Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

cấu trúc xã hội của xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.35 KB, 8 trang )

Website: Ema il :
Cấu trúc xã hội của xã hội học
Nội Dung
Công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển kinh tế xã hội đất nước ta theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với các
nhận thức các và giả quyết các vấn đề về xã hội, về nhân tố con người và đặc biệt là
về mối quan hệ giữa con người và xã hội. Xã hội học được xây dựng trên cơ sở các
tiền đề khoa học về đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, được
nghiệm chứng trong hoạt động thực tiễn nhằm phục vụ đời sống xã hội của con
người. Để có những tìm hiểu đầy đủ về xã hội chúng ta cần tìm hiểu một cách
nghiêm túc và sâu sắc về cấu trúc xã hội.
Khái niệm cấu trúc xã hội được nhắc đến nhiều trong trường phái xã hội học
Bungari. Theo đó thì xã hội là một hệ thống cực kì phức tạp gồm có nhiều hệ thống
nhỏ khác nhau. Mỗi hệ thống nhỏ này lại có cấu trúc riêng, gồm những thành phần
tác động lẫn nhau một cách đặc thù. Được xem xét như một hệ thống hoàn chỉnh
hữu cơ và tự phát triển (nhờ các mâu thuẫn nội tại của nó), xã hội là một cấu trúc
rất sâu mà sự hoạt động và sự phát triển của cấu trúc này chứa đựng những điều
kiện cần thiết cho sự tồn tại của hệ thống xã hội, cấu trúc đó là cấu trúc xã hội của
xã hội học.
Nói đến cấu trúc là nói đến tính hệ thống của một chỉnh thể, là mối liên kết
của các bộ phận cấu thành nên một hệ thống. Cấu trúc xã hội còn gọi là cơ cấu xã
hội là kiểu cách, là khuôn mẫu, là hình thái của mối quan hệ giữa con người và xã
hội.
Cấu trúc xã hội học là mặt cắt ngang của hệ thống xã hội, là một cấu trúc
nhiều chiều và nhiều khía cạnh.
Khía cạnh thứ nhất của cấu trúc xã hội học nhiều chiều có liên quan đến một
số hoạt động mà qua đó, xã hội có thể phát triển và tồn tại; đó là các hoạt động:
1
Website: Ema il :
Sản xuất vật chất; Sản xuất phi vật chất (khoa học, nghệ thuật, vv.); Lao động tái
sản xuất xã hội - sản sinh ra con người; Hoạt động quản lí xã hội và quản lí các


nhóm người khác; Hoạt động giao tiếp của con người tức là sự phân công lao động
xã hội học, và các chức năng quan trọng nhất của con người. Đồng thời, khía cạnh
này còn bao hàm cả các hoạt động liên quan đến sự tái tạo môi trường sinh thái
của con người, là những hoạt động cần thiết cho sự sống còn cho chính sự tồn tại
của xã hội loài người. Khía cạnh thứ hai là hoạt động của con người được thực
hiện trong khuôn khổ các quan hệ xã hội nhất định và thông qua các thiết chế nhất
định (tổ chức và các hình thức cộng đồng). Khía cạnh thứ ba là sự phân biệt các
kiểu hoạt động cơ bản và các quan hệ, các thiết chế tương ứng với chúng. Do đó,
cơ sở cho sự hình thành phạm trù cơ cấu xã hội học là một tiêu chuẩn ba thành
phần hoạt động (lao động, quan hệ xã hội và thiết chế xã hội). Cấu trúc xã hội học
là sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực cơ bản của xã hội (các thành phần cơ bản
của hệ thống xã hội) đã hình thành trên cơ sở các kiểu hoạt động cơ bản - thống
nhất với các quan hệ và thiết chế tương ứng.
Trong lịch sử xã hội học có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc xã hội
(social structure). Hiểu một cách bao quát nhất ta có thể hình dung cấu trúc xã hội
là một khái niệm rộng không chỉ liên quan tới hành vi xã hội mà còn là mối tương
tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống xã hội. Cấu trúc xã hội cũng bao gồm
cả các thiết chế gia đình, dòng họ, tôn giáo, kinh tế, chính trị, văn hoá, hệ thống
chuẩn mực giá trị, cũng như hệ thống các vị trí, vai trò xã hội…
Khái niệm cấu trúc xã hội lên quan mật thiết với khái niệm hệ thống xã hội
(social system). Khái niệm thứ nhất là bộ phận của khái niệm thứ hai. Hệ thống xã
hội bao gồm hai thành tố. Thứ nhất là thành phần xã hội gồm tập hợp các yếu tố tạo
thành một cấu trúc nhất định. Thứ hai là mối liên hệ xã hội gồm tất cả những mối
liện hệ giữa các yếu tố xã hội.
Khi nói đến cấu trúc xã hội cần quan tâm đến những khía cạnh sau: xã hội là
một tổ chức phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã
2
Website: Ema il :
hội. Cấu trúc xã hội có mối liên hệ chặt chẽ, hữu cơ với các quan hệ xã hội. Quan
hệ xã hội là hình thức vận động của cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội là nội dung có

