hội hay
chính từ nhân tố con người, chính vì vậy nhân tố con người cần tiến bộ từng ngày đáp
ứng tốt như cầu nắm bắt sự biến đổi khi kinh tế nước ta đang tăng trưởng theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế phát triển theo cơ chế kinh tế thị trường đã tác
động mạnh mẽ tới đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực. Kinh tế thị trường đòi hỏi có sự
phát triển và ứng dụng các khoa học kĩ thuật vào trong quá trình sản xuất của cải vật
chất từ đó cơ sở vật chất ngày càng được đảm bảo, con người lao động được hỗ trợ
toàn diện về mọi mặt trong quá trình sản xuất và trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Với sự hỗ trợ của máy móc, các dây chuyền sản xuất hiện đại đã giúp cho con người

đẩy nhanh được tốc độ sản xuất vật chất và tăng nhanh về tích lũy giá trị thặng dư.
Cùng đó, với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa cuộc sống của con người lao
động ngày càng được quan tâm và chú trọng hơn. Các doanh nghiệp ở Việt Nam đã
thực hiện được các chính sách hỗ trợ việc chăm lo đời sống của công nhân viên bằng
cách xây dựng các khu kí túc xá cho công nhân, các chính sách thai sản, hỗ trợ cho
những công nhân có con trẻ và các chính sách khích lệ của các cơ quan doanh
nghiệp, công ty, nhà nước cho sự tuyên dương, khen thưởng cũng đã tạo được điều
kiện để cho công nhân viên có động lực lao động hơn và hiệu quả công việc cao hơn
từ đó tạo cho nguồn nhân lực lao động phát triển khả năng của mình nhằm hướng tới
một nền kinh tế tri thức, tiến bộ lâu dài.
Nền kinh tế phát triển kết hợp với hội nhập quốc tế, phát triển về cơ sở hạ tầng,
nâng cao ý thức con người về mọi mặt và tiếp thu khoa học- kĩ thuật. Việc hội nhập
được đẩy mạnh trên tinh thần tích cực học hỏi và tôn trọng mối quan hệ nước bạn, đẩy
mạnh kinh tế theo lối tri thức, tư duy và nhanh chóng làm quen với những mô hình
kinh tế mới. Kinh tế phát triển tạo ra sự cải biến những quan niệm cũ gắn liền với nền
sản xuất tự cấp, tự túc, làm tăng thêm một bước tự ý thức của con người, thúc đẩy hình
thành cá nhân năng động, sáng tạo, đưa xã hội lên một trình độ mới. Con người có thể
tự nhận biết được nhu cầu của chính mình và xã hội, kéo theo đó là việc phải làm thế
nào để đáp ứng những nhu cầu đó? Con người dựa vào những đòi hỏi thực tế để phát
huy khả năng sáng tạo của mình và nhằm tự đánh giá khả năng bản thân cũng như
mong muốn nền kinh tế nước nhà có thể sánh tầm quốc tế dù còn nhiều khó khăn và
thiếu sót. Ngày nay chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự thay đổi khá mạnh của kinh
tế nước nhà qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hay những cung- cầu đã được đáp
ứng đầy đủ hơn, phong phú hơn. Ví dụ như sự phát triển của các siêu thị lớn hay
những mặt hàng điện tử chất lượng mang thương hiệu Việt cũng đang “len lỏi” trong
thị trường các nước cũng đã chứng tỏ rằng sự biến đổi về kinh tế là rất lớn.
Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi người phải quan tâm đến giá trị của sản phẩm lao
động, tức là quan tâm tới hiệu quả kinh tế, cả trong nhận thức và trong hoạt động của
con người. Muốn đạt được điều đó thì đòi hỏi người lao động phải được nâng cao tay
nghề, trình độ chuyên môn trong các ngành nghề. Chính vì vậy việc đẩy mạnh đào tạo

