Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

thực trạng sản xuất và phân bố cây ngô tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong cơ cấu các cây lương thực quan trọng trên thế giới, cây ngô đứng ở
vị trí thứ thứ 3 sau lúa gạo và lúa mì. Ngô cùng với một số cây lương thực khác
đã góp phần to lớn trong việc ổn định an ninh lương thực trên thế giới. Trong
thời đại nền kinh tế thị trường được mở rộng cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ trong nông nghiệp như hiện nay, cây ngô được nghiên cứu và
tiếp tục được phát triển không chỉ với vai trò cung cấp lương thực mà còn còn là
nguồn hàng hóa quan trọng của mỗi quốc gia.
Việt Nam là đất nước có nhiều ưu thế để phát triển loại cây lương thực này.
Hiện nay, Việt Nam là một trong 17 quốc gia sản xuất ngô nhiều nhất trên thế
giới. Trong đó, Sơn La là tỉnh có diện tích và sản lượng ngô hàng đầu cả nước. Là
một tỉnh vùng cao của Tây Bắc, nơi mà phần lớn dân cư là các đồng bào dân tộc ít
người điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội còn vô cùng khó khăn, cây ngô không
chỉ đơn thuần có vai trò là cung cấp lương thực mà hơn thế nó còn là một sản
phẩm hàng hóa góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân Sơn La.
Tuy nhiên hiện nay, trong quá trình phát triển cây ngô tỉnh Sơn La cũng
còn gặp phải không ít những khó khăn và thách thức như: diện tích lớn nhưng
năng suất ngô còn thấp, sự khó khăn trong quá trình vận chuyển trong thu hoạch
và tiêu thụ, thị trường của sản phẩm ngô Sơn La chưa được mở rộng, giá cả còn
bấp bênh và phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống tư thương, công nghệ chế biến và
bảo quản ngô sau thu hoạch còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sức cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường,…
Trước tình hình trên, để phát triển cây ngô Sơn La tương xứng với tiềm
năng của vùng và thực hiện đúng chủ trương của tỉnh đó là: đổi mới đa dạng cơ
cấu cây trồng vật nuôi, đầu tư phát triển cơ cấu cây trồng vật nuôi mang lại hiệu
quả kinh tế cao dựa trên những ưu thế riêng về tự nhiên và kinh tế xã hội. Hơn
nữa, vấn đề nghiên cứu về tình hình phát triển và phân bố cây ngô tỉnh Sơn La
2



vẫn chưa được chú ý tìm hiểu. Rất nhiều các nhà đầu tư, cán bộ, giáo viên, sinh
viên, học sinh trong và ngoài tỉnh quan tâm đến vấn đề này nhưng chưa có
những tài liệu cần thiết đề phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy.
Vì vậy, xuất phát từ những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực trạng
sản xuất và phân bố cây ngô tỉnh Sơn La” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tình hình sản xuất và phân bố cây ngô trên thế giới đã có
một số tác giả đã đề cập đến mà điển hình là tác giả Aldrich.S.R và nhóm giáo
sư của khoa Nông nghiệp thuộc Đại học Ilinois, Hoa Kì trong cuốn Modern corn
production xuất bản năm 1965 dài 318 trang với hơn 200 hình ảnh đã đề cập đến
những thay đổi phương pháp trồng ngô hiện đại sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao
hơn nhiều so với phương pháp trồng ngô truyền thống. Các tác giả cũng đã chỉ
ra rằng động lực đầu tiên trong sự tăng năng suất là do sự nghiên cứu sản xuất
các giống ngô lai, thêm vào đó là những thành tựu của việc cải tiến trong kỹ
thuật sản xuất cây trồng. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ phân tích chủ yếu vào
phương thức sản xuất ngô của khu vực Châu Mĩ (điển hình là Hoa Kì) và Châu
Âu, chưa áp dụng và đề cập nhiều đến các khu vực khác trên thế giới.
Principles of Crop production: Theory, Techniques and Technology (tạm
dịch: Những nguyên tắc trong sản xuất cây trồng: Lý thuyết, kỹ thuật và công
nghệ) của tác giả George Acquaah, năm 2008 công trình này tiếp cận về mặt kỹ
thuật và công nghệ gieo trồng các các loại cây trồng chính trong đó có cây ngô.
Việt Nam nghiên cứu về cây ngô cũng được các tác giả lưu ý từ lâu, điều
đó thể hiện có rất nhiều các công trình nghiên cứu về cây ngô trong đó có một số
công trình như:
Cây ngô. Cao Đắc Điểm, 1988, Nhà xuất bản Nông nghiệp; Giáo trình
Cây Lương thực, tập 2, Đinh Thế Lộc, ĐHNN I, Nhà Xuất bản Nông nghiệp.
Các tác giả đã đề cấp đến nguồn gốc, đặc điểm sinh thái, yêu cầu kỹ thuật đối
với sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô, tình hình sản xuất ngô trên thế giới.
3


Nguyễn Thế Hùng, 2001, Ngô lai và kỹ thuật thâm canh - Nhà Xuất bản
Nông nghiệp, Hà Nội. Đề cập những phương pháp trồng các loại giống ngô lai
năng suất cao phù hợp với từng điều kiện của Việt Nam.
Địa lý kinh tế xã hội đại cương, Địa lí nông - lâm - thủy sản, PGS.TS
Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), giáo trình Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam GS.TS
Nguyễn Viết Thịnh (chủ biên), trong các công trình này các tác giả cũng đã nêu
ra những vấn đề lí luận và thực tiễn của nhóm ngành cây lương thực nói chung
và cây ngô nói riêng như: vai trò, đặc điểm sản xuất và phát triển, các vùng
trồng ngô chính của Việt Nam.
Trong quá trình đào tạo sau đại học của khoa Địa lý - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, cây ngô tỉnh Sơn La cũng đã được tác giả Tòng Thị Quỳnh
Hương đề cập một cách khái quát trong luận văn thạc sĩ Địa lí nông - lâm - thủy
sản tỉnh Sơn La. Tuy nhiên tác giả vẫn chưa đi sâu vào phân tích cũng như đánh
giá cụ thể và chi tiết về các nhân tố ảnh hưởng cũng như hiện trạng phát triển, cơ
cấu mùa vụ của cây ngô.
Trên địa bàn tỉnh Sơn La, đã một số đề tài nghiên cứu về cây ngô của tỉnh
Sơn La, các công trình nghiên cứu như: Sản xuất và tiêu thụ ngô Sơn La, Trần
Đình Thao, Nguyễn Tuấn Sơn, 2003, Trung tâm sinh thái nông nghiệp, Trường
Đại học Nông nghiệp 1 dài 12 trang. Đề tài nghiên cứu tình hình sản xuất và tiêu
thụ ngô tỉnh Sơn La tuy nhiên chưa đưa ra được cơ sở lí luận đầy đủ về điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cho sản xuất ngô cũng như chưa phân tích cụ thể
tình hình sản xuất theo từng mùa vụ cũng như sự phân bố ngô của tỉnh Sơn La.
Mà mới tập trung vào vấn đề sản xuất ngô trên phạm vi toàn tỉnh nói chung,
cũng như nghiên cứu sơ lược về thị trường của ngô Sơn La lúc bấy giờ.
Bài báo nghiên cứu Phát triển bền vững trên đất dốc trong canh tác ngô
nương hàng hóa ở Sơn La của Trần Bình Đà (Trường ĐH Lâm Nghiệp), Phạm
Đức Tuấn (Cục Lâm Nghiệp) trong tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn
số 134 năm 2009. Bài báo đã đánh giá khái quát tình hình sản xuất ngô nương
4


