Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.55 KB, 12 trang )

I. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành nghề nông thôn là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế
ở khu vực nông thôn, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện
đời sống người dân ở khu vực nông thôn.
Ngành nghề nông thôn giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình phát
triển nông thôn Việt Nam, không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm lúc
nông nhàn, tăng thu nhập cho nông dân mà còn tạo nên những dấu ấn, bản
sắc văn hóa của mỗi vùng, miền thông qua các sản phẩm văn hóa được lưu
giữ từ đời này qua đời khác.
Ngày nay, trong quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế thế giới, sức ép dư thừa lao động ở nông thôn và sự chuyển
dịch lao động ra thành phố ngày càng lớn, chênh lệch về thu nhập giữa nông
thôn và thành thị có nguy cơ ngày một gia tăng. Vì vậy, phát triển ngành
nghề nông thôn không chỉ ngày càng quan trọng đối với khu vực nông thôn
mà còn góp phần phát triển bền vững nền kinh tế xã hội chung của cả nước.
Đã từ lâu Đảng và Nhà nhà nước đã có những chính sách nhằm phát
triển ngành nghề ở khu vực nông thôn, xây dựng nông thôn việt nam mới,
giảm dần tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp và tăng dần tỷ trọng các ngành
nghề khác. Tuy nhiên ở mỗi địa phương có những đặc điểm kinh tế - xã hội
khác nhau nên việc thực hiện những chính sách chung do nhà nước ban hành
đem lại những hiệu quả khác nhau. Nhìn một cách tổng thể, việc đưa chính
sách áp dụng vào phát triển kinh tế nông thôn đã đem lại những chuyển biến
tích cực trong nền kinh tế nông thôn, những không phải những chính sách ấy
đã được thực hiện và đem lại hiệu quả tốt. Vậy để tìm hiểu rõ hơn về thực
trạng thực hiện các chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn, tôi xin lựa
chọn đề tài : " Thực Trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nghề ở
nông thôn"
1
II. Nội Dung
2.1. Chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn việt nam.
a) Khái niệm


Chính sách phát triển ngành nghề nông thôn là một chính sách kinh tế
trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước. Chính sách phát
triển ngành nghề nông thôn bao gồm những định hướng những hỗ trợ và
đồng thời cũng là công cụ quản lý của nhà nước về phát triển ngành nghề
nông thôn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
b) Hệ thống các chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn
- Quyết định số 68/2002/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ về
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW
Đảng khoá IX đã xác định việc phát triển Ngành nghề nông thôn là một
trong những biện pháp để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001-2010.
- Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 của Chính phủ về
phát triển ngành nghề nông thôn và quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày
24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích
phát triển ngành nghề nông thôn.
- Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát
triển ngành nghề nông thôn.
- Thông tư 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ NN&PTNN
về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của nghị định số 66/2006/NĐ-
CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ và phát triển ngành nghề nông thôn.
- Chỉ thị số 28/2007/CT-BNN ngày 18/4/2007 của Bộ NN&PTNN về
đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng
chống ô nhiễm môi trường làng nghề.
c) Vai trò của các chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn.
- Phát triển ngành nghề nông thôn luôn có vai trò quan trọng đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông thôn bền vững.
2
- Phát triển ngành nghề nông thôn tạo ra nhiều việc làm, góp phần
tăng thu nhập cho lao động nông thôn, xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển ngành nghề nông thôn góp phần bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc.
- Phát triển ngành nghề nông thôn góp phần ổn định trật tự xã hội và
hạn chế các vấn đề xấu trong mối quan hệ xã hội ở nông thôn.
- Phát triển ngành nghề nông thôn là động lực thúc đẩy Chương trình
xây dựng Nông thôn mới và Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị.
3. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn.
3.1. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn.
Các hoạt động ngành nghề nông thôn chủ yếu tập trung ở 5 nhóm
ngành chính sau:
- Nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản;
- Nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ;
- Nhóm tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, dịch vụ;
- Nhóm công nghiệp;
- Nhóm gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
Trong các năm qua, hoạt động ngành nghề nông thôn luôn được chú
trọng phát triển. Từ năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định
66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn, trên cơ
sở đó, các tỉnh thành đã xây dựng các chính sách thực hiện theo Nghị định,
trong đó chú trọng xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển
ngành nghề nông thôn, xây dựng chương trình bảo tồn và phát triển ngành
nghề (tập trung váo 3 lĩnh vực: bảo tồn và phát triển làng nghề, phát triển
làng nghề gắn với du lịch và phát triển làng nghề mới).
Cũng trong năm 2006, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
113/2006/TT-BTC ngày 28/12/2006 hướng dẫn một số nội dung về ngân
sách nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn. Ngân hàng Nhà nước
3
đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung vốn tín dụng cho lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn. Đồng thời hoạt động ngành nghề nông thôn được xếp vào
lĩnh vực được hưởng các ưu đãi trong chính sách tín dụng phục vụ phát triển