giáo dục nguồn lực lao động đã và đang ngày càng được chú trọng thông qua các hình
thức như mở lớp đào tạo ngành nghề ngắn và dài hạn, tăng cường giáo dục lao động về
kĩ năng, tay nghề và đạo đức nghề nghiệp ở các trung tâm dạy nghề, các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp. Với bất kì một ngành nghề nào cũng đòi hỏi trình độ chuyên
môn cao để nâng cao cạnh tranh trong sản xuất và có thể đứng vững trên thị trường. Vì
vậy nhân tố con người cũng ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng
cao tay nghề, điều này sẽ giúp con người có thể phát triển khả năng của bản thân cũng
như đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì cũng không tránh khỏi sự cạnh tranh
gay gắt giữa nền kinh tế này với nền kinh tế khác, giữa doanh nghiệp – xí nghiệp – tập
đoàn này với doanh nghiệp – xí nghiệp – tập đoàn khác. Muốn đứng vững trên thương
trường thì chắc chắn không thể tránh khỏi sự va chạm này, nhưng cũng chính vì những
sự cạnh tranh, va chạm đó đã thúc đẩy sự cạnh tranh cá nhân, tạo điều kiện để con
người từng bước nỗ lực hơn nữa, phát huy, kích thích tư duy sáng tạo, nâng cao trình
độ chuyên môn của mình, phát huy năng lực cá nhân, hình thành tính tích cực, tự giác
thay thế cho tâm lý tiểu nông dựa dẫm ỷ lại vào tập thể trong nhiều hoàn cảnh kinh tế
khác nhau có nghĩa là sự cạnh tranh đã tạo điều kiện thuận lợi để con người thể hiện
chính mình. Có thể nói cạnh tranh chính là động lực không chỉ để phát triển kinh tế mà
còn để phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội.
Trong cơ chế thị trường, việc làm giàu chân chính luôn được khích lệ. Xã hội
luôn ủng hộ những ai có chí làm giàu trên con đường chân chính, bằng chính khả năng
của mình cùng việc quan tâm thích đáng tới lợi ích cá nhân trong lao động sản xuất,
trong đó có cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Các chính sách mới và cơ chế thị
trường thật sự đã khơi dậy và nâng cao vai trò chủ đạo, sáng tạo của cả người quản
lý, người điều hành lẫn người sản xuất trực tiếp. Những thành tựu đạt được trong
kinh tế đã tạo được niềm tin cho mọi người trong việc thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giải quyết được sự khủng hoảng của
một nền kinh tế thiếu hụt đã tồn tại trong nhiều năm.Tạo cơ sở vật chất để từng bước
đổi mới các chính sách xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Với những mặt tích
cực mà sự phát triển kinh tế mang lại đã tạo cho nền kinh tế nước ta có những bước

chuyển biến đáng kể nhưng bên cạnh những tích cực thì vẫn còn tồn tại những mặt tiêu
cực đáng phải suy nghĩ.
2. 2. T iêu cực.
Song song với những mặt tích cực cần được duy trì và phát huy thì vẫn còn tồn tại
những tiêu cực kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
Kinh tế nước ta phát triển nhưng vẫn bị ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông sâu sắc
đó là những suy nghĩ manh mún và không hệ thống. Một trong những biểu hiện của lối
suy nghĩ này là tính tự phát, chạy theo phong trào, không theo một quy hoạch nào
trong sản xuất nông nghiệp. Chính vì lối suy nghĩ này mà người Việt Nam dễ dàng mất
việc, hay không đạt chất lượng trong đào tạo vì thói quen “ giờ cao su”, "nước tới chân
mới nhảy",quan niệm "tới đâu hay tới đó". Đây là một tập quán đã ăn sâu vào tâm
thức của con người Việt Nam, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế và gây ấn tượng
không tốt cho lao động Việt Nam trong việc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Khi kinh tế phát triển theo xu hướng hiện đại hóa thì vấn đề thất nghiệp nan giải
hơn do đòi hỏi nguồn lao động có chuyên môn và tay nghề cao. Hầu hết các công ty,
doanh nghiệp tư nhân hay nhà nước đều đòi hỏi tay nghề công nhân nhằm đáp ứng
như cầu chất lượng cho thị trường. Những công nhân không có trình độ, tay nghề kém
sẽ không dễ xin việc và cũng dễ mất việc dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Kinh tế phát triển nhanh làm cho con người bị rơi vào hỗn loạn vì theo không
kịp đà phát triển. Việc nâng cao cơ sở hạ tầng trong phát triển kinh tế cũng là 1 trong
số nguyên người lao động mất tư liệu sản xuất và rơi vào tình trạng thất nghiệp, từ đó
họ di cư ồ ạt lên thành phố kiếm việc làm gây ra nhiều tệ nạn cũng như vấn đề đáng
ngại cho xã hội như dân cư sống ở xung quanh thành phố trong những khu nhà ổ
chuột, không đủ nước sạch, cuộc sống khó khăn, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, tệ nạn
trộm cắp, nghiện ngập, dân cư tăng nhanh không thể kiểm soát nổi do không có đăng
kí tạm trú tạm vắng.
Thực tế hiện nay, con người ngày càng hướng đến lối sống chạy theo đồng tiền.
Kinh tế thị trường có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có khuynh hướng làm cho người ta coi “giá trị thị
trường” là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Họ định giá trị của