hàng hóa Sơn La, trên cơ sở đó xác định những vấn đề bất ổn đối với việc sử
dụng, quản lý và phát triển bền vững trên đất dốc.
Ngoài ra còn có các đề án, đề tài như: Đề án Định hướng và giải pháp
phát triển cây ngô vụ đông của các tỉnh phía Bắc của Bộ NN và PTNT năm
2011. Gần đây có công trình: So sánh một số giống ngô lai mới tại một số vùng
trồng ngô chính của tỉnh Sơn La của tác giả Hà Văn Lán, 2012 luận văn thạc sỹ
trường Đại học Nông nghiệp I. Song các công trình này vẫn chưa đi sâu vào tìm
hiểu thực trạng tình hình sản xuất và phân bố ngô của tỉnh Sơn La.
Tuy vậy, các nghiên cứu trên vẫn có những ý nghĩa nhất định đối với phát
triển KT - XH của tỉnh và cũng là nguồn tư liệu quý giá cho công tác nghiên cứu
tình hình sản xuất và phân bô ngô tỉnh Sơn La trong thời gian tới.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lí luận về Địa lí kinh tế - xã hội nói chung, Địa lí ngành
nông nghiệp nói riêng, đề tài tập trung đánh giá các nguồn lực, phân tích thực
trạng tình hình sản xuất và phân bố ngô, từ đó đề ra các giải pháp hợp lí góp
phần đẩy mạnh phát triển sản xuất cây ngô của tỉnh Sơn La.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lí luận về tình hình sản xuất và phân bố ngô để vận
dụng vào địa bàn tỉnh Sơn La.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển sản xuất và phân bố
ngô của tỉnh Sơn La.
- Phân tích thực trạng sản xuất ngô của tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó, làm rõ
bức tranh phát triển và phân bố ngô của một tỉnh miền núi trong thời kì công
nghiệp hóa.
- Đề xuất các giải pháp góp phần đẩy mạnh phát triển sản xuất và phân bố
ngô Sơn La hợp lý và bền vững.
5


3.3. Giới hạn của đề tài
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất và phân bố
ngô tỉnh Sơn La trên các mặt:
+) Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình sản xuất và phân bố ngô
của tỉnh Sơn La.
+) Phân tích thực trạng sản xuất ngô và sự phân hóa lãnh thổ sản xuất
ngô, có nghiên cứu đến các vùng chuyên canh ngô của tỉnh Sơn La.
- Về phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu lãnh thổ của toàn tỉnh, có sự phân
hóa tới cấp huyện. Bao gồm 11 huyện thị: thành phố Sơn La, thị xã Mộc Châu,
các huyện: Yên Châu, Mai Sơn, Mường La, Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Bắc Yên,
Phù Yên, Sông Mã, Sốp Cộp. (huyện Vân Hồ mới tách khỏi huyện Mộc Châu
9/2013)
- Về thời gian: Tập trung phân tích các số liệu từ năm 2000 đến 2012.
4. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống và lãnh thổ
Đây là quan điểm được thể hiện rộng rãi trong nghiên cứu địa lí, theo
quan điểm này, khi nghiên cứu một lãnh thổ nào đó phải đặt nó trong hệ thống
các thể tổng hợp tự nhiên và thể tổng hợp KT - XH. Khi nghiên cứu một vấn đề
cụ thể nào đó phải đặt nó trong mối tương quan với những vấn đề xung quanh,
(các yếu tố trong cấp phân vị cao hơn và thấp hơn nó), ví dụ khi nghiên cứu tình
hình sản xuất và phân bố ngô tỉnh Sơn La phải được xác định là một mắt xích,
một bộ phận có mối quan hệ chặt chẽ với các phần khác trong nền kinh tế của
tỉnh Sơn La đặc biệt là ngành nông nghiệp, của vùng kinh tế Tây Bắc, vùng
Trung du miền núi phía Bắc, trong nền kinh tế cả nước.
Đồng thời, cũng phải xem Sơn La như 1 hệ thống lãnh thổ kinh tế với
nhiều thành phần, không những là sự phát triển kinh tế trên các phương diện
6

ngành, thành phần nông nghiệp mà còn là sự phát triển toàn diện của cả nền kinh

tế theo một hệ thống bao gồm các bộ phận khác nhau về chính sách mở cửa, thu
hút đầu tư, thông thương trên địa bàn nhằm tạo điều kiện thu hút sự trao đổi, mở
rộng giao lưu phát triển.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp
Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của khoa học Địa lý. Nội
dung của quan điểm này được xem xét dưới 2 góc độ khác nhau:
Nghiên cứu đồng bộ, toàn diện các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, tài nguyên nhân văn, các yếu tố KT - XH, sự phân bố, quy luật phân bố
và biến động của chúng, những mối quan hệ tương tác, chế ngự lẫn nhau giữa
các hợp phần của thể tổng hợp Địa lý.
Nghiên cứu sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân
tích đồng bộ và toàn diện các yếu tố hợp phần của thể tổng hợp lãnh thổ kinh tế,
phát hiện và xác định các đặc điểm đặc thù của chúng.
Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài phân bố trên phạm vi không gian lãnh
thổ nhất định và có đặc trưng riêng nên việc áp dụng quan điểm tổng hợp cho
phép xem xét các yếu tố tác động đến tình hình sản xuất và phân bố ngô trong
phạm vi lãnh thổ đề tài nghiên cứu cũng như mối quan hệ chặt chẽ với tình hình
sản xuất và phân bố ngô với bộ phận lãnh thổ khác để tìm ra mối quan hệ, từ đó
đưa ra những chính sách, chiến lược phát triển hợp lí trên lãnh thổ nghiên cứu.
4.1.3. Quan điểm bền vững
Phát triển bền vững vừa được coi là quan điểm vừa được coi là mục tiêu
nghiên cứu trong các nghiên cứu Địa lý KT - XH. Đây cũng là mục tiêu của việc
phát triển cây ngô Sơn La nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung ở các vùng lãnh
thổ đặc biệt khó khăn, nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch về phát triển KT -
XH giữa các địa phương trong tỉnh, trong vùng và giữa các vùng trong cả nước.
Sơn La là tỉnh có nhiều tiềm năng và thế mạnh chưa được đánh thức và
khai thác triệt để cho phát triển KT - XH, đặc biệt là phát triển cây ngô - là cây
7