nông nghiệp, nông thôn. Nhờ đó, dư nợ cho vay để phát triển ngành nghề
nông thôn trong các năm qua đã tăng mạnh, từ 20.500 tỉ đồng (31/12/2006)
đã tăng lên 53.200 tỉ đồng (3/2011), đạt gấp 2,6 lần.
Bên cạnh đó, các ngành, các cấp đã có nhiều hoạt động thúc đẩy phát
triển ngành nghề nông thôn. Ngành công thương đã xây dựng và triển khai
thực hiện chương trình khuyến công quốc gia, trong 5 năm từ 2006 đến
2010, đã đào tạo nghề cho trên 400.000 người với tỉ lệ lao động có việc làm
sau đào tạo đạt trên 94%, đã tạo điều kiện cho các hiệp hội tổ chức và tham
gia các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Ngành văn hóa,
thể thao và du lịch đã tổ chức các hoạt động lồng ghép vào chương trình
mục tiêu quốc gia như nghiên cứu, điều tra và bảo tồn các làng nghề truyền
thống tiêu biểu, phát triển hoạt động du lịch gắn với làng nghề nhằm quảng
bá và xây dựng thương hiệu sản phẩm ngành nghề thủ công mỹ nghệ.
Theo tổng hợp của Bộ Nông nghiệp và PTNT, đến nay cả nước có
4.575 làng có nghề với khoảng 900.000 hộ dân tham gia hoạt động và trên
22.000 doanh nghiệp, trong đó có 1.324 làng nghề và làng nghề truyền thống
được công nhận. Số lượng làng nghề tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc,
trong đó 5 tỉnh có số lượng làng nghề nhiều nhất lần lượt là Hà Nội, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hải Dương và Thái Bình, chiếm 60% tổng số làng có nghề
của cả nước. Hoạt động ngành nghề nông thôn đã tạo việc làm cho hơn 11
triệu lao động, thu hút khoảng 30% lực lượng lao động nông thôn. Năm
2010, giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn ước đạt trên 80.000 tỉ đồng,
mang lại thu nhập bình quân từ 450.000 đồng đến 4,5 triệu
đồng/người/tháng, cao hơn so hoạt động thuần nông.
4
3.2. Những thuận lợi và khó khăn cho quá trình thực hiện chính sách.
a) Những thuận lợi
- Nguồn lao động dồi dào là thế mạnh của nông thôn việt nam, vì thế
khi thực hiện các chính sách đầu tư phát triển ngành nghề ở nông thôn thì
lao động không thiếu.

- Các làng nghề truyền thống nhiều, đa dạng là thuận lợi cho việc thực
hiện chính sách phát triển ngành nghề ở nông thôn. Tại nhiều làng nghề
trong thành phố vẫn còn đội ngũ nghệ nhân với tay nghề cao, giàu tâm huyết
và có khả năng truyền dạy nghề cho lớp thợ trẻ.
- Là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng, mỗi vùng miền lại có
những đặc trưng văn hóa khác nhau, việc kết hợp phát triển làng nghề gắn
với du lịch là mục tiêu có thể đạt được trong chính sách phát triển ngành
nghề nông thôn.
b) Những khó khăn
- Năng lực, kinh nghiệm quản lý sản kinh doanh của các chủ hộ, cơ sở
sản xuất; trình độ kiến thức và tay nghề của người lao động trong các làng
nghề còn hạn chế.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm ngành nghề nông thôn vẫn còn tồn tại
nhiều khó khăn, đó là sự cạnh tranh của những mặt hàng cùng loại được sản
xuất bằng công nghệ hiện đại từ các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, do
thiếu thông tin về thị trường nên việc mở rộng tiêu thụ hàng thủ công mỹ
nghệ nước ta còn phát triển chậm. Các sản phẩm ngành nghề nông thôn gắn
với du lịch còn ít; các làng nghề chưa gắn với các tour du lịch để tăng cường
giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm.
- Do quá trình đô thị hoá và chuyển dịch lao động nông thôn vào các
khu công nghiệp nên lao động làng nghề biến động, lao động có tay nghề
cao tìm việc làm tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp.
5
- Hệ thống giao thông đến các làng nghề, đặc biệt hệ thống thông tin
liên lạc, quảng bá sản phẩm, hệ thống các ngành sản xuất hỗ trợ, nhất là
trong các khâu sản xuất, khai thác và xử lý nguyên vật liệu phục vụ cho các
loại ngành nghề dù đã được tăng cường vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển ; chưa có các trung tâm đào tạo, cơ quan nghiên cứu khoa học công
nghệ, trung tâm xúc tiếp thương mại, bảo tàng về nghề thủ công mỹ nghệ.
- Môi trường một số làng nghề đã và đang có thể bị ô nhiễm do sự

