Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

vị trí vai trò của gia đình trong xã hội xây dựng gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.23 KB, 38 trang )

Website:

Email :
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VIII) đã đặt
vấn đề gia đình ở một tầm quan trọng trong sự nghiệp xây dựng văn
hó và phát triển về mọi mặt của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải tạo ra
đời sống lành mạnh ở các đơn vị cơ sở, đầu tiên là gia đình, giữ gìn
và phát huy những đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam, coi trọng
xây dựng gia đình văn hoá và xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa
gia đình, nhà trường và xã hội.
Gần đây, gia đình không chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng
và câp thiết của riêng Việt Nam mà còn là vấn đề đang được đặt ra
với các dân tộc trên toàn thế giới.
Loài người đã từ giã thế kỷ XX để bước vào thế kỷ XXI. Vấn đề
gia đình ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp. ở mọi
nơi, mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của nó. Nó có thể xây
dựng và cũng có thể phá hoại. Nó đem lại hạnh phúc cho con người
và cũng như gieo rắc những điều bất hạnh. Không lúc nào bằng lúc
này, vấn đề gia đình được đặt ra với một ý nghĩa phổ quát ở cả
phương Đông và phương Tây. Nó không chỉ mang tính cấp thiết của
hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp phần quyết định đối với
tương lai.
Lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hóa của các dân tộc đều gắn
liền với những biến đổi sâu sắc của gia dình, đều chịu sự tác động
kìm hãm hay thúc đẩy, tiến bộ hay bảo thủ của gia đình.
Việt Nam là một nước chậm tiến đang đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hóa với đầy rẫy những khó khăn. Tuy nhiên Việt Nam cũng
có những thuận lợi to lớn là với sự nỗ lực và sáng tạo, Việt Nam có
thể tránh được những sai lầm của người đi trước và xử lý vấn đề gia


đình một cách khoa học, hợp lý, phát huy được truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, gạt bỏ được những nhân tố lạc hậu để gia đình Việt Nam
trở thành nhân tố tích cực cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa vừa thể
hiện bản sắc văn hoá của dân tộc, vừa phù hợp với xu hướng tiến bộ
của nhân loại.
Gia đình Việt Nam là một vấn đề khoa học. Bước đầu chỉ nên
tập trung vào một số vấn đề cơ bản và cấp thiết chung quanh mối
quan hệ giữa gia đình và văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đề tài gia đình từ xưa đến nay không phải là một vấn đề mới
mẻ, nó đã thu hút được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
dưới nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn: xã hội học quan tâm đến
gia đình như một thiết chế xã hôị, một nhóm tâm lý xã hội đặc thù,
kinh tế học quan tâm đến gia đình như một đơn vị kinh tế, đơn vị tiêu
dùng, dân số học lại quan tâm đến gia đình trong việc tái sản xuất ra
con người.
Đề cấp đến vấn đề gia đình này, có rất nhiều tác phẩm đáng lưu
ý là các tác phẩm sau:
- “Gia đình Việt Nam hiện nay” - Lê Thi.
-“Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội học” - Lê Ngọc
Văn.
- “Mác-Ăngghen tuyển tập”.
- “Lênin toàn tập”.
- “Luật hôn nhân gia đình”.
- “Văn kiện đại hội V”.
Các tác phẩm cũng như văn kiện trên đã đề cập đến vấn đề gia
đình ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Trong giới hạn phạm vi
2
cho phép bài viết này đi sâu vào vị trí và chức nang của gia đình
trong xã hội, từ đó đưa ra các giải pháp xây dựng gia đình ngày nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bài viết này nhằm làm sáng rõ vị trí và chức năgn vô
cùng quan trọng của gia đình trong xã hội, để từ đó xác định được
mục tiêu và đề ra được các giải pháp xây dựng gia đình. Thực hiện
được điều đó là góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong việc
bồi dưỡng tài năng cho đất nước, gây dựng đội ngũ lao động có nhân
cách, có trí tuệ… từ đó hướng đất nước đến gần nhất mục tiêu của
mình.
Nhiệm vụ: Từ mục đích nghiên cứu đề tài như trên đưa đến
những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm sáng rõ khái niệm gia đình.
- Thấy được mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
- Tìm hiểu các hình thức gia đình trong lịch sử.
- Nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa gia đình và xã hội.
- Chỉ rõ chức năng của gia đình đối với xã hội.
- Tìm hiểu thực trạng xã hội Việt Nam truyền thống hiện đại, từ
đó đề ra các mục tiêu, giải pháp xây dựng gia đình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng: Vị trí và chức năng của gia đình trong xã hội.
Xây dựng gia đình Việt Nam ngày nay.
Phạm vi: Chỉ nghiên cứu gia đình Việt Nam hiện nay mà thôi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này dựa trên cơ sở lí luận sự kết hợp giữa lí luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình.
3
Trong bài viết này, tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp quy nạp
- diễn dịch, tổng hợp những tài liệu đã đọc cùng với phương pháp
logic - lịch sử, phương pháp luận macxit.
6. Kết cấu bài viết bao gồm các phần sau

A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung chính: gồm có 2 chương.
Chương 1: Gia đình và các hình thức gia đình trong
lịch sử.
Chương 2: Xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
C. Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
4
CHƯƠNG I: VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1. Gia đình và các hình thức gia đình trong lịch sử
1.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình - hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi
người từ khi ta còn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người được sinh ra và
lớn lên, có tác động to lớn đến sự hình thành nhân cách của cá nhân
cũng như sự phát triển của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về gia đình. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý một số
định nghĩa sau về gia đình.
a. Khi đề cập đến vấn đề gia đình, C.Mác cho rằng “Quan hệ
thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử là hàng
ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra
những người khác, sinh sôi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng - vợ,
cha mẹ và con cái, đó là gia đình”.
Như vậy, gia đình là một cộng đồng xã hội có quan hệ gắn bó
về hôn nhân và huyết thống.
b. Theo Liên hợp Quốc thì gia đình là một đơn vị được quy định
thông qua mối liên hệ của các cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ
sau ở mức độ mà những mối liên hệ này đựơc những quy phạm và thủ
tục pháp lý phê chuẩn.