thế mạnh đặc biệt của tỉnh tuy nhiên trong quá trình sản xuất vẫn tồn tại nhiều

những bất hợp lý, cạn kiệt tài nguyên hay ô nhiễm môi trường cũng đã và đang
nảy sinh. Vì vậy, cần phải đảm bảo phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột kinh tế,
xã hội và môi trường.
4.1.4. Quan điểm lịch sử
Sơn La là vùng đất có bề dày lịch sử, là nơi cư trú của nhiều đồng bào dân
tộc ít người với bản sắc văn hoá lâu đời. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử với
những bước phát triển thăng trầm, đến nay, vùng đất này vẫn giữ được những
đặc điểm riêng biệt về tự nhiên, văn hoá và con người. Những đặc thù này là
điều kiện cho phát triển KT – XH trên địa bàn. Sử dụng quan điểm lịch sử để
nghiên cứu truyền thống sản xuất, đặc trưng văn hóa của các dân tộc để từ đó có
thể hoạch định những chiến lược phát triển KT – XH hợp lý trên địa bàn nói
chung, giúp cho việc phát triển cây ngô trên địa bàn có hiệu quả và bền vững
vừa tận dụng được những ưu thế trong kinh nghiệm gieo trồng của các đồng bào
dân tộc nơi đây, góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra, quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng một số quan điểm khác
như quan điểm kinh tế, quan điểm sinh thái, quan điểm dự báo…
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp này được sử dụng phổ biến hầu như trong tất cả các nghiên
cứu. Việc vận dụng phương pháp này đảm bảo tính kế thừa các nghiên cứu trước
đó, sử dụng các thông tin đã được kiểm nghiệm, công nhận và xã hội hoá, tiết
kiệm được thời gian và công sức. Việc phân loại, phân nhóm và phân tích dữ
liệu sẽ giúp phát hiện nhiều vấn đề trọng tâm và nhiều khía cạnh cần được tiếp
cận của vấn đề.
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được những kết quả phân tích, việc tổng
hợp sẽ giúp hệ thống hoá 1 cách toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Tài liệu cần thu thập gồm các tài liệu trong phòng và tài liệu ngoài thực địa.
8

4.2.2. Phương pháp thực địa

Thực địa là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu đối tượng địa lý. Việc
tiếp cận trực tiếp các đối tượng nghiên cứu cho phép thu thập các thông tin cập
nhật, cụ thể và chính xác là các tài liệu thành văn và các bản đồ không có ưu thế
bằng.
Với phương pháp này, chúng ta có thể chủ động quan sát, điều tra, thu
thập, phỏng vấn về những vấn đề mình quan tâm và nghiên cứu. Các kết quả
kiểm tra thực địa là cơ sở quan trọng để thẩm định lại tài liệu cũng như một số
vấn đề thế giới quan trong quá trình nghiên cứu.
4.2.3. Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin và bản đồ
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, đề tài còn sử dụng
một số công cụ hỗ trợ như các phần mềm Mapinfo, SPSS, Microsoft (Word,
Excel…) các công cụ này hỗ trợ đắc lực trong việc xử lý các số liệu thông tin để
làm cơ sở cho việc đánh giá hiện tượng và xu hướng phát triển của hiện tượng,
đồng thời là cơ sở dữ liệu để thành lập hệ thống bản đồ, biểu đồ nhằm góp phần
xác định các đặc điểm phân bố, mức độ tập trung của đối tượng nghiên cứu theo
không gian và thời gian.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp như: Điều tra xã hội
học, phương pháp dự báo, phương pháp thông kê, phương pháp so sánh…
5. Những đóng góp chủ yếu của đề tài
- Chọn lọc, kế thừa, đúc kết, bổ sung, cập nhật và làm sáng tỏ thêm các cơ
sở lý luận và thực tiễn cho đề tài, cụ thể là về tình hình sản xuất và phân bố ngô
tỉnh Sơn La.
- Làm rõ được những lợi thế, cơ hội cũng như những khó khăn thách thức
của các nhân tố tự nhiên và KT-XH cho sự phát triển sản xuất ngô tỉnh Sơn La.
- Đưa ra bức tranh tình hình sản xuất và phân bố ngô của tỉnh Sơn La
trong những năm gần đây.
9

- Đề xuất một số giải pháp để phát triển sản xuất ngô tỉnh Sơn La có hiệu
quả và bền vững trong tương lai.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 4 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
Chương II: Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố cây ngô tỉnh
Sơn La
Chương III: Thực trạng sản xuất và phân bố cây ngô tỉnh Sơn La
Chương IV: Định hướng và giải pháp phát triển sản xuất và phân bố ngô
tỉnh Sơn La đến năm 2020




10

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH SẢN
XUẤT VÀ PHÂN BỐ CÂY NGÔ
1.1. Cơ sở lí luận về cây ngô
1.1.1. Lịch sử phát triển của cây ngô
Ngô còn gọi là “bắp”, tên khoa học là Zea_mays. Trong tiếng Anh,
“maize” xuất phát từ tiếng Tây Ban Nha (maiz) là thuật ngữ trong tiếng Taino để
chỉ loài cây này, là từ thông dụng Vương quốc Anh để chỉ cây ngô. Tại Hoa Kỳ,
Canada và Australia, thuật ngữ này được sử dụng là corn, là từ trước đây dùng
để chỉ cho một loài cây lương thực, hiện nay thuật ngữ dùng để chỉ cây ngô.
Lịch sử nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khảo cổ, di truyền học, thực vật
học và địa lý học… quan tâm và đưa ra nhiều giả thuyết. Có giả thuyết cho là
nguồn gốc cây ngô có từ khoảng năm 5.500 tới năm 10.000 TCN. Những nghiên
cứu về di truyền học gần đây cho rằng quá trình thuần hóa ngô diễn ra vào
khoảng năm 7.000 trước Công nguyên tại miền trung Mexico và tổ tiên của nó là
loại cỏ Teosinte hoang dại, gần giống nhất với cây ngô hiện nay. Liên quan đến
khảo cổ học, người ta cũng đã phát hiện các bắp ngô cổ nhất trong các hang