con người căn cứ vào của cải của người đó, từ đó tìm các quan hệ trong sự đem lại lợi
ích gì cho mình, cho cá nhân mình. Từ đây mà các quan hệ tình cảm cao đẹp có nguy
cơ bị băng giá trong sự tính toán vị kỷ. Con người có thể quay lưng lại với nhau vì tính
chất của đồng tiền, họ không kìm hãm được ham muốn quyền lực và giàu có khiến
nhiều mối quan hệ tình cảm bị rạn nứt, và cũng có nhiều trường hợp vì tiền mà mất
nhân tính. Những quan niệm và hành vi của đạo đức truyền thống như tinh thần giúp
đỡ nhau, kính già, yêu trẻ, tôn sư trọng đạo, vợ chồng thủy chung sẽ bị biến động và
suy giảm do toan tính của đồng tiền. Khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần,
dẫn đến nguy cơ "thương mại hóa" cái gì có tiền mới làm, cái gì không có tiền, dù cần
cũng không làm. Hơn thế nữa, khi chạy theo đồng tiền có thể sẽ bất chấp đạo lý,
những hủ tục mê tín có thể tăng nhanh, các sản phẩm phản văn hóa, làm băng hoại con
người có thể tràn lan, các bậc giá trị chuẩn mực có thể bị nhận thức sai lệch kéo theo
lối sống "tiền trao cháo múc", lạnh lùng, tàn nhẫn làm băng hoại đạo đức truyền thống,
thuần phong mỹ tục, lấn sâu vào từng gia đình, từng người. Đã có không ít hiện tượng
từ chỗ coi trọng các giá trị tinh thần xã hội sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh
tế. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực là đạo đức cao nhất,
sang tuyệt đối hóa con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa.
Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo đức phẩm giá,
tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là
trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. Tiền xâm nhập vào nhiều
mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn hành vi
của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc ngoặc,
buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền bằng
tiền chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay nhưng hiện vẫn đang diễn ra phức
tạp và là nỗi lo lắng của xã hội.
Sự phát triển kinh tế còn kéo theo vấn đề về môi trường, hiện nay thì môi
trường đang báo động bởi sự ô nhiễm và suy giảm nghiêm trọng tài nguyên thiên
nhiên. Việc dân cư đông ở những nơi thiếu thốn cộng với việc thiếu ý thức là nguyên
nhân rất lớn khiến tình trạng ô nhiễm môi trường xảy ra nhiều, chính sự ô nhiễm sẽ
dẫn đến tình trạng sức khỏe của con người suy giảm với nhiều loại bệnh tật hoành

hành. Sống trong môi trường không đảm bảo vệ sinh sẽ khiến cho sức lao động của
con người kém hiệu quả và đồng thời nó là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự
phát triển kinh tế . Không chỉ vậy, kinh tế phát triển đòi hỏi phải nâng cao chất lượng
và sản lượng nên một số ngành cần sử dụng nguồn tài nguyên sẽ phải đẩy mạnh khai
thác nhưng số lượng tài nguyên phục hồi rất ít và mất nhiều thời gian nên tình trạng
suy giảm tài nguyên đang đáng báo động. Chính nguy cơ kiệt quệ nguồn tài nguyên
kéo theo hàng loạt nguy cơ báo động về sức khỏe, môi trường. Việc đẩy mạnh sản xuất
với lượng chất thải lớn và độc hại ảnh hưởng không nhỏ đến con người nói chung và
những người lao động trong các khu sản xuất nói riêng. Và đây là hiện tượng rất thực
tế với những thành phố của những nước đang phát triển khi không áp dụng, thực hiện
tốt biện pháp xử lý chất thải trong quá trình sản xuất.
Chính những mặt tiêu cực này làm ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế, vì
vậy bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển về kinh tế thì cần quan tâm đến hướng giải
quyết các vấn đề tồn tại đang kìm hãm sự phát triển của con người trong xã hội, có
như vậy thì nhân tố con người mới có được cái môi trường để phát huy toàn diện năng
lực của bản thân nhằm hướng tới sự phát triển kinh tế của cá nhân và đặc biệt là sự
phát triển kinh tế đất nước.
IV. Làm thế nào để phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Đảng ta đã xác định: “Phát huy nhân tố con
người có ý nghĩa quan trọng và quyết định trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội”.
Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố về thể chất, tinh thần, trình độ chuyên môn,
về phẩm chất đạo đức, về tay nghề, về vị thế xã hội tạo nên năng lực của con người mà
năng lực đó nếu biết phát huy tốt sẽ trở thành động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát
triển. Nhân tố con người ở đây là muốn nói đến và nhấn mạnh khía cạnh quan trọng
nhất của con người đó là hoạt động của con người, là vai trò sức mạnh của con người
đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhân tố con người được xem
là nhân tố quyết định trong bốn nguồn lực của sự phát triển, bởi vì có thể phát huy,
khai thác tốt về nguồn lực tài nguyên, vị trí địa lý và vốn thì đều phải thông qua con
người. Như vậy con người chính là trọng tâm, là xuất phát điểm, là nhân tố bao trùm
lên các nhân tố khác trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Vậy nên, thực chất việc

phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng cuộc sống cho
con người và phát huy vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Trong bất kỳ xã hội nào, nguồn lao động cũng là nguồn lực quan trọng nhất
trong sản xuất. Ngày nay khi khoa học công nghệ phát triển hàm lượng chất xám trong
giá trị hàng hóa tăng cao, thì vai trò của người lao động có trí tuệ càng được khẳng
định trong lực lượng sản xuất. Phát huy nguồn lực con người là quá trình đào tạo, bồi
dưỡng làm tăng nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức là quá trình
khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong học tập, trong lao động, chiến đấu nhằm
phục phụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Để phát huy nhân tố con người -
nguồn nhân lực quyết định trong phát triển kinh tế cần phải có những biện pháp, chính
sách phù hợp và kịp thời để nhân tố con người có khả năng phát huy tối đa năng lực
phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Nâng cao dân trí, thi thức, phát triển kỹ năng nghề nghiệp và phát triển toàn
diện con người Việt Nam về chính trị , đạo đức, ý chí, tầm vóc, thể trạng và thể lực, cải
thiện, phát triển nòi giống, đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa giữa thể lực và trí lực
con người lao động Việt Nam thì mới có thể hình thành đội ngũ lao động có trình độ
và cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, bảo đảm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là bộ phận nhân lực trình
độ cao, có năng lực tham gia phát triển các ngành đem lại giá trị gia tăng cao trong
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện và các cơ hội để người lao động
phát triển năng lực sáng tạo trong một số lĩnh vực khoa học, công nghệ cao.
Giáo dục phải được xem là quốc sách hàng đầu. Phải giáo dục, bồi dưỡng
những giá trị đạo đức, tăng cường tính tổ chức kỷ luật, tinh thần hợp tác, lương tâm
nghề nghiệp, tính cộng đồng, lòng tin và trách nhiệm công dân. Tuổi trẻ có tri thức
khoa học kỹ thuật, có tinh thần yêu nước và thái độ lao động mới sẽ là người chủ
tương lai của đất nước, do đó cần quan tâm đầu tư và đào tạo cho đội ngũ trẻ này.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay với đặc điểm là một nước nông nghiệp với
nông dân chiếm đa số thì đây là một nội dung không thể thiếu của phát huy nhân tố
con người trong phát triển kinh tế.

Nhân tố con người chính là nguồn lực của sự phát triển kinh tế xã hội, phát huy
nhân tố con người phải ưu tiên phát triển đội ngũ tri thức, trọng dụng người tài của đất
nước. Phát triển nâng cao trí lực, trình độ chuyên môn- kỹ thuật, năng lực, kỹ năng
làm việc và sáng tạo của nguồn nhân lực. Cần thiết phải xây dựng nuôi dưỡng và phát
triển được đội ngũ các nhà tri thức, các nhà quản lý, các nhà kinh doanh có trình độ và
kiến thức kỹ năng giỏi để có thể đưa đất nước ta hội nhập thành công vào các xu thế
tiến bộ khoa học- công nghệ và các hoạt động kinh doanh trên thế giới.
Giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại, giúp hình thành và phát triển con người Việt Nam. Mỗi dân tộc đều
có bản sắc riêng và những giá trị văn hóa truyền thống tạo thành sức mạnh tiềm tàng
của dân tộc đó. Phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế ở Việt Nam trong
điều kiện cách mạng khoa học- công nghệ và hội nhập, hợp tác quốc tế đòi hỏi không
chỉ gìn giữ, phát triển, mà cần phải tiếp thu một cách có chon lọc những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, để cho mỗi con người vừa có tâm hồn Việt Nam, vừa có trí tuệ của
nhân loại. Công thức tổng quát là: văn hóa, trí tuệ Việt Nam kết hợp hài hòa với khoa
học- công nghệ và tinh hoa, trí tuệ nhân loại để phát triển nguồn nhân lực và xây dựng
đất nước Việt Nam phát triển, văn minh, hiện đại.
Nội dung phát triển nguồn lực con người là rất rộng và mang tính liên ngành
cao.Vì vậy, cần phải có hệ thống giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Đó là các giải
pháp cụ thể trong các ngành/lĩnh vực: giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ
sức khỏe người lao động; lao động- việc làm, thể dục- thể thao, văn hóa- thông tin, hệ
thống các phương tiện thông tin đại chúng. Đó là các giải pháp đa dạng hóa các nguồn
lực và huy động toàn xã hội để phát triển nguồn lực con người trong phát triển kinh tế,
tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế và tăng cường vai trò của Nhà nước trong phát
triển nguồn lực con người.
V. Thực trạng về nguồn nhân lực trong sự phát triển kinh tế
1. Tích cực.
Trong một bài viết của mình, giáo sư Phạm Duy Hiển đánh giá khái quát: “Với
năng lực khoa học công nghệ như hiện nay, làm sao Việt Nam có thể trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020?”. Như vậy trong chiến lược