phát triển tự phát và sử dụng những công nghệ sản xuất lạc hậu. Bên cạnh
đó, nguồn chất thải rắn và khí độc thải ra trong quá trình sản xuất cũng hầu
như không được xử lý, có thể đưa đến tình trạng ô nhiễm nặng nề ở một số
khu vực sản xuất tập trung dân cư. Chi phí cho việc khắc phục ô nhiễm làng
nghề là vấn đề phải đặt ra. Các cơ sở sản xuất với kỹ thuật sản xuất thủ
công, cơ khí lạc hậu và trình độ khoa học công nghệ trong nước hiện nay
chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, chi phí khắc phục là
khá tốn kém, làm tăng giá thành và giảm khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy,
phải thấy bảo vệ môi trường làng nghề là công việc khó khăn, đòi hỏi sự
tham gia tích cực của cộng đồng và cơ quan quản lý của các cấp chính quyền
địa phương.
3.3. Ưu điểm và hạn chế khi thực hiện chính sách phát triển ngành nghề
nông thôn.
Từ những thuận lợi và khó khăn khách quan trên, khi thực hiện chính
sách phát triển ngành nghề ở nông thôn trong những năm qua chúng đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ, xong cũng còn tồn tại những hạn chế
nhất định.
a) Ưu điểm
- Việc phát triển các làng nghề nông thôn đã góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nhằm tăng thu nhập, cải thiện và nâng
cao đời sống cho lao động nông nghiệp, nông thôn, tạo công ăn việc làm cho
lao động nông nhàn, góp phần xoá đói giảm nghèo.
6
- Giá trị sản phẩm của nhiều làng nghề khá cao so với giá trị các sản
phẩm nông nghiệp.
- Các địa phương đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng đến tận cơ sở sản
xuất nhất là đường giao thông, điện…
- Hệ thống chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn
ngày càng được hoàn thiện, nhất là từ khi Chính phủ ban hành Nghị định
66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006, về phát triển ngành nghề nông thôn.

- Các cơ sở ngành nghề nông thôn có thể phát triển ở nhiều loại hình từ
hộ sản xuất gia đình, đến những doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ tổ hợp tác đến
hợp tác xã; có thể làm vệ tinh cho những tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng
linh hoạt giải quyết những đơn đặt hàng lớn.
b) Hạn chế
- Hoạt động quản lý ngành nghề nông thôn đang có sự chồng chéo
giữa các cơ quan từ TW đến địa phương.
- Chính sách của nhà nước về hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn
theo Thông tư số 112/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính chưa thực sự đến
được với người dân và các làng nghề nói chung; nguồn kinh phí cho hoạt
động làng nghề còn hạn chế, nhất là trong thu mua nguyên vật liệu phục vụ
sản xuất; đầu tư máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động (LĐ) hạ giá
thành sản phẩm.
- Công tác đào tạo nâng cao tay nghề cho LĐ làng nghề chưa được
chú trọng triển khai thực hiện. Kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng tại làng
nghề chủ yếu là thủ công, cổ truyền, mức độ cơ giới hoá còn thấp.
- Mối liên kết giữa các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn với các
nhà khoa học, nhà đầu tư và thị trường còn lỏng lẻo, chưa gắn bó chặt chẽ.
- Chính sách vay vốn còn hạn chế khi các hộ, HTX và doanh nghiệp
về ngành nghề nông thôn vẫn còn gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng, chủ yếu về mặt cơ chế tín dụng và thủ tục vay vốn.
7
- Chính sách phát triển ngành nghề nông thôn còn chưa thực hiện
mạnh mẽ việc áp dụng và đổi mới công nghệ tại các cơ sở sản xuất, nên ảnh
hưởng đến năng suất, chất lượng và giá thành, cũng như tính cạnh tranh của
sản phẩm.
4. Một số giải pháp để tiếp tục phát triển ngành nghề ở nông thôn
Để đẩy mạnh phát triển ngành nghề nông thôn, là công cụ để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Chính sách phát triển ngành nghề nông