động gần Tehuacan, Puebla, có niên đại vào khoảng 2.750 TCN. Một giả thuyết
cho rằng, có lẽ sớm nhất khoảng năm 1.500 TCN, ngô bắt đầu được phổ biến
rộng rãi. Ngô là lương thực chính của phần lớn các nền văn hóa tiền Columbus
tại Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ và các khu vực Caribe. Với người dân bản xứ
tại đây, ngô được suy tôn như bậc thần thánh và có tầm ảnh hưởng quan trọng về
mặt tôn giáo, do ảnh hưởng lớn của nó đến đời sống của họ. Việc gieo trồng ngô
đã lan rộng từ Mexico tới Tây Nam Hoa Kỳ, sau đó vào Đông Bắc nước này
cũng như Đông Nam Canada, làm biến đổi cảnh quan các vùng đất này do thổ
dân Châu Mỹ đã dọn sạch nhiều diện tích rừng và đồng cỏ để trồng ngô. Ngô lan
truyền sang Châu Âu và phần còn lại của thế giới sau có sự tiếp xúc của người
Châu Âu với người Châu Mỹ. Ngô được đưa vào Châu Âu, đầu tiên ở Tây Ban
Nha trong chuyến thám hiểm thứ hai của Colombus vào khoảng năm 1494.
Người Châu Âu đã nhận biết được giá trị của nó và nhanh chóng phổ biến rộng
11

rãi. Vào những năm đầu của thế kỷ XVI, bằng đường thủy các tàu Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Italia đã đưa cây ngô ra hầu hết các lục địa của thế giới. Năm
1517, cây ngô xuất hiện ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức, sau đó là Nam Châu
Âu và Bắc Phi. Năm 1521, Ngô đến với Đông Ấn Độ và quần đảo Indonesia.
Vào khoảng 1575 cây ngô đến Trung Quốc.
Cây ngô ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Theo truyền thuyết kể
rằng Tàu có giống ngọc mễ (ngô) mà nước ta lúc bấy giờ chưa có. Phùng Khắc
Khoan sinh năm 1528, quê ở làng Phùng Xá, tên Nôm là Kẻ Bùng, huyện Thạch
Thất, Sơn Tây. Ông được cử đi sứ nhà Minh năm 1597, khi ấy dân ta vẫn gọi là
nước Ngô. Trong thời gian đi xứ ông được nước Minh dọn cho ăn món này.
Nhận thấy loại hạt quí, ngon và bùi, ông lân la chỗ người Tàu để hỏi về cách
gieo trồng giống ngọc mễ. Khi về nước, ông đã dấu và mang theo về nước được
3 hạt ngọc mễ, tự mình gieo trồng và nhân giống. Giống ngọc mễ là do dân đất
Ngô trồng nên ông đã đặt tên là ngô cho dân dễ gọi. Mãi sau này, năm 1723
Theo Lê Quý Đôn, trong “Vân Đài loại ngữ” hồi đầu đời Khang Hy (1662 -

1762), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây, phủ Quảng Oai) sang
sứ nhà Thanh lấy được giống ngô đem về nước. Khắp cả Hạt Sơn Tây dùng ngô
thay cho gạo. Từ đó, ngô phổ biến rộng và phát triển khắp cả nước.
1.1.2. Vai trò của cây ngô
* Có giá trị sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành sản xuất
Ngô là một loại cây lương thực có giá trị sử dụng rộng rãi, không những
trong nông nghiệp mà còn trong các ngành sản xuất khác:
- Hạt ngô dùng làm lương thực cho con người và thức ăn cho chăn nuôi,
ngoài ra còn dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như lấy tinh bột
ngô để làm hồ vải hoặc dùng vào công nghiệp chế biến đường gluco, doxtrox,
deptrin, maldons, công nghiệp chế biến thực phẩm.
- Bẹ ngô dùng làm thảm hoặc chế biến giấy cuộn thuốc lá.
- Thân ngô dùng làm chất đốt hoặc nguyên liệu giấy sợi, thân ngô non
dùng làm thức ăn cho bò sữa rất tốt.
12

- Cùi ngô dùng làm chất đốt hoặc để tạo chất dẻo, nylon.
- Râu ngô được dụng làm dược liệu.
Hiện nay ở nước ta, cây ngô vẫn được dụng chủ yếu trong lĩnh vực sản
xuất thức ăn chăn nuôi, còn các ngành sản xuất khác mới chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ,
cần mở rộng trong thời gian tới. Do có nhiều công dụng và vị trí quan trọng
trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, còn các ngành sản xuất khác mới chiếm tỉ
trọng nhỏ trong sản xuất nông nghiệp nên ngô được trồng ở nghiệp trên thế giới.
* Là một loại cây xóa đói giảm nghèo, tăng thêm thu nhập cho người
nông dân
Mục đích cơ bản của các chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn là
phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống cho người nông dân. Với những
nghiên cứu sâu rộng của các cơ quan nghiên cứu, cây ngô đã nằm trong nhóm
cây lương thực cần phát triển trong tương lai. Với giá trị sử dụng và giá trị kinh
tế cao, cùng với khả năng nâng cao năng suất, cây ngô sẽ nâng cao mức thu

nhập cho người nông dân, từ đó đáp ứng được mục tiêu xã hội quan trọng là xóa
đói giảm nghèo.
* Sử dụng đất đai có hiệu quả, phá thế độc canh cây lúa
Với một nền nông nghiệp lúa nước trước kia, cây ngô thường được coi là
loại cây lương thực bổ sung. Nhưng hiện nay, với yêu cầu chuyển đổi, đa dạng
hóa cây trồng, việc phát triển ngô là phù hợp. Đi đôi với việc tăng năng suất,
chất lượng của cây ngô là việc chuyển đổi những vùng đất không thích hợp đối
với trồng lúa sang cây trồng có hiệu quả là ngô.
* Tiết kiệm được ngoại tệ
Cây ngô được phát triển sẽ làm giảm lượng ngô nhập khẩu, tiết kiệm được
ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước. Đây là một chỉ tiêu cần thiết trong điều kiện
nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển, rất cần tiết kiệm nguồn vốn
cho đầu tư phát triển các vấn đề cấp thiết khác.

13

Bảng 1.1: Một số thị trƣờng nhập khẩu ngô chủ yếu của Việt Nam
năm 2012
Thị trƣờng
Lƣợng (tấn)
Trị giá (USD)
Tổng
1.614.473
500.343.869
Ấn Độ
1.165.398
329.783.385
Achentina
238.885
75.087.298

Thái Lan
12.238
25.903.978
Campuchia
34.743
11.039.500
Hoa Kỳ
503
468.842
Nguồn: [1]
Từ năm 2012 trở lại đây nhu cầu dùng ngô trong nước cao hơn khả năng
cung ứng nên hàng năm nước ta vẫn phải nhập 1,5 - 2.0 triệu tấn ngô từ các
nước khác, theo dự báo với nhu cầu ngày càng tăng như hiện nay thì hết năm
2014 Việt Nam sẽ phải chi khoảng hơn 1 tỉ USD cho nhập khẩu ngô, con số lớn
nhất từ trước đến nay. Do vậy, việc tăng sản lượng ngô là việc cần thiết và cấp
bách hiện nay, nó phải được nằm trong chiến lược thay thế hàng nhập khẩu ở
Việt Nam.
* Phát triển cây ngô nhằm phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất
ngô: điều kiện tự nhiên (3/4 diện tích đồi núi, đất đai đa dạng với nhiều loại đất
phù hợp với sự phát triển cây ngô, khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng nhiệt và
ẩm cao thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của ngô. Hơn nữa, các điều
kiện kinh tế - xã hội: dân cư và nguồn lao động dồi dào, nhiều kinh nghiệm, thị
trường tiêu thụ rộng lớn, các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho sản xuất ngô
ngày càng hiện đại, Do vậy, phát triển ngô giúp Việt Nam tận dụng được
những ưu thế của mình, nâng cao năng lực sản xuất, phát triển nền kinh tế đất
nước.
1.1.3. Đặc điểm kinh tế của cây ngô
- Có khả năng nâng cao năng suất và sản lượng.
14