Như vậy trong định nghĩa về gia đình của Liên hợp quốc có
thêm vấn đề pháp lý, ở đây, gia đình được Nhà nước bảo hộ. Đó là
một cơ sở quy phạm pháp luật của Liên hợp quốc. Gia đình là một
nhóm người có quan hệ họ hàng, có cuộc sống chung, có ngân sách
chung.
5
c. Nhà Tâm lý học Ngô Công Hoàng khi bàn đến vấn đề gia
đình thì cho rằng gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó
về hôn nhân và huyết thống, tâm sinh lí, có chung gia đình vật chất và
tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử”.
So với hai định nghĩa trên thì định nghĩa thứ ba này có thêm
khía cạnh về mối quan hệ kinh tế (vật chất) và tình cảm (tinh thần)
giữa các thành viên trong gia đình.
Tóm lại, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau về
hôn nhân và huyết thống đồng thời có sự cố kết nhất định về kinh tế -
vật chất, qua đó nảy sinh những nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành
viên của mình.
1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong gia đình có hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân
và quan hệ huyết thống. Hai mối quan hệ này được cụ thể hoá là mối
quan hệ giữa vợ và chồng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ cơ bản có tác
động đến nhiều mối quan hệ khác trong gia đình, Vì gia đình hạnh
phúc khi duy trì được tình yêu trong hôn nhân. Quan hệ vợ chồng
phải dựa trên tình nghĩa sự chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm
sóc, giúp đỡ nhau và cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc.
Bên cạnh mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái. Đây là mối quan hệ bình đẳng và nề nếp. Cha mẹ
và con cái cùng thương yêu và chia sẻ với nhau để làm tốt công việc
gia đình và xã hội.

Ngoài ra, gia đình còn bao gồm nhiều mối quan hệ khác như
quan hệ giữa ông bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô
dì chú bác với nhau.
6
Có thể nói mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều
được bắt nguồn từ quan hệ hôn nhân và huyết thống. Đây là thứ tình
cảm thiêng liêng và cao cả mà không một cộng đồng xã hội nào thay
thế được. Đây là mối quan hệ bền vững, lâu dài, không thể phá vỡ của
cả đời người .
1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử.
Gia đình là sản phẩm của xã hội. Cùng với sự vận động và phát
triển của xã hội, gia đình cũng có những bộ mặt tương xứng. Trong
lịch sử xã hội loài người đã xuất hiện nhiều hình thức gia đình khác
nhau.
Đầu tiên là những gia đình tập thể, gia đình huyết tộc, gia đình
punaluan, gia đình cặp đôi. Những kiểu gia đình tập thể này đều xuất
hiện ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, khi con người vẫn còn đang ở
vào thời đại mông muội. Ba gia đình này vẫn thuộc chế độ mẫu hệ và
mẫu quyền, và vẫn phụ thuộc vào tự nhiên.
Sang chế độ chiếm hữu nô lệ, người đàn ông càng giữ vai trò
quan trọng trong lao động, từ đó sinh ra chế độ phụ quyền. Gia đình
một vợ - một chồng trở thành một đặc trưng, một hình thức phát triển
tiến bộ nhất trong lịch sử. Sự ra đời của nó gắn liền với sự nô dịch
của người đàn ông đối với người đàn bà.
Tuy nhiên, gia đình một vợ - một chồng trong chế độ tư hữu chỉ
mang tính tương đối mà thôi. Nó luôn đi kèm với tệ ngoại tình và mãi
dâm.
Phải đến chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội thì gia đình một vợ -
một chồng mới thực sự trọn vẹn. Đây là gia đình mới trong thời đại
mới. Nó có mầm mống từ gia đình ở xã hội tư bản chủ nghĩa. Gia

đình mới trong xã hội chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ tình yêu thương
7
chứ không có sự thống trị và áp đặt của người đàn ông với người đàn
bà. Đồng thời tệ ngoại tình và mãi dâm cũng bị loại bỏ.
2. Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội.
2.1. Gia đình là tế bào của xã hội.
Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quan trọng trong lịch sử là
sản xuất. Nhưng bản thân sự sản xuất lại có hai loại. Một loại là sản
xuất ra vật chất nuôi sống con người, bao gồm tư liệu sinh hoạt, quần
áo, nhà cửa, thức ăn. Loại thứ hai là sản xuất ra con người để tiếp tục
duy trì nòi giống.
Gia đình là một tổ chức xã hội tham gia vào cả hai quá trình sản
xuất đó. Không có gia đình thì xã hội không thể tồn tại và phát triển
được. Như vậy, gia đình là một trong những nhân tố tác động tích cực
đến sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Ngoài gia đình thì còn có rất nhiều bộ phận khác ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của xã hội như dân tộc, giai cấp, giới tính, nhà
nước, ngành, đoàn thể… Cho nên, với tư cách là tế bào cùa xã hội thì
gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thể chế xã hội nhỏ nhất. Cơ chế
xã hội này rất đa dạng và phong phú vì trong quá trình vận động, nó
vừa tuân thủ những quy luật chung của xã hội, vừa tuân theo những
quy định và tổ chức riêng của mình.
Vì vậy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh, thì phải quan
tâm xây dựng tế bào gia đình tốt. Đây là một vấn đề hết sức quan
trọng được Đảng và Nhà nước ta chú ý.
2.2. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội.
Gia đình là một cộng đồng xã hội đặc biệt dựa trên mối quan hệ
cơ bản là quan hệ tình cảm. Quan hệ này bắt nguồn từ quan hệ huyết
thống ruột thịt, tình cảm thiêng liêng và trách nhiệm cao cả mà không
một cộng đồng xã hội nào có thể thay thế.