phát triển kinh tế, nước ta đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa đất nước trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong đó phải phát huy tối đa mức cao
nhất mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người. Chúng ta đang bước vào thế kỷ
XXI, trong đó khoa học kỹ thuật thế giới sẽ phát triển như vũ bão và đất nước ta cũng
trên đường tiến mạnh lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó, một
trong những ưu tiên là phải phát triển nguồn nhân lực, trang bị và không ngừng nâng
cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, xem đó là điểm tựa của hệ thống đòn
bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội. Những năm qua nước ta
cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cũng như đem đến nhiều cơ hội để phát triển nhân tố con người.
Dân số nước ta năm 2000 có 77,6309 triệu người, đến năm 2010 được 86,9277
triệu người, như vậy có thể thấy dân số nước ta tăng dần lên hằng năm, điều này phản
ánh nguồn nhân lực của đất nước đang phát triển rất mạnh về số lượng. Nguồn nhân
lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân và
nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu
người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10%
dân số); nguồn nhân lực trí thức tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu
người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2
triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người… Theo Báo cáo
tổng hợp Đề án “Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay là 50,4 triệu người
trong độ tuổi lao động, chiếm 58% dân số. Dân số đông là điểm mạnh của Việt Nam,
bởi vì nó tạo ra lực lượng lao động dồi dào, giá thành lao động sẽ rẻ và tạo ra lợi thế về
nguồn lao động so với các nước trong khu vực hiện nay, thu hút nguồn vốn nước
ngoài, nhiều công ty hàng đầu thế giới đã đầu tư vào Việt Nam.
Cơ cấu dân cư trẻ, như vậy người Việt Nam tập trung chủ yếu trong độ tuổi lao
động và dưới độ tuổi lao động. Số người trên độ tuổi lao động chiếm khoảng 10%,
trong độ tuổi lao động chiếm 56%, dưới độ tuổi lao động chiếm 34%. Điều này có lợi
cho việc phát triển kinh tế.
Phẩm chất, tính cách con người Việt Nam: con người Việt Nam có truyền thống

yêu nước, đoàn kết, gắn bó, có tinh thần tự tôn dân tộc, tinh thần nhân ái “lá lành đùm
lá rách”, thông minh, chịu khó, giỏi chịu đựng Đây là những giá trị của con người
Việt Nam đã đang và sẽ tạo nên sức mạnh phi thường trong quá trình phát triển đất
nước. Đặc biệt là tạo ra khả năng để thúc đẩy kinh tế.
Vấn đề nguồn nhân lực luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo các
ban, ngành, đoàn thể xã hội, đặc biệt nhận được sự quan tâm và định hướng cụ thể cho
việc phát triển nguồn nhân lực với thế mạnh về giáo dục - đào tạo và khoa học - kỹ
thuật để phát triển các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ hiện đại. Đảng và Nhà nước đã
đưa ra các chính sách phù hợp cho việc đầu tư nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khoá IX) đã có nhắc đến tầm quan
trọng trong việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nghị quyết Trung ương 7
nêu rõ “Cần có cơ chế cụ thể phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ xứng
đáng các tài năng ; có chính sách động viên những nhà khoa học, kể cả những người
đã nghỉ hưu và những người đang sinh sống ở nước ngoài tham gia các chương trình
kinh tế - xã hội của quốc gia và xây dựng đường lối, chính sách pháp luật. Để đào tạo
được nguồn nhân lực trình độ cao này, cần chú ý: Nguồn lực để đào tạo nhân tài
không bó hẹp ở một giai cấp, tầng lớp nào mà là được thu hút trong toàn xã hội. Nhân
tài không chỉ được đào tạo về chính trị, quân sự, văn học nghệ thuật, mà còn được
đào tạo trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ đào tạo nhân tài là do nhà nước
và nhân dân cùng làm. Nhân tài được đào tạo không chỉ do nội lực mà còn tìm được
sự hỗ trợ của ngoại lực”.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm đưa ra các chính sách xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày 19/04/2011, thủ
tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 597/QĐ – TTG phê duyệt chiến lược phát
triển nhân lực Việt Nam thời kì đổi mới 2011-2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và
địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế
hoạch phát triển chung của cả nước. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hoá chiến lược
bằng các biện pháp và các hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ,
coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục – đào tạo phù hợp là nhân tố quyết
định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh bền vững.

Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, Đại hội XI đã đề ra một số giải pháp căn bản như xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam trong thời đại mới, chăm lo
bồi dưỡng thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất của con người để xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời chỉ rõ phải đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế; trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực dồi dào đã được chú trọng cải thiện,
được qua đào tạo cơ bản, có trình độ kĩ thuật và tay nghề cao. Hệ thống dạy nghề của
thành phố phát triển khá nhanh, quy mô đa ngành nghề, nhân lực luôn được đào tạo bổ
sung, đào tạo lại để thay thế các vị trí không còn phù hợp hoặc chỗ làm việc mới theo
yêu cầu trình độ, chất lượng lao động, ngành nghề chuyên môn với các tiêu chuẩn
quốc tế và khu vực. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy nâng cao tay nghề cũng
được nâng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua
đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có
bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở
lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp chiếm khoảng 40%. Cả nước,
tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề. Trường trung
cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê được, tính đến cuối
năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810
trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ
trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu cầu đào
tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường trung
cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy
nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.
Nước ta đã đầu tư vào việc xây dựng đội ngũ nhân lực có chuyên môn cao, phát
triển giáo dục hướng nghiệp, đồng thời xây dựng các trung tâm đào tạo nghề, các
trường dạy nghề kĩ thuật, đảm bảo cho nguồn nhân lực có thể tìm được việc làm thích
hợp. Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất

nước. Nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét
nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội đã thay đổi hẳn cục diện phát triển kinh tế
nước ta kể từ khi tiến hành đổi mới, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế mới trong những
năm gần đây.
Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, thành thạo mọi kĩ năng, năng
động, sáng tạo, có mặt mạnh về trình độ văn hóa, tiếp thu nhanh, khéo tay và khi được
đãi ngộ xứng đáng thì khá chăm chỉ, có khả năng thích nghi, hội nhập cao, có đủ năng
lực đẩy nhanh tốc độ phát triển của đất nước, ngày càng gia tăng đáp ứng được nhu
cầu cho các doanh nghiệp góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định trong phát triển kinh tế xã hội, giảm
nghèo và đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho phát triển bền vững trong
tương lai. Do vậy cần nhìn nhận phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện, như
một khâu chiến lược đột phá trong tầm nhìn đến năm 2020.
2. Những hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được về nguồn lực con người thì vẫn còn những hạn
chế kìm hãm sự phát triển nhân tố con người ở nước ta hiện nay.
Nguồn lao động chưa được quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch khai thác, nâng
cấp, đào tạo đến nơi đến chốn. Chất lượng nguồn lao động thấp hơn so với các nước,
chỉ đạt 3.79 điềm, xếp thứ 11/12 nước tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao dẫn đến mâu thuẫn lượng và chất. Việt Nam đang
thiếu lực lượng lao động có tay nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao. Theo thống kê
công nhân có trình độ đại học, cao đẳng của nước ta chiếm khoảng 3,3% đội ngũ công
nhân nói chung, ngoài ra người lao động con thiếu trình độ về ngoại ngữ cũng như tin
học. Chính trình độ còn thấp nên lao động không đáp ứng được yêu cầu của công việc
dẫn đến chất lượng công việc kém.
Số lượng trường đại học mọc lên càng ngày càng nhiều nhưng hiệu quả đào tạo không
cao, dẫn đến các công ty e ngại trong việc tuyển dụng lao động, nhiều sinh viên ra
trường vẫn mắc phải tình trạng thất nghiệp.
Sự kết hợp bổ xung đan xen giữa nguồn lực nông dân, công nhân, tri thức chưa tốt.
Nguồn nhân lực bị chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện công nghiệp

hóa hiện đại hóa đất nước.
Người lao động thiếu kỷ thuật, thiếu tự giác, sáng kiến, ít nghĩ đến lợi ích chung của
cơ quan, chưa quan tâm đúng mức tới an toàn lao động. Đa số lao động Việt Nam xuất
phất từ nông nghiệp, do vậy chưa có sự chuyển đổi từ tác phong nông nghiệp sang tác
phong công nghiệp. Người lao động thiếu kỹ năng làm việc nhóm, hợp tác trong công
việc, họ chỉ làm tốt khi làm việc cá nhân, điều đó cho thấy rằng ý thức về tập thể chưa
cao dẫn tới không phát huy được lợi thế của làm việc nhóm trong công việc.
Thiếu nguồn lao động chất lượng cao. Nhân lực được đào tạo các bậc hằng năm đều
tăng, nhưng lao động chất lượng cao vẫn thiếu so với nhu cầu của xã hội.
Thể lực nguồn lao động còn yếu so với các nước khác. Khả năng lao động còn kém
dẫn tới năng suất không cao. Điều này ảnh hưởng đến việc sử dụng, vận hành máy
móc, năng suất lao động…
Tình trạng nhảy việc diễn ra như là một bản chất của người lao động Việt Nam. Nhảy
việc làm ảnh hưởng đến kế hoạch cũng như năng suất lao động của doanh nghiệp.
Theo thống kê chưa đầy đủ, các khu chế xuất, khu công nghiệp thì năm 2011 có trên
50 ngàn lao động thay đổi công viêc. Bên cạnh đó nhiều lao động nghỉ việc để hưởng
trợ cấp thất nghiệp cũng là một thực trạng đáng báo động.
 Nguyên nhân của những hạn chế trên là do những yếu tố sau:
Có thể thấy rằng nguồn lao động còn kém chất lượng do đào tạo chưa thật sự tốt, còn
nhiều bất cập so với yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Quản lý nhà nước về lao động còn kém, tình trạng nhảy việc xảy ra do có sự cạnh
tranh nhau về mức lương, trong khi các chính sách an sinh xã hội lâu dài chưa được
các Doanh nghiệp quan tâm để giữ chân lao động, chính sách trợ cấp thất nghiệp còn
nhiều kẽ hở nên không ít lao động nghỉ việc với mục đích hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Sức khỏe của người lao động chưa được quan tâm đúng mức, công tác khám chữa
bệnh và cấp phát thuốc cho người lao động còn tùy tiện, nhiều công ty, xí nghiệp chưa
quan tâm đúng mức mà chỉ thực hiện mang tính đối phó.
Chất lượng lao động còn kém do lạc hậu trong nhận thức và quản lý giáo dục, chưa
quan tâm đúng mức tới cung cầu mà chỉ đào tạo theo quán tính, bên cạnh đó việc thiếu
cơ chế chế tài cũng dẫn tới buông lỏng chất lượng đào tạo.