Năng suất ngô ở Việt Nam nhìn chung còn thấp, thấp hơn nhiều so với các
nước có ngành nông nghiệp phát triển trên thế giới. Năng suất ngô mới đạt trung
bình trên 40tạ/ha trong khi đó các nước: Mỹ, Úc, Pháp đã đạt hơn 80 tạ/ha. Do
đó, để có thể tiếp tục phát triển cây ngô, tạo cho nó một chỗ đứng trong nền
nông nghiệp, cần thiết phải nâng cao năng suất của cây ngô, mà điều này là có
thể đối với Việt Nam.
- Là một cây trồng quan trọng trong hệ thống cây lương thực quốc gia, sản
lượng lương thực đứng thứ 2 chỉ sau lúa, ở một số vùng miền núi khó khăn, cây
ngô vẫn còn đóng vai trò như nguồn lương thực chính của người dân trong cuộc
sống hằng ngày.
- Cây ngô dễ trồng, có giới hạn thích nghi sinh thái rộng, có giá trị kinh tế
cao. Mặt mạnh này làm cho cây ngô đang dần trở thành một cây trồng phổ biến,
được ưa chuộng của mọi người dân trên khắp các vùng miền. Nó tác động mạnh
đến tâm lí của mỗi người sản xuất là cây trồng phải đem lại lợi ích nhiều nhất và
rủi ro thấp nhất.
- Cần lượng vốn đầu tư không nhiều. Cũng như các loại cây lương thực
khác, cây ngô không cần vốn đầu tư ban đầu nhiều. Thích hợp với điều kiện
KTXH nước ta, đặc biệt với người nông dân.
- Cây ngô có hàm lượng dinh dưỡng cao, vừa làm thức ăn, vừa làm
nguyên liệu chế biến.
Bảng 1.2: Hàm lƣợng dinh dƣỡng của gạo, ngô, khoai, sắn
Loại
lƣơng thực
Hàm lƣợng
protein (%)
Hàm lƣợng
Lipit (%)
Hàm lƣợng
Gluxit (%)

Lƣợng Calo
cho 100g
Gạo
6.7
2.1
64.0
309.4
Ngô
9.0
5.0
67.0
364.0
Khoai
2.2
0.5
80.0
341.0
Sắn
3.0
0.7
80.3
348.0
Nguồn: [5]
Trong các sản phẩm lương thực như: gạo, ngô, khoai, sắn thì ngô là sản
phẩm có hàm lượng dinh dưỡng gần như cao nhất, hàm lượng protein và lipit
cao hơn nhiều so với các loại lương thực khác, riêng hàm lượng gluxit thấp hơn
15

khoai khô, sắn khô, còn lượng calo cho một đơn vị khối lượng cũng đứng đầu.
Ngô là một loại lương thực giàu dinh dưỡng nhưng không hợp nhiều với khẩu vị

con người. Do đó, ngô tươi là thức ăn bổ sung cho bữa ăn hàng ngày, còn phần
lớn lượng ngô dùng cho sản xuất thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp khác.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố ngô
1.1.4.1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí gắn liền với khả năng giao lưu kinh tế, ảnh hưởng quan trọng
đến sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế của quốc gia. Vị trí địa lí
của lãnh thổ kết hợp với đất liền, biển, với các quốc gia trong khu vực và nằm
trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh hưởng tới phương thức sản xuất, tới
việc trao đổi và phân công lao động [24]. Ví dụ, vị trí của Việt Nam nằm ở khu
vực nhiệt đới ẩm gió mùa đã quy định nền nông nghiệp nước ta là nền nông
nghiệp nhiệt đới. Các nông sản trao đổi trên thị trường thế giới cũng chủ yếu là
các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới.
Vị trí địa lí của sản xuất ngô tác động trực tiếp đến việc tiếp cận thị trường
tiêu thụ sản phẩm ngô. Do vậy có thể tạo ra lợi thế hay bất lợi thế cạnh tranh cho
một quốc gia, một vùng, một địa phương hoặc thậm chí một cơ sở sản xuất kinh
doanh nào đó. Vùng sản xuất ngô nếu nằm gần thị trường tiêu thụ sản phẩm
cũng như thị trường cung cấp đầu vào, kết hợp với hệ thống giao thông đi lại
thuận tiện không những cho phép giảm chi phí vận chuyển, giảm chi phí sản
xuất và chi phí tiêu thụ mà quan trọng hơn là còn cho phép thoả mãn nhu cầu
của thị trường về chất lượng và thời điểm cung cấp
1.1.4.2. Nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Từ những đặc điểm đặc thù của sản xuất ngô, có thể thấy rằng sự phát
triển và phân bố của ngô tùy thuộc nhiều vào các nhân tố tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên. Sự phân hóa những vùng chuyên canh, tiểu vùng nông nghiệp,
cũng gắn liền với những thay đổi của điều kiện tự nhiên. Tính mùa vụ trong sản
xuất, trong sử dụng lao động và các nguồn lực khác, trong việc trao đổi, giao lưu
16

sản phẩm cũng chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên

nhiên. Tính bấp bênh, không ổn định của nông nghiệp phần nhiều là do tai biến
thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Mỗi loại giống ngô chỉ có thể sinh trưởng và
phát triển trong một điều kiện tự nhiên nhất định. Các nhân tố tự nhiên có vai trò
đặc biệt quan trọng, trong đó nổi lên hàng đầu là đất, nước và khí hậu.
a. Đất trồng
Đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành sản xuất nông nghiệp
nói chung và canh tác ngô nói riêng. Không thể có ngành trồng trọt nếu như
không có đất đai. Quỹ đất, cơ cấu sử dụng đất, các loại đất, độ phì của đất có
ảnh hưởng lớn đến qui mô và phương sản xuất, cơ cấu và sự phân bố các giống
ngô chủ yếu, mức độ thâm canh và năng suất cây trồng. Đất không chỉ là môi
trường sống, mà còn là nơi cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng (các
chất khoáng trong đất như: N, P, K, Ca, Mg, và các nguyên tố vi lượng). Đồng
thời chất lượng đất tác động đến sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng, đến
năng suất và chất lượng ngô thu hoạch. Do vậy yếu tố đất trồng cũng có thể
mang lại lợi thế cạnh tranh nhất định cho người sản xuất kinh doanh đặc biệt là
khi nó góp phần tạo ra hương vị, tính chất ngô khác biệt so với sản phẩm cùng
loại khác.
Ngô là loại cây được đánh giá là thích hợp với nhiều loại đất.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách
quan. Trước hết nông nghiệp khác cơ bản với ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất
chủ yếu là đất đai, không có ngành nào đất đai đóng vai trò chủ đạo như trong
nông nghiệp. Ngô là loại cây trồng có khả năng mọc trên nhiều loại đất khác
nhau (nếu có đủ ẩm). Để có năng suất cao thì ngô thường trồng trên các loại đất
có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt trung bình, có độ thấm nước và kết cấu
tơi xốp, có chế độ giữ nước tốt, giàu dinh dưỡng, độ PH từ 6 -7. Trên thực tế,
ngô thích hợp với đất đỏ bazan. Ngoài ra ngô cũng có thể trồng năng suất cao ở
vùng đất phù sa cổ, đất đỏ vàng, đất bạc màu nếu có chế độ thâm canh tốt.
17