thôn cần tập trung vào giải quyêt một số vấn đề sau:
a) Xây dựng Chương trình, dự án, đề án đầu tư
Chương trình mục tiêu phát triển mỗi làng một sản phẩm trên địa bàn
các tỉnh thành giai đoạn 2011-2015 nhằm phát triển vùng nông thôn một
cách tương xứng với tiềm năng sẵn có ; giảm chênh lệch thu nhập, mức sống
khá xa giữa nông thôn và thành thị; góp phần nâng cao giá trị các sản phẩm
truyền thống; tạo việc làm tại chỗ ở khu vực nông thôn.
b) Giải pháp về quy hoạch
- Xây dựng quy hoạch, bảo tồn, phát triển ngành nghề nông thôn theo
hướng mỗi làng một sản phẩm, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và nông thôn.
- Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh tiếp tục hoàn thiện
quy hoạch, bảo tồn và phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn giai
đoạn 2011-2015, định hướng 2020.
- Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề được xây dựng, triển
khai thực hiện tại từng quận huyện phải phù hợp với quy hoạch phát triển
ngành nghề nông thôn, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của quận
huyện và thành phố; trong đó chú trọng bảo tồn và phát triển làng nghề,
vùng nghề phải gắn với bảo vệ môi trường.
8
- Đối với quy hoạch vùng nguyên liệu cho các nghề thủ công, triển
khai xây dựng quy hoạch và có kế hoạch đầu tư, gây dựng lại các giống cây
nguyên liệu có chất lượng cao cung cấp cho các làng nghề, trong đó đặc biệt
chú trọng áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để gieo trồng, chăm sóc,
khai thác các loại nguyên liệu cho các nghề thủ công.
- Thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã
hội ở Trung ương và Thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được
hưởng lợi cùng tham gia vào quá trình lập và thực hiện các chương trình, dự
án theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
- Việc cấp giấy phép hoạt động của các cơ sở sản xuất làng nghề phải

trên cơ sở có đầy đủ cơ sở hạ tầng và hệ thống xử lý chất thải (rắn, lỏng, khí)
để đảm bảo môi trường sinh thái. Thực hiện các giải pháp giảm ô nhiễm môi
trường. Về công nghệ sản xuất: hướng dẫn thay đổi và đổi mới công nghệ
sản xuất theo hướng áp dụng công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường.
c) Giải pháp về đầu tư, tín dụng
Đẩy mạnh công tác triển khai giới thiệu, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh
nghiệp, tổ hợp tác, tổ ngành nghề, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân tham gia
phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tiếp cận được nguồn vốn vay
có hỗ trợ lãi suất.
Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất áp dụng chính sách hỗ trợ phát triển
ngành nghề nông thôn theo Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010
của Chính phủ về khuyến nông và Thông tư số 183/2010/TTLT-BTC-BNN
ngày 15/11/2011 của liên bộ Bộ Nông nghiệp & PTNT và Bộ Tài chính về
việc Hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cấp
đối với hoạt động khuyến nông, nhằm hỗ trợ, nâng cấp hệ thống máy móc,
trang thiết bị phục vụ sản xuất của một số cơ sở, tổ ngành nghề, tổ hợp tác,
HTX làng nghề, ngành nghề nông thôn tại các xã xây dựng nông thôn mới,
góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm của làng nghề, ngành
nghề nông thôn.
9
d) Giải pháp về phát triển kinh tế hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã
Kinh tế hộ là nền tảng phát triển làng nghề, nhưng kinh tế hộ với
những hạn chế vốn có của nó, không thể phát triển được. Con đường tất yếu
là phải phát triển hộ sản xuất trở thành các cơ sở trong làng nghề, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, liên kết hình thành tổ hợp tác, HTX để nâng
cao tính cạnh tranh. Đây là biện pháp có hiệu quả lớn để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, không cần nhiều vốn đầu tư mà giải quyết được nhiều lao động,
đồng thời có thể tranh thủ được công nghệ hiện đại, thích hợp của các nước.
Liên kết hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã kết nối với doanh nghiệp nhằm
tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ.