8
Tuy nhiên, giữa các thành viên trong gia đình không chỉ thuần
tuý là quan hệ tình cảm mà còn là quan hệ giữa các cá nhân trong xã
hội, giữa gia đình với xã hội.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà cá nhân sinh sống.
Ngoài quan hệ tình cảm, những quan hệ xã hội khác như sản xuất, sở
hữu, giáo dục … cũng nằm trong quan hệ gia đình. Vì vậy, gia đình
cũng đồng thời là một đơn vị kinh tế, một môi trường giáo dục, văn
hoá. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu xã
hội của mỗi cá nhân và thông qua gia đình, cá nhân cũng học và thực
hiện quan hệ xã hội.
*Bên cạnh đó, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để
xã hội tác động đến cá nhân. Có rất nhiều thông tin trong xã hội tác
động đến cá nhân. Những hiện tượng xã hội có ảnh hưởng tích cực
hoặc tiêu cực (thông qua gia đình) đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân. Sự phát triển của xã hội cũng ảnh hưởng
đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân trong gia đình. Mọi
quyền lợi xã hội của con người được thực hiện thông qua hoạt động
của các thành viên trong gia đình. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn
diện hơn khi xem xét cá nhân trong quan hệ gia đình.
2.3. Tác động của xã hội đến gia đình.
Gia đình có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ
của xã hội, và ngược lại, trình độ phát triển của xã hội quy định các
hình thức gia đình khác nhau trong lịch sử, đồng thời cũng quy định
đặc điểm các mối quan hệ gia đình. Cùng với sự vận động và phát
triển của lịch sử, hình thức và kết cấu gia đình cũng lần lượt biến đổi
tương ứng.
Ví dụ: Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất còn lạc hậu, nên chỉ tồn tại hình thức gia đình
9

tập thể . Trong gia đình này, không có sự áp bức, bấtbình đẳng giữa
các thành viên. Sang chế độ chiếm hữu nô lệ, xã hội hình thành sự
phân chia giai cấp và sự nô dịch của người đàn ông đối với người đàn
bà thì đã cho ra đời hình thức gia đình một vợ - một chồng. Trong gia
đình này, quan hệ giữa các thành viên mang tính phục tùng, bất bình
đẳng.
Gia đình chịu sự tác động quyết định của điều kiện kinh tế - xã
hội. Trong thực tế, sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội có mức
độ khác nhau đối với mỗi gia đình. Điều này dẫn tới những đặc điểm
của gia đình trong các tầng lớp, giai cấp, các nhóm xã hội có sự khác
nhau.
Tóm lại, giữa gia đình và xã hội có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, không thể tách rời. Không có gia đình thì xã hội không tồn tại
và phát triển được. Ngược lại, không có một môi trường xã hội lành
mạnh thì gia đình cũng không thể phát triển được.
3. Chức năng gia đình:
3.1. Chức năng duy trì nói giống.
Đây là chức năng đặc thù của gia đình mà không một cộng đồng
nào trong xã hội thay thế được. Gia đình có chức năng tái sản xuất
con người. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia
đình, dòng họ mà còn cung cấp lực lượng lao động mới cho xã hội.
Nó đảm bảo cho sự duy trì nòi giống và sự trường tồn của xã hội.
Việc thực hiện chức năng sinh đẻ diễn ra trong từng gia đình
nhưng lại là vấn đề được xã hội quan tâm bởi nó quyết định đến mật
độ dân số quốc gia và quốc tế. Nó có liên quan chặt chẽ đến sự phát
triển của mọi mặt đời sống xã hội. Ví dụ như dân số tăng nhanh sẽ
dẫn đến hàng loạt hậu quả là thiếu lương thực, thiếu đất ở, thất nghiệp
tăng, môi trường ô nhiễm, an ninh - chính trị không ổn đinh,…
10
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỉ lệ dân số tăng

nhanh trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế - xã hội nước ta còn
thấp. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần phải thực hiện chương
trình dân số nhằm hướng dẫn tuyên truyền, vận động về quyền sinh
sản, thực hiện kế hoạch hoá gia đình… Mục đích của việc thực hiện
kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm sức ép của dân số đối với xã hội và
nâng cao chất lượng con người. Thực hiện kế hoạch hoá gia đình là
trách nhiệm của toàn dân đối với xã hội.
3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái là chức năng đi đôi với
chức năng duy trì nòi giống. Cha mẹ không chỉ sinh ra con cái mà còn
phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái trở thành người có ích cho xã
hội. Cha mẹ phải quan tâm, chăm lo đến việc học hành, sự phát triển
thể chất, trí tuệ và đạo đức của con cái.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà cá nhân sinh sống.
Ngay từ khi sinh ra, con cái đã chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ
và người thân. Những hiểu biết đầu tiên của con cái cũng được đem
lại từ gia đình. Bởi vậy, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục con cái là
chức năng thường xuyên của gia đình, có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống, đạo đức của
mỗi người.
Đối với chức năng này, vai trò của cha mẹ đối với con cái trong
việc giáo dục con cái là hết sức quan trọng. Cha mẹ giáo dục con cái
về mọi mặt từ nội dung đến hình thức. Nội dung giáo dục trong gia
đình mang tính đa dạng, toàn diện. Từ giáo dục về cách ứng xử hàng
ngày với ông bà, cha mẹ, anh em, láng giềng… đến những việc nhân
nghĩa, tình yêu quê hương, đất nước… hay đó là những bài học về
giới tính, lứa tuổi, công việc… Đồng thời, hình thức giáo dục của cha
11
mẹ không chỉ bằng lời nói, thái độ, tình cảm mà cha mẹ phải nêu
gương trước, phải trở thành tấm gương mẫu mực cho con cái noi theo.