Những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu trên thế giới đều là những vùng nông

nghiệp và vùng sản xuất ngô nổi tiếng trên thế giới: Hoa Kỳ, Braxin,
Achentina,
Tài nguyên đất nông nghiệp rất hạn chế, chỉ chiếm 12% diện tích tự nhiên
của toàn thế giới. Ở Việt Nam tương ứng là 28,5% với 9,3 triệu ha. Xu hướng
bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày càng giảm do sự gia
tăng dân số, sói mòn, rửa trôi, hoang mạc hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng.
Vì vậy, trong nông nghiệp nói chung và trong ngành trồng ngô nói riêng, con
người phải khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên quí giá này.
b. Địa hình
Địa hình là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân
bố ngô. Địa hình với các đặc điểm cơ bản về độ cao so với mặt nước biển, độ
dốc, độ chia cắt sẽ có ảnh hưởng đến việc quy hoạch, bố trí vùng trồng ngô và
ảnh hưởng đến khả năng mở rộng diện tích vùng trồng [24]. Hơn nữa, canh tác
ngô trên những điều kiện đất có độ dốc lớn sẽ ảnh hưởng đến điều kiện canh tác,
bởi vấn đề thủy lợi sẽ không được phát triển so với những khu vực có độ dốc
nhỏ, công tác xây dựng và hoạt động các công trình thủy lợi cũng khó khăn, hạn
chế phạm vi hoạt động. Mặt khác, địa hình có độ dốc lớn là một trong những
nguyên nhân gây nên các hiện tượng xói mòn, trượt lở, thoái hóa đất, Đặc biệt
trong điều kiện mưa mùa như Việt Nam, vấn đề canh tác ngô lại càng khiến việc
xói mòn đất diễn ra nhanh chóng (nhất là trong thời kỳ đầu, cây ngô chưa đủ lớn
để tạo nên lớp phủ bề mặt cho đất).
c. Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió
và cả những bất thường của thời tiết như: bão, lũ, hạn hán, gió nóng, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự xuất hiện, tồn tại, sinh trưởng và phát triển của cây ngô.
Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
18

Là loại cây lương thực ngắn ngày, có thể trồng theo nhiều mùa vụ khác
nhau (đông - xuân, xuân - hè, vụ thu). Một vụ gieo trồng cho đến khi thu hoạch

của ngô kéo dài trong khoảng 4 tháng. Là cây ưa nóng, phát triển tốt trên đất ẩm,
nhiều mùn, dễ thoát nước với điều kiện nhiệt độ trung bình từ 20 - 30
0
C, tổng
nhiệt cần 2.000 - 2.2.00
0
C, lượng mưa từ 400 - 500mm/năm. Ngô là cây dễ tính,
dễ thích nghi với các dao động của khí hậu.
Đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa là nhiều nắng, lượng mưa nhiều,
độ ẩm trung bình cao, là điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loại thực
vật; là điều kiện tốt để tiến hành xen canh, gối vụ, quay vòng ruộng đất, thâm
canh tăng năng suất ngô.
Mỗi loại giống ngô lại thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định.
Vượt quá ngưỡng cho phép chúng sẽ chậm phát triển, thậm chí bị chết. Vì vậy,
cần phải quan tâm đến yếu tố này trong việc lựa chọn quy hoạch vùng trồng, lựa
chọn các giống phù hợp để đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất.
Những vùng dồi dào về nhiệt, ẩm, lượng mưa, thời gian chiếu sáng, cường độ
bức xạ có thể cho phép trồng nhiều vụ trong năm, có khả năng xen canh gối vụ.
d. Nguồn nước
Muốn duy trì các hoạt động sản xuất trồng trọt cần phải có đầy đủ nguồn
nước cho cây trồng. Nước ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng.
Những nơi có nguồn cung cấp nước dồi dào, thường xuyên là những vùng nông
nghiệp trù phú. Ngược lại, những vùng khan hiếm nguồn nước thường rất khó
khăn cho ngành sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng thiếu nước vào
mùa khô và thừa nước vào mùa mưa người ta đã xây dựng những công trình
thủy lợi, hồ chứa, để phục vụ tưới tiêu một cách chủ động. Sự suy giảm nguồn
nước ngọt là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn tại của ngành nông nghiệp
nói chung và ngành trồng trọt nói riêng. Vì vậy, chúng ta cần phải sử dụng hợp
lí, tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước.
e. Sinh vật

Sinh vật trong tự nhiên là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây
trồng, vật nuôi. Sự đa dạng về sinh vật, đặc biệt về thảm thực vật là tiền đề hình
19

thành các giống cây trồng, vật nuôi và tạo khả năng chuyển đổi ngành nông
nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái.
Trên thế giới, sản lượng lương thực (lúa, ngô, khoai, ) và các cây công
nghiệp quan trọng khác tập trung chủ yếu ở vùng nhiệt đới bởi vì tại đây có tới
6/10 trung tâm phát sinh giống cây trồng.
Bên cạnh đó, với một quốc gia có điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
cũng là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loại sâu bệnh, dịch hại.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, sản lượng và chất lượng ngô.
1.1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
a. Thị trường tiêu thụ
- Thị trường đầu ra là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định
đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá nói chung và sản xuất kinh
doanh ngô nói riêng. Thông qua thị trường, giá trị hàng hoá được thể hiện thông
qua giá cả. Ngô là thực phẩm đáp ứng nhu cầu cho con người và các hoạt động
sản xuất của người dân vì vậy nếu nhu cầu của con người ngày một tăng thì sẽ
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhưng nhu cầu của con người phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng của sản phẩm. Nếu như giá ngô quá cao thì
người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng các thực phẩm khác có giá trị dinh
dưỡng tương đương. Hoặc ngày nay khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu
sản phẩm chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi sản phẩm của ngô ngày càng
phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng trực tiếp cũng như phục vụ
sản xuất.
- Thị trường yếu tố đầu vào có ảnh hưởng trực tiếp đến mặt cung sản
phẩm ngô và ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất ngô. Thị trường các yếu tố đầu
vào như lao động, vốn, vật tư (giống, phân bón, hoá chất, dịch vụ ) càng phát
triển và hoạt động có hiệu quả thì không những có thể đáp ứng tốt nhu cầu đầu