tính chất bản thể luận của các quan hệ xã hội, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
của các quan hệ xã hội.
Các nhà xã hội học vĩ mô rất quan tâm tới cấu trúc xã hội. Họ nghiên cứu
cấu trúc và mối liên hệ giữa cấu trúc xã hội và hệ thống xã hội.
Để có thể tìm hiểu, phân tích sâu về cấu trúc xã hội thì trước hết ta cần phải
hiểu xã hội là gì? Trên thực tế, ta sử dụng khái niệm “xã hội” rất nhiều. Bản chất
của khái niệm này liên quan đến lãnh thổ, tái sản xuất dân cư, di cư và liên quan tới
cả hệ thống pháp luật, văn hóa, bản sắc dân tộc…
“Xã hội” là một khái niệm rộng lớn, bao gồm nhiều loại hình xã hội khác
nhau phù hợp với từng thời kỳ phát triển của con người. Ví dụ như: xã hội săn bắn,
xã hội làm vườn, xã hội nông nghiệp, xã hội công nghiệp… Về mặt thiết chế xã
hội, qua việc xem xét nhiều xã hội, cả xã hội sơ khai và xã hội hiện đại, các nhà xã
hội đã đi đến quyết định sau: Ít nhất có 5 thiết chế xã hội cơ bản tồn tại trong tất cả
các xã hội. Đó là: gia đình, kinh tế, tôn giáo, chính trị và giáo dục.
Để hình thành nên một cấu trúc xã hội ta phải hội tụ được đầy đủ những yếu
tố chủ yếu sau: địa vị xã hội – để chỉ một vị trí trong nhóm hoặc một xã hội; các vai
trò xã hội – động lực để đưa những địa vị xã hội vào cuộc sống; các nhóm xã hội –
bao gồm hai hay nhiều hơn hai người cùng chia sẻ một tình cảm, ý nghĩa thống
nhất và là người giới hạn trong những mẫu hình tương đối bền vững của những
tương tác xã hội; cách mạng lưới xã hội – bao gồm toàn bộ các mạng lưới của
những quan hệ của một cá nhân và các thành viên của nhóm và các thiết chế xã hội
– một mẫu hình tương đối bền vững của các vai trò, các nhóm, các tổ chức, các tập
quán và các hành động nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Do tầm quan trọng của khái niệm cấu trúc xã hội, nên cấu trúc xã hội luôn là
khái niệm trung tâm của nhiều lý thuyết xã hội học. Trong số đó có: Lý thuyết cấu
trúc – chức năng và thuyết chức năng. Ngoài ra còn có nhiều quan điểm lý luận
3
Website: Ema il :
khác sử dụng khái niệm cấu trúc xã hội như một công cụ lý luận cơ bản. Cấu trúc
không phải thuộc phạm vi thực tại kinh nghiệm luận. Nó không phải là một cái gì