Bên cạnh gia đình, nhà trường, xã hội và các tổ chức quần
chúng có sự phối hợp, hỗ trợ trong việc giáo dục con người, nhưng
không thể thay thế được. Bởi vậy, sai lầm nhỏ trong việc giáo dục của
cha mẹ đối với con cái cũng có thể gây nên hậu quả đáng tiếc.
Hiện nay, việc con cái yêu sớm rồi nạo hút thai ngoài ý muốn
đang gióng lên hồi chuông báo động không chỉ cho các bậc cha mẹ
mà cho cả xã hội. Nhiều người có con cái lâm vào tình trạng này đều
đổ lỗi cho xã hội. Nhưng nếu xét kĩ thì nguyên nhân chính dẫn đến
việc trẻ em vị thành niên yêu sớm, và quan hệ tình dục dẫn đến nạo
hút thai vẫn thuộc về các bậc làm cha làm mẹ nhiều nhất. Vẫn còn đa
số các bậc cha mẹ không quan tâm đến các mối quan hệ của con cái
ngoài việc học hành của chúng. Đó là chưa kể đến các bậc phụ huynh
mải lo buôn bán làm ăn, khoán trắng việc học hành cũng như tâm tư
tình cảm của con mình cho người giúp việc, gia sư, nhà trường… Phải
chăng, chính từ suy nghĩ và quan niệm như trên mà các bậc phụ
huynh đã vô tình cho con mình vào con đường tình ái sớm, để lại hậu
quả đáng tiếc cho các em và nỗi hận day dứt cho chính mình.
3.3. Chức năng kinh tế.
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhân tố quyết định
trong lịch sử là sản xuất. Bản thân sản xuất lại có hai loại: sản xuất ra
con người và sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Bên cạnh việc sản xuất ra
con người (chức năng duy trì nòi giống) gia đình còn tham gia vào
quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Đây chính là chức năng kinh tế
của gia đình.
Với chức năng này, gia đình huy động mọi tiềm năng về sức lao
động, vốn, tay nghề của nguồn lao động mà gia đình cung cấp cho xã
12
hội. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia vào các hoạt
động kinh tế phù hợp với từng lứa tuổi, giới tính, trình độ…
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia

đình cũng phát triển khá đa dạng, phong phú. Nó thực hiện dưới nhiều
dạng khác nhau như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… trên mọi lĩnh
vực ngành nghề khác nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống,
đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia
đình, đồng thời đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Từ khi chế độ tư hữu ra đời thì người đàn ông chiếm vị trí quan
trọng hơn so với người phụ nữ trong lao động. Điều này dẫn đến tình
trạng bất bình đẳng trong xã hội như quan niệm: “trọng nam khinh
nữ”… Xã hội càng tiến lên, càng phải vật lộn với cuộc sống. Chẳng
những người đàn ông mà người phụ nữ cũng phải có tài.
Ngày nay, phụ nữ đã và đang chứng tỏ được vai trò của mình
trong gia đình với việc thực hiện chức năng kinh tế. Giờ đây, phụ nữ
làm giàu còn giỏi hơn đàn ông. Theo kết quả điều tra của các nhà
nghiên cứu Anh, số lượng những phụ nữ giàu có tăng lên rõ rệt. Điều
đó khiến chỉ riêng ở Anh đã có tới 360 nghìn nữ triệu phú. Đương
nhiên, nó có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân chủ yếu là do các phụ
nữ trẻ tháo vát và mạnh dan hơn nam giới trong các vấn đề tài chính,
họ tiết kiệm hơn và tính toán hiệu quả hơn, biết tận dụng mọi khả
năng của họ tốt hơn nam giới. Phần lớn, những phụ nữ kinh doanh
thành đạt thường có gia đình êm ấm, hạnh phúc, hơn nữa người chồng
thường hỗ trợ cho vợ bằng cách tự nguyện đảm nhận phần chủ yếu
công việc nội trợ. Thế mới biết “thành công trong kinh doanh không
phụ thuộc vào giới tính, miễn là bạn có sản phẩm tốt và những kỹ
năng cần thiết”.
13
3.4. Chức năng tổ chức đời sống.
Đây cũng là chức năng thường xuyên của gia đình. Việc tổ chức
đời sống là việc sử lý hợp lý các khoản thu nhập, đóng góp của các
thành viên trong gia đình nhằm đảm bảo nhu cầu vật chất và tinh thần

của các thành viên, đồng thời tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh
trong gia đình, nhằm nâng cao sức khoẻ, tình cảm, trách nhiệm giữa
các thành viên trong gia đình.
Chức năng tổ chức đời sống, là công việc của mọi thành viên
trong gia đình. Nó có tính đa chiều: các thành viên có ảnh hưởng qua
lại lẫn nhau. Cha mẹ, ông bà có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
con cái, cháu chắt. Ngược lại, con cái có bổn phận kính trọng, hiếu
thảo và phụng dưỡng ông bà, cha mẹ.
Trong chức năng tổ chức đời sống gia đình, vị trí, vai trò của
người phụ nữ càng nổi lên rõ rệt, thể hiện qua cách cư xử thường
nhật: từ chuyện nội trợ đến vai trò, trách nhiệm làm tròn đến đâu với
con cái, với cha mẹ hai bên, với họ hàng làng xóm…
Công việc nội trợ là công việc rất quan trọng. Người phụ nữ
phải biết “giữ” chồng con qua bếp lửa ấm. Còn gì hạnh phúc hơn sau
một ngày làm việc mệt mỏi, cả gia đình được sum vầy, ấm cúng bên
nhau. Công việc nội trợ vừa gắn kết tình cảm các thành viên với nhau,
vừa nhanh chóng tái tạo sức lao động, bồi dưỡng trí lực, thể lực của
mọi thành viên trong gia đình…
Như vậy, để có hoà khí êm ấm của gia đình hạnh phúc là cả mồ
hôi, công sức, đôi khi cả xương máu của người chồng, người vợ và
các đứa con - những thành viên luôn khao khát một tổ ấm sum vầy.
Dù thế, cuộc sống vẫn như một dòng chảy bất tận, và trong dòng chảy
của sinh sôi phát triển, con người luôn truyền giữ nhu cầu xây đắp
14
hạnh phúc dài lâu. Hơn lúc nào hết, mỗi người chúng ta cần ý thức
gia đình là vấn đề toàn cầu.
Tóm lại gia đình là đặc ân của con người, gia đình luôn đòi hỏi
tình yêu thương, ý thức vun đắp dựng xây của mỗi thành viên, qua đó
các chức năng cơ bản của gia đình được bộc lộ. Các chức năng của
giáo dục không tách rời nhau mà chúng có quan hệ chặt chẽ với