vào của sản xuất ngô về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại, thời điểm mà còn
20

cả phương diện giá cả, góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
b. Dân cư và nguồn lao động
- Dân cư và lao động có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất ngô dưới 2 góc
độ: là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ nông sản.
+ Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm nông
nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển theo chiều
rộng (mở rộng diện tích, khai hoang) và chiều sâu (thâm canh, tăng vụ, ).
Những cây trồng đòi hỏi nhiều công chăm sóc thường được phân bố ở những
khu đông dân cư, nhiều lao động và ngược lại. Hơn nữa, sản xuất ngô nói riêng
và sản xuất nông nghiệp nói chung là hoạt động cần nhiều lao động. Ở các nước
đang phát triển, nông nghiệp tập trung nhiều lao động hơn hẳn so với các ngành
khác, trung bình thường chiếm 60 - 80% lao động (ở Việt Nam tỷ lệ này là
75%). Đối với cây ngô ở nước ta, việc gieo trồng và thu hoạch vẫn sử dụng sức
lao động của con người là chủ yếu, máy móc còn rất ít và chủ yếu trong khâu
làm đất. Với đặc điểm này, việc phát triển ngô sẽ góp phần giải quyết một phần
số lao động thất nghiệp ở nông thôn.
Nguồn lao động không chỉ xem xét về mặt số lượng mà cả về mặt chất
lượng như trình độ học vấn, tỉ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp, tình trạng
thể lực của người lao động, Nếu nguồn lao động đông, tăng nhanh, trình độ học
vấn hay tay nghề thấp, thiếu việc làm sẽ trở thành gánh nặng cho nông nghiệp
(trong đó có sản xuất ngô) nói riêng và cả ngành kinh tế nói chung.
+ Dưới góc độ là người tiêu thụ, cần quan tâm đến truyền thống, tập quán
ăn uống, quy mô dân số với khả năng sản xuất lương thực thực phẩm. Ở Việt
Nam, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh tế,
nhu cầu lương thực để phát triển ngành chăn nuôi cũng rất lớn đã tạo tiền đề cho
ngành sản xuất ngô phát triển. Tuy nhiên, hiện nay nguồn ngô trên thực tế vẫn

chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước.

21

c. Khoa học công nghệ
- Khoa học công nghệ: thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển của ngành sản xuất ngô. Nhờ những nghiên cứu, ứng dụng các tiến
bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, con người đã tạo ra những giống
ngô lai mới, năng suất cao, phù hợp với nhiều điều kiện sinh thái.
Các biện pháp như: cơ khí hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa
nếu được áp dụng rộng rãi thì năng suất trên một đơn vị diện tích của người lao
động sẽ thực sự được nâng cao.Trên thế giới có sự chênh lệch rất lớn về năng
suất lao động ở các nước phát triển, bình quân một lao động nông nghiệp có thể
sản xuất từ 8 - 10 tấn lương thực, trong khi các nước phát triển trung bình chỉ 1
tấn lương thực/người/năm.
Trong bối cảnh sự cạnh tranh ngày càng gia tăng hiện nay thì sự tiến bộ
khoa học công nghệ và việc ứng dụng chúng vào quá trình sản xuất trở nên quan
trọng góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường trong
nước và quốc tế.
- Công nghệ về giống
Công nghệ nhân giống (nghiên cứu, lai tạo giống) có ảnh hưởng rất lớn đến
số lượng, chất lượng và giá thành hạt giống sản xuất ra. Những tiến bộ về giống
cho phép tạo ra các giống ngô cho hạt năng suất cao, thời vụ thu hoạch đa dạng,
có khả năng thích ứng rộng hơn, phát triển trên những điều kiện khắc nghiệt, chu
kỳ sản xuất nhanh hơn để có thể đa dạng hoá sản xuất, tăng vụ Hiện nay ở nước
ta công tác nghiên cứu về giống đã được đầu tư và tiến bộ rất nhiều tạo ra nhiều
giống ngô cho năng suất chất lượng cao, khả năng kháng bệnh tốt. Các trung tâm
nghiên cứu như: Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, Viện Nghiên
cứu ngô, Viện Di truyền nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I,
- Công nghệ sản xuất

Công nghệ sản xuất ngô là hệ thống quy trình sản xuất các biện pháp kỹ
thuật trong khâu trồng như làm đất, chọn mật độ trồng, kỹ thuật trồng, trong
22

khâu chăm sóc như tưới nước, bón phân, kích thích sinh trưởng, phòng trừ sâu
bệnh có tác động đến năng suất, chất lượng của ngô. Nếu như công nghệ sản
xuất tiên tiến sẽ cho phép cây sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất cao hơn, có
khả năng thích nghi với các điều kiện sinh thái khác nhau, sản phẩm tránh được
hao hụt sau thu hoạch. Tuy nhiên, để áp dụng thành công các biện pháp đó đòi
hỏi người trồng ngô phải không ngừng học hỏi, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm
thực hiện, phải kết hợp giữa công nghệ truyền thống và công nghệ sản xuất tiên
tiến một cách thích hợp nhất.
- Công nghệ bảo quản và chế biến
Công nghệ bảo quản có vai trò quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng
sản phẩm sau thu hoạch. Nếu như thu hoạch xong mà không có các biện pháp,
cơ sở vật chất để bảo quản ngô khi chưa bán được ngay thì sẽ dẫn đến bị hỏng,
sản lượng bị hao hụt, chất lượng giảm và giá trị của sản phẩm cũng theo đó giảm
xuống.
Công nghệ chế biến ngô có ảnh hưởng quan trọng đến sản xuất kinh
doanh, công nghệ chế biến làm tăng giá trị sản phẩm ngô, cho phép đa dạng hóa
các sản phẩm từ ngô phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn của người dân.
Nó cũng cho phép kéo dài thời gian tiêu thụ ngô, cho phép vận chuyển đi xa và
bảo quản dài ngày hơn,…Nhờ vậy công nghệ chế biến tác động tới hoạt động
xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ngô. Các phương pháp chế biến
hiện nay gồm: chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm cho người như:
ngô bao tử, rượu ngô, ngô nổ, ngô ngọt, bột ngô,
d. Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp
Có ảnh hưởng rất lớn đến con đường phát triển và các hình thức sản xuất
ngô. Chính sách khoán ở Việt Nam là một ví dụ. Các hộ nông dân được giao
quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển sản xuất, được tự do trao đổi hàng

hóa, mua bán vật tư. Kinh tế nông dân đã tạo đà cho việc khai thác có hiệu quả
mọi tiềm năng sẵn có, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam tăng lên rõ rệt.
23