mà người ta quan sát mà nó là một cái mà người ta kiến tạo nên xã hội vật chất và
xã hội phi vật chất. Chẳng hạn, di cư và tích tụ dân cư, đô thị hóa và công nghiệp
hóa đã làm tăng mật độ tiếp xúc, quan hệ và tương tác giữa những cá nhân, nhóm
và tổ chức trong xã hội. Mật độ tiếp xúc đó làm tăng mức độ cạnh tranh trong xã
hội buộc các cá nhân phải tiếp xúc, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau.
Các cơ cấu xã hội luôn gắn liền với các quan hệ xã hội và là biểu hiện trực
tiếp của các quan hệ xã hội. Ngoài ra, cấu trúc xã hội còn được hiểu theo từng mặt
của cấu trúc tổng thể như cấu trúc xã hội – giai cấp, cấu trúc xã hội – dân cư, cấu
trúc xã hội – học vấn…. Mỗi nghĩa hẹp của cấu trúc này được biểu hiện và được
xem xét như một phân hệ thống (tiểu hệ thống) với tính chỉnh thể của nó. Việc
phân chia cấu trúc xã hội theo mối quan hệ xã hội khác nhau cho thấy những cấu
trúc xã hội theo những bình diện không giống nhau. Đây là lý do khiến ta có thể
xem xét cấu trúc xã hội theo những lát cắt đa dạng, tùy thuộc theo quan niệm và
mục tiêu của người nghiên cứu. Nhìn chung, khi nói đến cấu trúc xã hội cơ bản,
người ta có thể kể ra một số cấu trúc xã hội tiêu biểu. Đó là cấu trúc xã hội – dân
số, cấu trúc dân số lứa tuổi, cấu trúc xã hội – lãnh thổ, cấu trúc học vấn – nghề
nghiệp, và cấu trúc xã hội – giai cấp…Cụ thể:
1 – Cấu trúc xã hội – dân số: Việc xem xét cấu trúc xã hội – dân số trước hết
là tìm hiểu quá trình tái sản xuất dân cư( sinh sản, tử vong), mật độ dân số và cơ
cấu dân cư, sự di dân…Sự phát triển của bản thân xã hội và quá trình tác động qua
lại giữa xã hội và tự nhiên đều phụ thuộc vào tính chất vận hành của hệ thống dân
số.Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra ba kiểu tái sản xuất dân cư đó là: kiểu cổ đại
(diễn ra trong thời kì chưa có giai cấp, với đặc trưng là chế độ đa thê, mẫu hệ); kiểu
truyền thống (tồn tại trong xã hội nông nghiệp và trong thời kì chủ nghĩa tư bản cổ
điển, đặc trưng là theo chế độ phụ hệ); kiểu hiện đại ( xuất hiện do sự phá vỡ phong
cách truyền thống của đời sống xã hội và sự thừa nhận quyền tự do cá nhân trong
4
Website: Ema il :
các lĩnh vự của đời sống xã hội, trong đó có đời sống gia đình và sinh hoạt xã hội
nhằm tái sinh ra các thệ hệ theo nguyên tắc hợp lí).

2 –Cấu trúc dân số theo lứa tuổi: Sự phân bố dân số theo từng nhóm lứa tuổi
nhằm nghiên cứu các quá trình dân số và xã hội – kinh tế. Qua tương quan của các
nhóm lứa tuổi, cơ cấu lứa tuổi dân cư chúng ta có thể so sánh các nhóm tuổi ấy
trong mối liên hệ với những đặc trưng dân số, xã hội và kinh tế của dân cư, từ đó
rút ra cái chung và cái đặc thù trong sự phát triển của chúng. Cấu trúc dân số-lứa
tuổi được xem xét ở 3 trạng thái: Tĩnh(ở một thời điểm nhất định); Động( sự phát
triển qua những thời kì khác nhau); Trong những liên hệ với các qua trình xã hội-
kinh tế.
3 – Cấu trúc xã hội – lãnh thổ: cơ cấu này gắn liền với sự phân chia lãnh thổ ,
với địa bàn cư trú của dân cư các cộng đồng dân tộc…Mặt khác có thể phân chia
theo tiêu chí vùng, miền, mà mỗi vùng, miền này đều bao chứa cả nông thôn lẫn đô
thị.
4 –Cấu trúc xã hội - học vấn, nghề nghiệp: Nghiên cứu các cơ cấu này giúp
ta hiểu được trình độ học vấn của dân cư, sự phân công lao động và hợp tác lao
động trong xã hội ở mỗi thời điểm cụ thể. Do đó ta hiểu được những đường nét cơ
bản trong trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Tiêu chí học vấn nghề
nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và trong
quá trình phân hoá xã hội.
5 – Cấu trúc xã hội – giai cấp: Cấu trúc xã hội giai cấp đóng vai trò quan
trọng nhất trong cấu trúc xã hội. Những yếu tố của cấu trúc không chỉ có tính giai
cấp mà còn là những tập đoàn và các tầng lớp xã hội. Sự phân chia cấu trúc xã hội
– giai cấp tuỳ thuộc vào mỗi chế độ xã hội. Ví dụ trong xã hội tư sản có 2 giai cấp
chính là giai cấp tư sản và công nhân. Bên cạnh đó có tầng lớp trung gian. Còn
dưới chế độ chủ nghĩa, cấu trúc xã hội gồm có giai cấp công nhân, nông dân, tầng
lớp trí thức, viên chức. Cấu trúc giai cấp có thể coi là hạt nhân của cơ cấu xã hội và
sự biến đổi của nó tạo nên sự biến đổi của cấu trúc xã hội.
5
Website: Ema il :
Ngoài ra còn có những cấu trúc xã hội cơ bản trên còn có những cấu trúc
khác như: cấu trúc xã hội – sắc tộc, cấu trúc xã hội – tôn giáo, cấu trúc xã hội – thu