nhau, bổ sung cho nhau. Mỗi một chức năng là một đặc thù của gia
đình mà không một cộng đồng xã hội nào có thể thay thế được. Đặc
biệt, phải chú trọng đến vai trò người phụ nữ trong gia đình bởi đấy
chính là thiên chức của người phụ nữ.
Kết quả từ các cuộc thăm dò xã hội cho thấy, tỉ lệ phụ nữ mong
ước và đạt kế hoạch cụ thể phấn đấu cho mẫu hình gia đình hạnh phúc
thương cao hơn so với nam giới. Như vậy, không nên hiểu nhầm nam
giới có ý thức gia đình kém hơn nữ giới. Chẳng qua, thiên chức bẩm
sinh của phái mạnh thường hướng về sự nghiệp. Phái yếu thường đề
cao vai trò và ý nghĩa của gia đình hơn.
Chính vì vậy, quan tâm đến việc xây dựng gia đình tốt là quan
tâm đến người phụ nữ, tạo điều kiện cho họ vừa tham gia các hoạt
động xã hội, vừa làm tốt vai trò người vợ, người mẹ trong gia đình,
xứng đáng là người phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
15
CHƯƠNG II: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay.
Gia đình có ảnh hưởng quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Ngược lại, gia đình cũng chịu tác động của các điều kiện
kinh tế - xã hội . Trình độ phát triển của xã hội quy định các hình
thức gia đình và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình .
Nước ta hiện nay đang ở chặng đường đầu tiên của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện được nhiều chiến lược
đổi mới toàn diện. Đặc biệt nền kinh tế chuyển từ tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự phát triển của kinh
tế, gia đình Việt Nam đã có sự đổi mới so với trước kia.
1.1. Gia đình Việt Nam trong lịch sử.
Gia đình truyền thống Việt Nam gắn với xã hội cũ: nền kinh tế
nông nghiệp, tự cung, tự cấp, xã hội chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư
tưởng Nho giáo… Do đó nó mang nặng tính chất phụ quyền và gia

trưởng: “trọng nam khinh nữ”, người đàn ông nắm quyền chỉ huy. Gia
đình được xây dựng theo kiểu tôn ti trật tự rõ ràng và mọi người đều
phải ý thức về phân vị, xử sự theo đúng thân phận của mình. Ví dụ:
người phụ nữ tề gia nội trợ, người đàn ông quyết định mọi việc trong
gia đình, tham gia vào các hoạt động của làng xóm, dòng tộc. Như
vậy, gia đình gia trưởng có nề nếp, nhưng các thành viên trong gia
đình có quan hệ bất bình đẳng với nhau (chồng - vợ, đàn ông - đàn bà,
người trên - kẻ dưới…).
Gia đình gia trưởng rất coi trọng mối quan hệ chiều dọc giữa
các thế hệ trên, dưới. Nó chi phối các mối quan hệ ngang như vợ -
chồng, mối quan hệ giữa chị - em. Dựa trên quan hệ chiều dọc mà
người trên bảo thì người dưới phải nghe. Cha mẹ có quyền quyết định
và chi phối mọi hoạt động của con cái và ngược lại, con cái phải phục
16
tùng mọi sự chỉ bảo, sai khiến của cha mẹ. Đây là nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng ép duyên: “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” tồn
tại trong xã hội cũ.
Trong khi coi tọng mối quan hệ chiều dọc, mối quan hệ theo
chiều ngang bị coi nhẹ đi: cái tôi cá nhân bị chìm ngập trong gia đình,
họ tộc.
Bên cạnh những mặt hạn chế trên, gia đình truyền thống Việt
Nam cũng có nhiều yếu tố tích cực, được lưu truyền đến tận ngày nay.
Đó là tình cảm yêu thương gắn bó lẫn nhau giữa các thành viên, đạo
vợ - chồng phải thương yêu nhau, đạo làm con phải hiếu thảo với cha
mẹ; rồi tình cảm yêu quê hương, đất nước, dân tộc, tinh thần đoàn
kết, đùm bọc, giúp đỡ nhau. Những nét đẹp truyền thống này được gìn
giữ và kế tục, góp phần tạo nên bản sắc văn hoá đậm đà của dân tộc.
Ở Việt Nam, gia đình kiểu cũ kéo dài hàng ngàn năm đã không
thể tự bảo tồn trước sự đổi thay của đất nước. Hoàn cảnh một nước
phương Đông bị phong kiến bên trong và thực dân bên ngoài áp bức,

đòi hỏi nhân dân ta phải vượt ra khỏi sự kìm hãm và ràng buộc của
gia đình cũ.
Thời cuộc quyết định thái độ của mỗi người đối với đất nước,
với nhà, với bản thân. Lợi ích của quốc tế, thắng lợi của cách mạng
Việt Nam không cho phép duy trì sự bất công trong xã hội, sự bất
bình đẳng trong gia đình. Tình cảm con người phải vượt qua cái
ngưỡng cửa gia đình để vươn tơí những tình cảm lớn hơn của tổ quốc,
không cho phép bo bo giữ lấy những gì là hẹp hòi, là thiển cận, phản
tiến bộ trong những phép nhà, phép nước của Nho giáo.
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt lớn trong lịch sử.
Cách mạng không chỉ giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thoát
khỏi xiềng xích nô lệ nói chung, mà còn giải phóng cho gia đình. Các
17
tầng lớp thanh niên và phụ nữ thoát khỏi sự coi thường và áp chế của
bậc bề trên cao tuổi và của nam giới. Cách mạng khơi dậy ở họ những
suy nghĩ mới, tình cảm mới, đem lại cho họ sức mạnh để vùng lên, để
đứng thẳng với tư thế con người.
Hai cuộc kháng chiến đã thu hút những lực lượng vật chất và
tinh thần to lớn của cả dân tộc và của mỗi gia đình. thanh niên không
còn chỉ ở trong nhà, dưới sự sắp đặt của cha mẹ, mà đã tự khẳng định
mình, đứng lên gánh vác sự mệnh thiêng liêng là bảo vệ tổ quốc và
chủ động tham gia những công việc chung. Phụ nữ không chỉ còn
quẩn quanh làm nội trợ và tham gia sản xuất vì lợi ích gia đình mà
phải đảm đang việc nước, việc nhà, cầm cày, cầm súng, không chịu
thua kém nam giới.
1.2. Gia đình Việt Nam hiện nay.
Nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Chúng ta đã từng bước thực hiện chiến lược đổi mới
toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội…. mà trọng tâm là chuyển nền
kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó

kinh tế gia đình có vị trí rất quan trọng và được Đảng và Nhà nước
khuyến khích giúp đỡ. Theo Nghị quyết của Đảng: “Phát triển kinh tế
tư nhân là chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế cách mạng chủ
nghĩa”. Gia đình trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, không còn tình
trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước như thời kinh tế bao
cấp.
Ngày xưa ở nước ta đại gia đình truyền thống với tôn ti trật tự
cũng là mẫu mực và chuẩn mực của xã hội. Dưới uy quyền của người
gia trưởng, gia đình truyền thống đã quy tụ các con cái đã có chồng,
có vợ cùng với con cháu họ. Điều được nhấn mạnh trong hoàn cảnh
gia đình này là vấn đề dòng dõi, vấn đề chuyển giao tài sản vật chất
18
và tinh thần, chuyển giao truyền thống, chuyển giao những giá trị
từng tồn tại trong quá khứ.
Ngày nay thì khác, ngày nay trong gia đình thu hẹp, hai vợ
chồng cùng với con cái chỉ nghĩ đến tương lai của họ và họ tự làm ra
lịch sử của họ. Trong gia đình gọi là gia đình hạt nhân này, những
quan hệ về dòng máu, ngày càng nhường chỗ cho mối quan hệ về tình
yêu.
Gia đình truyền thống nơi chứa đựng những giá trị quá khứ của
gia đình, nơi thiêng liêng mà ở đó củng cố và tái hiện mối quan hệ
thân tộc thì đã dần dần bị chọc thủng trong mạng lưới đô thị hoá.
Với sự biến động thường xuyên của xã hội hiện đại, sự phụ
thuộc của cặp vợ chồng vào quá khứ ngày càng giảm bớt. Họ ít nghĩ
tới ngôi nhà thời thơ ấu, nơi họ đã sống với cha mẹ của họ. Ngày nay,
họ chỉ mong ước xây dựng được một ngôi nhà phù hợp với họ trong
một nơi mà họ lựa chọn lấy.
Chế độ hôn nhân ở nước ta là chế độ hôn nhân một vợ một
chồng thật sự trọn vẹn và được pháp luật ghi nhận. Vợ và chồng có
quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong đời sống xã hội.

Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như
nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác… Khác
hẳn với xã hội cũ, gia đình một vợ - một chồng chỉ là hình thức, chỉ là
một chồng đối với phụ nữ, còn đối với đàn ông là chế độ đa thê,
người vợ không có tiếng nói trong gia đình. Vì vậy, thực hiện chế độ
một vợ - một chồng là thực hiện giải phóng phụ nữ.
Hiện nay, các gia đình vẫn phát huy được truyền thống yêu
nước. Họ coi bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng. Họ đã động
viên con em mình thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự. Còn trong lao động
các gia đình hăng say lao động, sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật.
19
Thực hiện đầy đủ bổn phận và trách nhiệm với Nhà nước … Nhìn
chung các gia đình luôn luôn có ý thức bảo vệ tài sản Nhà nước, tuân
thủ pháp luật.
Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường đổi mới. Gia đình
cũng đang tiếp tục chuyển biến. Cái mới và cái cũ còn đan xen nhau.
Không còn chữ Hiếu mù quáng như xưa. Nhưng trong gia đình lại có
không ít hiện tượng cha mẹ thờ ơ với việc nuôi dạy con cái còn con
cái thì hỗn láo, bạc đãi cha mẹ. Cũng không ít những hiện tượng bất
hoà và tranh chấp giữa anh em, chị em.
Sự biến đổi trong quan hệ gia đình diễn ra khá phức tạp. Mấy
năm gần đây lại xuất hiện khuynh hướng trở lại với những nền nếp
của gia đình xưa. Người ta xây dựng nhà thờ, sửa sang lại mồ mả tổ
tiên, lập lại gia phả, đi lại thăm hỏi lẫn nhau, bày tỏ tình cảm sẵn sàng
cưu mang lẫn nhau trong nội bộ gia đình và dòng họ.
Tuy nhiên, khôi phục truyền thống không có nghĩa là quay trở
lại những cái tiêu cực của gia đình kiểu cũ, trong đó có nhiều nguyên
tắc đã lỗi thời của đạo đức Nho giáo.
Trong xã hội ta hôm nay và ngày mai, gia đình vẫn tiếp tục giữ
một vai trò quan trọng trong sự nghiệp chung của đất nươc. Đạo đức