Ngoài ra, các chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân đã thúc
đẩy nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Các nhân tố khác: cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật, tất cả tạo
thành một hệ thống cùng thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp nói
chung và sản xuất ngô nói riêng.
1.1.5 Các tiêu chí đánh giá tình hình sản xuất và phân bố ngô cấp tỉnh
a. Nhóm tiêu chí đánh giá kết quả sản xuất cây ngô
- Các chỉ tiêu hiện vật: Kết quả sản xuất ngô về mặt hiện vật được phản
ánh ở ba chỉ tiêu chủ yếu là diện tích, năng suất và sản lượng.
- Các chỉ tiêu giá trị: Kết quả sản xuất ngô về mặt giá trị thường được
phản ánh ở các chỉ tiêu chủ yếu là:
- Giá trị sản xuất
- Giá trị sản xuất trên hecta đất canh tác
- Tỷ suất hàng hoá.
* Giá trị sản xuất (GTSX)
GTSX là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị của sản phẩm
vật chất và dịch vụ sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Giá trị sản xuất có
thể tính theo giá so sánh hoặc giá thực tế. Đối với tính GTSX của hoạt động
trồng trọt, thống kê quốc gia quy định bằng sản lượng sản xuất trong năm nhân
với giá bán của người sản xuất bình quân trong năm. Giá bán của người sản xuất
bình quân trong năm lấy từ bảng cân đối sản phẩm trồng trọt hoặc đơn giá bản
sản phẩm trồng trọt của các hộ nông dân điều tra ở chợ nông thôn.
* Giá trị được tạo ra trên một hecta đất canh tác (còn gọi là hiệu quả sử
dụng đất)
Công thức tính G = P/S
Trong đó:

P: Giá trị sản xuất (triệu đồng)
24

S: Diện tích gieo trồng (ha)
G: GTSX/ha đất canh tác (triệu đồng/ha)
Đây là chỉ tiêu cụ thể nhất phản ánh hiệu quả của sản xuất ngô, thể hiện
khả năng tăng năng suất bằng việc áp dụng các biện pháp KHKT, cải tiến kỹ
thuật sản xuất, cải tạo đất. Tiềm năng về diện tích cũng như độ phì tự nhiên là có
giới hạn, vì vậy trên cùng một diện tích đất canh tác, giá trị sản phẩm được tạo
ra càng nhiều khi sử dụng hiệu quả các biện pháp kỹ thuật, thâm canh, tăng vụ,
tăng năng suất và việc lựa chọn giống năng suất hiệu quả kinh tế cao.
* Tỷ suất hàng hóa trong tổng sản phẩm người sản xuất
Do sản xuất hàng hoá là quá trình sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán,
nên chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh trình độ của sản xuất hàng hoá là chỉ tiêu tỷ
suất sản phẩm hàng hoá trong tổng sản phẩm của người sản xuất. Chỉ tiêu này có
thể tính bằng tỷ lệ về mặt hiện vật, nếu trong cơ cấu sản phẩm là đồng nhất, có thể
so sánh được về lượng hiện vật. Ví dụ, trong sản xuất ngô, nếu sản phẩm của hộ
nông dân chỉ là ngô, thì tỷ trọng sản phẩm hàng hoá có thể được tính bằng cách so
sánh giữa lượng ngô hàng hoá với lượng ngô đã được sản xuất ra.
b. Nhóm chỉ tiêu đánh giá sự phân bố ngô cấp tỉnh
Sự phân bố ngô của tỉnh Sơn La, tác giả thông qua những chỉ tiêu về các
hình thức tổ chức lãnh thổ trong nông nghiệp nói chung và trong ngành sản xuất
ngô nói riêng.
* Phân bố ngô theo các vùng chuyên canh
Đây là hình thức tổ chức lãnh thổ sản xuất tương đối phổ biến ở các nước
cũng như Việt Nam. Trên một lãnh thổ xác định có ranh giới ước lệ, các hoạt
động nông lâm ngư nghiệp được tổ chức một cách hợp lí, có sự tập trung cao và
có quy mô lớn nhằm đem lại hiệu quả cao trên cơ sở có kết cấu hạ tầng tốt và gắn
với vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến có tính tới sức chứa lãnh thổ.
Từ quan niệm trên ta có thể thấy đặc trưng của vùng chuyên canh là:

25

- Vùng tập trung diện tích đất đai thuận lợi cho phát triển của một cây
trồng, vật nuôi nào đó. Diện tích đất phải lớn hoặc tương đối lớn. Nhìn chung,
tùy theo quy mô diện tích đất đai của từng vùng mà có thể có các vùng chuyên
canh lớn, gắn với nhiều nhà máy chế biến và diện tích của các vùng chuyên canh
này có thể nằm trên các huyện khác nhau của nhiều tỉnh. Nhiều vùng chuyên
canh có quy mô nhỏ chỉ nằm trong phạm vi một vài huyện trong một tỉnh.
- Sản xuất các vùng chuyên canh phải cho năng suất cao, áp dụng các tiến
bộ KHKT.
- Tại các vùng chuyên canh có các nhà máy chế biến và mối liên kết kinh
tế được thể hiện rõ giữa các vùng nguyên liệu với các nhà máy chế biến. Như
vậy, sản xuất nông nghiệp tại các vùng chuyên canh sẽ mang tính đồng bộ, hợp
lí hơn và đặc biệt sẽ nâng cao chất lượng hàng hóa thông qua chế biến và tạo thị
trường ổn định.
- Các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế của vùng chuyên canh
+ Quy mô của vùng chuyên canh: thể hiện quy mô sản xuất của vùng
chuyên canh so với diện tích đất của vùng. Được tính bằng tỉ số giữa diện tích
đất vùng chuyên môn hóa trên diện tích đất nông nghiệp của tỉnh.
+ Tỉ suất sản phẩm chuyên môn hóa của vùng: là chỉ tiêu thể hiện quy mô
sản xuất, vai trò của vùng chuyên canh đối với ngành nông nghiệp.
Cách tính: sản lượng sản phẩm chuyên canh chuyên môn hóa của vùng so
với sản phẩm đó của tỉnh.
+ Mức độ liên kết với công nghiệp chế biến: số lượng các nhà máy, xí
nghiệp chế biến , mối quan hệ giữa vùng chuyên canh với các cơ sở chế biến.
* Phân bố ngô theo tiểu vùng nông nghiệp
Tiểu vùng nông nghiệp là hình thức biểu hiện ở phạm vi cấp tỉnh của
vùng nông nghiệp. Tùy theo đặc điểm tự nhiên của từng tỉnh mà có thể có một
vài vùng nông nghiệp chỉ phù hợp với đặc điểm sinh thái. Trong mỗi tiểu vùng

×