e) Giải pháp về xúc tiến thương mại
- Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền, quảng bá sản phẩm, xúc
tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề; hỗ trợ xây dựng nhãn
hiệu sản phẩm đối với HTX làng nghề.
- Hỗ trợ giới thiệu sản phẩm ngành nghề nông thôn đặc sắc của từng
địa phương thông qua các hội chợ, hoạt động triển lãm do Bộ Nông nghiệp
và PTNT, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Bộ Công thương, tổ chức định
kỳ hàng năm. Đồng thời, lồng ghép giới thiệu sản phẩm ngành nghề nông
thôn thông qua hội thi tìm hiểu về Chương trình xây dựng nông thôn mới,
hội thi tìm hiểu về an toàn vệ sinh lao động trong sản xuất nông nghiệp và
ngành nghề nông thôn,
- Hỗ trợ điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước
đối với sản phẩm được xác định là sản phẩm chủ lực của làng nghề ở địa
phương.
- Đẩy mạnh thương mại điện tử, hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông
thôn, doanh nghiệp, làng nghề xây dựng hệ thống thông tin nhằm giới thiệu,
quảng bá sản phẩm làng nghề; xây dựng thương hiệu, sở hữu trí tuệ.
- Tiếp tục hỗ trợ các HTX làng nghề giới thiệu sản phẩm làng nghề đến
người tiêu dùng thông qua hệ thống siêu thị của Liên hiệp HTX thương mại.
10
f) Giải pháp về hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
- Xây dựng Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong lĩnh vực
Nông nghiệp - ngành nghề nông thôn giai đoạn 2011-2015, định hướng đến
năm 2020. Trong đó ưu tiên đào tạo nghề cho 40% lao động là nữ.
- Tiếp tục phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ở tỉnh -
thành phố nghiên cứu, vận dụng, triển khai chính sách hỗ trợ đào tạo nghề
cho lao động nông thôn (trong đó có lao động tham gia phát triển ngành
nghề nông thôn) đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số
1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 về phê duyệt đề án "Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020", cụ thể:

+ Lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi
người có công với cách mạng, hộ nghèo, người tàn tật, người bị thu hồi đất
canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn, với mức tối đa 03 triệu
đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày thực
học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa
không quá 200.000 đồng/người/khóa học đối với người học nghề xa nơi cư
trú từ 15 km trở lên;
+ Lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150%
thu nhập của hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn, với mức tối
đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học.
+ Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn,
với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa học.
+ Lao động nông thôn học nghề được vay để học theo quy định hiện
hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nông thôn làm việc
ổn định ở nông thôn sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất
đối với khoản vay để học nghề;
+ Lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc
gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo
việc làm.
11
- Nghiên cứu tổ chức các Hội thi, hàng năm tổ chức trao giải: “sản
phẩm tiêu biểu của làng nghề, ngành nghề nông thôn” cho các sản phẩm
mới, kết hợp với cuộc thi sản phẩm thủ công và đề xuất phong tặng danh
hiệu nghệ nhân.
III. Kết luận
Như vậy qua sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng mặc dù sau hơn 5
năm thực hiện chính sách phát triển các ngành nghề nông thôn, chúng ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, đã dần thay đổi bộ mặt nông thôn theo mục
tiêu chung công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chính sách góp phần giảm
khoảng cách phân hóa giàu nghèo, mang lại thu nhập ổn định cho người dân,

hạn chế được phần nào các vấn đề cấp bách cho xã hội như thất nghiệp ở
nông thôn, sự di cư tập từ nông thôn lên thành thị, ô nhiễm môi trường nông
thôn, Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhìn thẳng vào thực tế để nêu lên những
hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách, làm hiệu quả quá
trình thực thi không cao, như quá trình quản lý còn chòng chéo, các chính
sách triển khai phần nào con chưa đến được tay người dân, các chính sách;
các ban ngành còn chưa đồng bộ trong thực hiện, Khắc phục những hạn
chế trên, cũng với lồng ghép áp dụng sáng tạo các chính sách vào thực hiện
mục tiêu phát triển nông thôn phù hợp với từng địa phương cụ thể sẽ đem lại
hiệu quả tốt. Góp phần thúc đẩy Việt nam tiến nhanh hơn trên con đường
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
12

×