cũ của dân tộc trong đó có những nhân tố đạo đức. Nho giáo còn tiếp
tục đem lại cho chúng ta nhiều điều bổ ích nhưng chúng ta lại không
thể tiếp thu toàn bộ những quy tắc sinh hoạt của gia đình kiểu cũ.
Chúng ta cũng không thể bắt chước nước này hay nước khác trong
cách thức họ tiếp thu những quan điểm Nho giáo về gia đình để phục
vụ cho chế độ xã hội của họ, cho lợi ích giai cấp của giới cầm quyền.
Sự khác nhau giữa ta với họ là sự khác nhau giữa hai chế độ.
Khi giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản còn nắm quyền điều
hành đất nước thì sinh hoạt và đạo đức gia đình ở những nước này
20
không giống như sinh hoạt và đạo đức trong gia đình ở những nước
mà nhân dân đã nắm chính quyền làm chủ đất nước như ở Việt Nam.
Gia đình Việt Nam ngày nay không nằm trong khuôn khổ của
chế độ phong kiến và tư sản mà lại ra đời trên cơ sở đánh đổ những
chế độ ấy. Cái gắn bó trong quan hệ gia đình cũ là quyền lợi kinh tế
của mỗi thành viên do người gia trưởng chi phối. Cái gắn bó trong
quan hệ gia đình mới là tình cảm trong sáng và sâu sắc giữa các thành
viên trên cơ sở quyền lợi chung của dân tộc và quyền tự do hạnh phúc
của mỗi con người.
Tình cảm gia đình hiện nay phải được xây dựng trên cơ sở bình
đẳng và tự nguyện chứ không phải do sự áp đặt của quyền lực chính
trị và sự trói buộc của quyền lợi kinh tế.
Tình cảm sâu sắc trong gia đình nhỏ tất yếu dẫn tới những tình
cảm đối với gia đình lớn, với bà con trong thân tộc, với dòng họ, với
láng giềng xóm phố, với địa phương mình ở và thiêng liêng hơn nữa
là tình cảm sâu sắc đối với tổ quốc của mình. Những tình cảm ấy là
cơ sở vững chắc của mọi quan hệ đạo đức giữa người với người, cần
được khồng ngừng củng cố và nâng cao ở mọi thành viên từ nhỏ đến
lớn. Chính vì thế, giải pháp gia đình trước hết là giải pháp tình cảm.
Để thực hiện giải pháp này nhân dân ta đã có rất nhiều sáng kiến được

thực hiện có kết quả.
Gia đình Việt Nam đang xây dựng những quy tắc mới bảo đảm
những quan hệ lành mạnh và có kỷ cương giữa các thành viên trong
gia đình. ở đây, những tình cảm lành mạnh và sâu sắc thể hiện qua
những quan hệ chung thuỷ thân yêu, chăm lo cho sự tiến bộ của nhau
về đạo đức và tài năng, phục vụ cho lý tưởng cao cả của dân tộc. Tình
cảm ấy không giống như tình cảm ngày xưa thể hiện ra bên ngoài qua
thái độ sợ sệt và hống hách ở chế độ phong kiến trong quan hệ giữa
21
tầng lớp vua quan thống trị và các tầng lớp nhân dân bị thống trị. Sự
bất bình đẳng này trong xã hội vốn tìm chỗ dựa của nó trong sự bất
bình đẳng trong gia đinh.
Nhân dân ta đã từng đổ bao xương máu và mồ hôi để giành lại
độc lập tự do, xây dựng một cuộc sống bình đẳng và dân chủ. Gia
đình phải là nền tảng của xã hội mới, phải bảo vệ những thành quả mà
cách mạng đã đạt được chứ không phải đi ngược lại những thành quả
ấy.
2. Những vấn đề đặt ra và giải pháp xây dựng gia đình hiện
nay.
2.1. Những vấn đề đặt ra:
*Bạo lực trong gia đình:
Bạo lực trong gia đình là “bất kì một hành động bạo lực dựa
trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn thất
về thân thể, về tình dục, tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ, bao
gồm cả sự đe doạ có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay
tước đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng
hay trong cuộc sống riêng tư”. Như vậy, bạo lực trong gia đình được
đề cập đến nhiều nhất, nó tồn tại ở mọi vùng lãnh thổ, mọi lứa tuổi,
mọi giai tầng xã hội.
Thời gian gần đây xu hướng phi tập trung hoá trong quản lý

kinh tế và xã hội đã đem lại cho hộ gia đình những chức năng và vai
trò kinh tế - xã hội mới vô cùng quan trọng. Địa vị vai trò của các
thành viên trong gia đình cũng thể hiện theo những xu hướng rất khác
nhau. Đàn ông hành xử có tính hướng ngoại. Phụ nữ, ngoài việc tham
gia vào các hoạt động kinh tế, còn phải gánh vác hâu như toàn bộ
công việc gia đình. Nhất là ở nông thôn, khu vực kinh tế chủ yếu là
sản xuất nhỏ, phụ nữ luôn là lao động chính trong hầu hết các khâu
22
cảu quá trình sản xuất. Bạo lực không nhìn thấy được gắn liền với bất
bình đẳng trong phân công lao động đang có xu hướng tăng lên.
Trong xã hội hiện đại, bạo lực trong gia đình, ngày càng được
biết đến với nhiều dạng thức tinh vi, gây ra hậu quả vô cùng nghiêm
trọng không chỉ trong gia đình, mà còn cho cả xã hội. Nỗi đau về thể
xác, khủng hoảng về tinh thần, sự rạn vỡ các quan hệ thiêng liêng
trong gia đình khó mà hàn gắn được. “ở Mỹ cứ 100 vụ ly hôn có 90
do bạo lực - Thái Lan là 76, ở Hà Nội là 51. Thành phố Hồ Chí Minh
là 56. Chênh lệch này không phải do ở ta ít mà do phụ nữ không nói
ra, do vậy phải đưa pháp luật vào gia đình” (M.Hoàng - Đăng Khoa,
Lao động, 19-9-1999).
Bạo lực trong gia đình ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới việc
giáo dục, hình thành nhân cách, hành vi và ứng xử của con trẻ -
nguồn lực cơ bản trong tương lai của xã hội. Trẻ trưởng thành trong
các gia đình nhiều hành vi bạo lực, thường có các biểu hiện tâm lý:
“Trẻ không biết ai đúng sai? Nghe theo ai?, trẻ trở nên bướng không
vâng lời, trở nên hiếu thắng bằng bạo lực, dùng bạo lực với người
khác, khi có gia đình lại lặp lại gương của bố mẹ”. (Nguyễn Vũ, Giáo
dục và thời đại, 20-1-2000). Nếu lời cảnh báo trên được kiểm chứng,
thì để chống lại “vi rút bạo lực”, xã hội không có phương thuốc nào
hiệu quả hơn là ngăn chặn bằng mọi cách, bạo lực trong gia đình -
môi trường xã hội hoá đầu tiên của trẻ thơ.