Có thể nói rằng bài toán về nguồn nhân lực là rất khó, không thể giải quyết ngay được,
nhưng không phải là không thực hiện được, để thực hiện được cần phải thực hiện đồng
bộ từ nhiều phương diện.
VI. GIẢI PHÁP, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG
LĨNH VỰC KINH TẾ.
1. Giải pháp.
Đặc điểm nền kinh tế ở việt nam là sản xuất nhỏ, cơ sở kỹ thuật thủ công lạc hậu, tư
liệu sản xuất chỉ thích ứng với sử dụng cá nhân, phân công lao động có tính chất tự
nhiên, truyền thống, thời vụ, giới tính, lao động cá thể chiếm ưu thế năng suất lao động
thấp và nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Lối tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, kém
phát triển về tư duy lý luận là kết quả của nền sản xuất nhỏ, tự nhiên, manh mún. Lao
động cơ bắp là chủ yếu, các thao tác cơ bản dựa vào thói quen kinh nghiệm trong sản
xuất, hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm thấp đó là rào cản lớn trong tiến trình hội nhập
kinh tế, quốc tế, là thách thức đối với nền kinh tế của nước ta.
Tuy nhiên những năm gần đây nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng vươt bậc
là nhờ có những chiến lược phát triển phù hơp với tình hình của nước ta hiện nay, chất
lương cuộc sống của người dân cải thiên rõ rệt, tuy nhiên tốc độ tăng trường nền kinh
tế của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì nền kinh tế của ta vẫn
là nền kinh tế chậm phát triển, do nhiều nguyên nhân trong đó đặc biệt là nguồn nhân
lực của nước ta dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng nhu
cầu tuyển dụng cũng như tính chất của công viêc.
Để khắc phục tình trạng trên phát huy được thế mạnh nguồn lực góp phần tăng
trưởng kinh tế cần có những giải pháp phù hợp:
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước: Tập trung đào tạo các ngành nghề mà doanh nghiệp, nền kinh
tế- xã hội đang có nhu cầu như sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí Tập
trung ưu tiên cho các trường, trung tâm dạy nghề trọng điểm và khuyến khích xã hội
hóa công tác đào tạo nghề nhằm động viên huy động có hiệu quả nguồn nhân lực trong
nhân dân. Gắn mục tiêu đào tạo nghề với giải quyết việc làm theo quy hoạch phát triển
kinh tế- xã hội.

Phát triển và bồi dưỡng con người trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một
vấn đề tất yếu: Tiếp tục đầu tư xây dựng, phát triển và đổi mới để các trường, các
trung tâm, cơ sở nghề đảm bảo đáp ứng đội ngũ lao động kĩ thuật, nhằm tạo cơ hội cho
mọi người ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, mọi nơi có thể tham gia học nghề để tạo nghề
nghiệp.
Bồi dưỡng, nâng cao NNL kết hợp với hệ thống giá trị của con người: Nâng cao
chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm đẩy mạnh phát huy nguồn lực cả về
số lượng và chất lượng.
Phát huy sáng kiến, chăm lo sức khỏe cho người lao động: sức khỏe là nhu cầu tồn tại
trước hết bản thân mỗi một con người, tiếp đó là cho việc phát triển năng lực thực tiễn,
năng lực nhận thức, quan tâm chăm sóc sức khỏe cho người lao động, làm họ vững tin
vào bản chất tốt đẹp của chế độ mà chúng ta đang xây dựng. Do đó nhân dân đóng góp
sức lực của mình vào công cuộc phát triển kinh tế.
Tăng quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu
cầu của thị trường lao động: Phát triển nguồn nhân lực khoa học- công nghệ đông đảo,
trong đó có có nhóm chuyên gia có trình độ chuyên môn kĩ thuật tương đương với các
nước tiên tiến, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao và đề xuất những giải
pháp khoa học, công nghệ, giải quyết cơ bản về những vấn đề phát triển đất nước và
hội nhập với các xu hướng phát triển khoa học tự nhiên, xã hội và công nghệ thế giới.
Tạo nhiều việc làm đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm, tăng thu nhập cho
người lao động. Tăng cường đội ngũ công nhân lành nghề, đặc biệt là trong các ngành,
lĩnh vực mũi nhọn đáp ứng yêu cầu của xã hội và các ngành đầu tư.
Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh hệ thống quản lí kinh tế, phù hợp cơ chế quản
lý: Đào tạo đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp có
bản lĩnh, thông thạo kĩ năng quản lí.
Xây dựng và thực hiện các chính sách trọng dụng và phát huy nhân tài: Hình thành
và phát triển hệ thống tổ chức phát triển nhân tài từ khâu phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo
và phát triển nhân tài gồm các trường, lớp giáo dục năng khiếu trẻ em, phát hiện tài
năng trẻ, đào tạo đại học, trên đại học và quá trình sử dụng, đãi ngộ: chế độ trả lương,
thưởng, bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo và những chính sách khuyến khích về vật