nhập…
Bên cạnh đó, cấu trúc xã hội còn được thể hiện ở những lát cắt khác nhau đó
là: bất bình đẳng, phân tầng xã hội và giai cấp xã hội.
Bất bình đẳng là sự không bình đẳng về các cơ hội và lợi ích đối với những
cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội. Nó không phải
là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong xã hội. Xã
hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm sóat và khai thác các nhóm xã
hội khác. Qua những xã hội khác nhay tồn tạin hững hệt hống bất bình đẳng khác
nhau. Là một vấn đề trung tâm của xã hội học, bất bình đẳng có ý nghĩa quyết định
đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội. Xã hội học muốn phát hiện, khám phá
nguồn gốc của bình đẳng trong văn hóa và cấu trúc xã hội của bản thân các xã hội.
Mặc dùhọ không nhận thây rằng có những khác biệt bẩm sinh trong những cá nhân
hoặc những khác biệt trong quá trình phát triển cá nhân tạo nên bất bình đẳng, song
các nhà xã hội học tin rằng văn hóa và cấu trúc xã hội là yếu tố chủ yếu của những
bất bình đẳng xã hội giữa các cá nhân.
Nói đến bất bình đẳng xã hội cần phải nhắc đến hai nhà xã hội học bậc thầy
là Marx và Weber. Học thuyết của Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học
thuyết kinh tế mà ông coi là nên tảng của cấu trúc giai cấp. Còn Weber thì không
coi mọi cấu trúc xã hội đều bất bình đẳng như trong một xã hội có giai cấp.
Phân tầng xã hội có nghĩa là phân chia thành từng lớp. Đây là một trog
những khái niệm cơ bản của xã hội học. Nó mô tả được trạng thái nhiều tầng lớp cả
xã hội trong điều kiện thời gian và không gian nhất định.
Giai cấp xã hội là khái niệm dùng để chỉ một nhóm xã hội mà các thành viên
có vị trí tương đương nhau trong một cấu trúc bất bình đẳng khách quan về vật chất
do một hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ
thể tạo ra”.
6
Website: Ema il :
Di động xã hội còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội là khái
niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia đình, nhóm xã

hội trong cấu trúc xã hội và hệ thống xã hội. Thực chất nó là sự thay đổi vị trí trong
hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các cá nhân
giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan và ảnh hưởng tới những sự biến đổi của xã hội.
Qua những tìm hiểu trên chúng ta có thể thấy được cấu trúc khoa học của xã
hội học. Đây là kết quả của cả quá trình nghiên cứu lâu dài của các nhà xã hội học.
Nó mang đến cho chúng ta những hiểu biết hoàn chỉnh hơn về xã hội. Cùng với sự
phát triển của nước ta, xã hội học đã và đang tích cực nghiên cứu và làm sáng tỏ
những vấn đề mới nảy sinh và góp phần đề ra các biện pháp thực tiễn có tính khả
thi cao. Sức sống mãnh liệt của xã hội học với tư cách là một khoa học, một ngành
đào tạo thể hiện đặc biệt rõ trong việc thực hiện cac nhiệm vụ nghiên cứu lí luận ,
thực nghiệm và ứng dụng để giải quyết các vấn dề cuộc sống.
7
Website: Ema il :
Tài liệu tham khảo
1: “Xã hội học đại cương” – Phạm Tất Dong, Nguyễn Sinh Huy và Đỗ
Nguyên Phương.
2: “ Xã hội học” – Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng ( Đồng chủ biên).
3: “Cơ sở văn hoá Việt Nam” – Trần Ngọc Thêm.
4: “Cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta” – Nhà xuất bản thông tin lý luận Hà
Nội (1992)
5: “Nhập môn xã hội học” – Nhà xuất bản khoa học xã hội. Hà Nội 1993.
Và nhiều tài liệu khác…
8

×