Muốn hạn chế được bạo lực, việc đầu tiên là cần nâng cao đời
sống tinh thần - văn hoá - xã hội, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
pháp luật cho phụ nữ, tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể,
hội phụ nữ… Bên cạnh thiết chế thân tộc, thái độ đúng đắn và tích
cực của cộng đồng nơi cơ trú và làm việc của phụ nữ cũng là tác nhân
23
tham gia vào quá trình kiểm soát và điều hoà, làm giảm bớt thói gia
trưởng- nguyên nhân sâu xa của bạo lực.
Đối với nạn bạo lực, ngoài sự can thiệp của luật pháp, áp lực
của cộng đồng và các tổ chức xã hội, khi bạo lực xảy ra, chưa có sự
can thiệp kịp thời từ bên ngoài, ở Việt Nam chúng ta nên chăng thử
học tập kinh nghiệm của nước ngoài đó là nhà tạm lánh. “Nhà tạm
lánh phải được phối hợp giữa Chính phủ và các tổ chức từ thiện -
không chỉ để lánh mà còn tư vấn thậm chí còn dạy nghề. Quan niệm
Việt Nam khó chấp nhận phụ nữ bỏ nhà ra đi. Khi hỏi người bị chồng
đánh thì 13,3% cần tạm lánh, 86,7% không thể rời gia đình (mẫu
150). (Nguyễn Thiện, Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, 6-11-1999).
Tuy nhiên, ai đứng ra xây dựng Nhà nước hay cộng đồng? Quản lý và
hoạt động của nhà tạm lánh như thế nào còn là thách thức lớn với các
nhà làm công tác xã hội ở nước ta. Một trở ngại khác là ràng buộc của
tập tục phong kiến còn nặng trong chị em - nạn nhân chủ yếu của nạn
bạo lực.
*Tảo hôn, tình dục trước hôn nhân, sức khoẻ sinh sản vị thành
niên.
Thanh niên đô thị hiện nay có xu hướng chung là chậm kết hôn,
thực hiện kế hoạch hoá gia đình, có con chậm, dành thời lực cho sự
nghiệp. Thậm chí không ít người chịu ảnh hưởng của lối sống phương
Tây, chấp nhận cuộc sống độc thân mưu cầu danh nghiệp. Ngược lại,
thanh niên nông thông vẫn đang trong tình trạng tảo hôn. Những vùng
dân tộc thiểu số hay các địa phương có đặc trưng riêng như ngư dân,

làng nghề gia truyền tinh xảo,… nạn tảo hôn càng nghiêm trọng. Nạn
tảo hôn ở nông thôn gấp 4 lần ở thành phố, trình độ văn hoá chủ yếu
là chưa hết phổ thông trung học. Học vấn tỷ lệ nghịch với tảo hôn.
Luật hôn nhân gia đình nước ta quy định nữ 18 tuổi mới được kết
24
hôn, nhưng thực tế tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra công khai, pháp luật
bị vi phạm ngang nhiên. Vì thế có thể nhìn thấy rất rõ sự sai lệch giữa
các thể chế thực thi pháp luật và những ràng buộc khác trong cộng
đồng ở nưcớ ta. ở nông thôn khi có trường hợp tảo hôn, chính quyền
xã - cơ quan cấp giấy đăng ký kết hôn - biết thì cũng ít có khả năng
ngăn chặn vì chúng đều là con cháu trong nhà. Nếu chính quyền
không cho đăng ký thì lễ cưới vẫn được tổ chức, vài năm sau, có con
lúc đó đã đủ tuổi thì đăng ký. Chính quyền không có bất cứ một biện
pháp cưỡng chế hay chế tài nào. Khi còn kinh tế tập thể, việc thể chế
bằng các biện pháp kinh tế của hợp tác xã, và hoạt động của các tổ
chức xã hội, tổ chức quần chúng đã góp phần hạn chế tình trạng tảo
hôn. Dường như tự chủ về kinh tế, làm cho các bậc cha mẹ cảm thấy
họ có quyền tổ chức hôn nhân cho con bất cứ lúc nào họ thích.
Quan hệ tình dục sớm, tình dục trước hôn nhân là hiện trạng
đáng báo động. Nếu như ở nông thôn, tảo hôn là vấn đề nhức nhối, thì
ở thành phố, xu hướng tách rời quan hệ tình dục với hôn nhân (được
hiểu theo nghĩa trước và ngoài hôn nhân) đưa đến những hệ luỵ vô
cùng nguy hại. Những “bà mẹ bất đắc dĩ”, những cuộc trả thù tình
địch dã man, những vụ quyên sinh đầy thương tâm, là hậu quả xã hội
của những hành vi tình dụng phi chuẩn mực và thiếu hiểu biết trong
quan hệ giới tính. Nguyên nhân về mặt xã hội là sự buông lỏng kỷ
cương, chuẩn mực đạo đức trong quá trình tăng trưởng kinh tế và mở
cửa. Bố mẹ bị cuốn theo nhịp sống sôi động, không gần gũi con cái,
ảnh hưởng của văn hoá đồi truỵ… Trong khi đó trẻ vị thanh niên đang
trải qua giáo dục biến chuyển rất phức tạp về tâm-sinh lý, đòi hỏi việc

quan tâm thường xuyên của cha mẹ, nhà trường và người xung quanh
“Các biện pháp giáo dục giới tính, tránh thai chưa tới được vị thành
niên, cần nghiên cứu đưa vào nhà trường. Chưa tận dụng hết được
25

×