chất và tinh thần.
Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách đặc thù để tạo môi trường làm việc,
khuyến khích, kích thích phát huy tài năng đóng góp cho công cuộc hưng thịnh đất
nước (đối với cả người Việt Nam và người nước ngoài có công với sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước Việt Nam); Xây dựng cơ sở dữ liệu về nhân tài của Việt Nam (từ
khâu phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, thăng tiến ).
2. Định hướng phát huy nhân tố con người trong những năm tới.
Trên thực trạng nguồn nhân lực và những hạn chế, định hướng nguồn nhân lực
nước ta trên lĩnh vực kinh tế trong những năm đến:
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú ý không ngừng nâng cao
chất lượng lao động tạo ra đội ngũ lao động đông đảo và lành nghề với chất lượng cao
là một trong những yếu tố đột phá chủ yếu đưa kinh tế- xã hội phát triển nhanh và bền
vững.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội; từ cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn chặt với quá
trình phát triển văn hóa xã hội của nhà nước.
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của cả hệ thống, chính
trị, tổ chức và cá nhân sản xuất kinh doanh, của mỗi gia đình, của từng tập thể và cá
nhân lao đông trên đất nước.
Phương hướng xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt
Nam là có được đội ngũ nhân lực có thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển toàn
diện về trí tuệ, ý chí, năng lực tư duy sáng tạo và đạo đức tốt; có năng lực tự học tập,
có bản lĩnh, tự tin, năng động, chủ động, sáng tạo; có tri thức và kĩ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng thích ứng với trình độ phát triển Việt Nam năm 2020 là nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt hướng tới việc đạt được
mục tiêu “Tiến tới xây dựng con người lao động có văn hóa, có tri thức, am hiểu và
chấp hành pháp luật, có năng lực chuyên môn, có tay nghề vững, có sức khỏe, cần cù
chịu khó, có ý thức tự lực vươn lên làm giàu chính đáng, có tinh thần đoàn kết, cống
hiến, năng động, nhạy bén, thông minh, sáng tạo”.
VII. KẾT LUẬN.

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự phát triển và hưng thịnh của một đất nước.
Đặc biệt đội ngũ nguồn nhân lực cao, tập trung những người tinh tú nhất của nhóm
nguồn nhân lực bao giờ cũng là hạt nhân quyết định. Mỗi quốc gia đều phải có chính
sách ưu tiên trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt
trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế như hiện nay. Việt Nam cũng vậy phải
nhanh chóng xây dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực có đủ năng lực giải quyết
các vấn đề phát triển của đất nước trong bối cảnh cần phải đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.
Yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trước hết
là tôn trọng con người, tôn trọng cá nhân. Tiếp đó là người lao động cần được tạo điều
kiện, môi trường phát triển. Thứ ba là biết trọng dụng nhân tài. Thứ tư là tôn trọng
nguyên tắc lợi ích. Yếu tố “môi trường phát triển” phải luôn được nhấn mạnh (Thực tế
có rất nhiều người trẻ tài cao, năng động nhưng chưa được tạo điều kiện để phát huy,
hoặc chưa được đánh giá đúng tiềm năng)
Bất cứ một sự phát triển nào đó cũng đều phải có một động lực thúc đẩy, phát
triển kinh tế -xã hội đều dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực. Song chỉ
có con người mới tạo ra động học cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát
huy tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Do vậy trong bất kỳ một xã
hội nào, một đất nước nào vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò cực
kỳ quan trọng. Đặc biệt ở nước ta vấn đề này lại được coi trọng hơn bao giờ hết. Con
người Việt Nam đã làm được những điều kỳ diệu trong lịch sử và con người Việt Nam
chắc chắn sẽ làm được những điều kỳ diệu như thế trong tương lai, trong sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

×