Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

THỰC TRẠNG NHU CẦU GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT - TRƯỜNG ĐHSP KỸ THUẬT HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.14 KB, 78 trang )

M ỤC L ỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó không
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong
mọi lĩnh vực hoạt động.
Đối với nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp hình thành và phát triển nhân cách giáo viên mà còn là bộ phận cấu thành hoạt
động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo
viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động dạy và học.
Nếu không có giao tiếp thì không thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và trò vào việc
đạt được mục đích giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo nghề sư
phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động chuẩn bị cho mình về năng lực
giao tiếp.
8
Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những nơi đào tạo nghề cho
những nhà giáo tương lai phục vụ công tác xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
của xã hội. Hành trang của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên ngoài tư cách, phẩm
chất, đạo đức, nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người còn phải vững mạnh về chuyên
môn và giỏi về nghiệp vụ sư phạm, trong đó có năng lực giao tiếp. Vì vậy, việc rèn
luyện năng lực giao tiếp mà cụ thể là kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh
viên sư phạm là vấn đề thiết yếu.
Khoa Sư phạm Kỹ thuật của Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là nơi đào tạo đội
ngũ giáo viên Kỹ thuật công nghiệp cho các trường THPT. Với đặc điểm công việc
giảng dạy trên đối tượng là những học sinh đang độ tuổi phát triển mạnh về nhận thức
cũng như tâm sinh lý nên kỹ năng giao tiếp lại càng là vấn đề cấp thiết đối với mỗi sinh
viên của khoa. Trên thực tế địa điểm của trường đặt tại vùng nông thôn nên môi trường
giao tiếp của sinh viên trong khoa cũng như trong trường đã bị hạn chế đi rất nhiều, bên
cạnh đó là vấn đề về sự chênh lệch giới, về thái độ giao tiếp của từng sinh viên,…cũng
làm ảnh hưởng không ít đến kỹ năng giao tiếp.


Để khắc phục những khó khăn ấy và rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên
Khoa Sư phạm Kỹ thuật thì một hệ thống bài tập tình huống giao tiếp là vô cùng cần
thiết . Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện
tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp
,Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên”. Với hy vọng góp phần nhỏ bé nhằm rèn luyện kỹ
năng giải quyết vấn đề, nâng cao khả năng giao tiếp cho các bạn sinh viên trong khoa -
những nhà giáo ưu tú tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giao tiếp là một phần không thể thiếu của con người, đặc biệt là sinh viên nói
chung và sinh viên Sư phạm nói riêng - Những nhà giáo dục tương lai của đất nước.
Hiện nay, giao tiếp hay cụ thể hơn là kỹ năng giao tiếp ngày càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết trong thời đại xã hội ngày càng văn minh. Kỹ năng giao tiếp có tốt
9
hay không thế hiện rõ nét nhất trong cách ứng xử, giải quyết tình huống giao tiếp diễn ra
hàng ngày xung quanh mỗi chúng ta.
Thực tế đã có rất nhiều người nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ năng giải
quyết tình huống trong giao tiếp, có thế kể đến như Nhà giáo ưu tú Trần Trọng Thuỷ
(Trong cuốn “Bài tập thực hành tâm lý”), Ths Nguyễn Đình Chắt (với đề tài Thạc sĩ “Kỹ
năng giải quyết tình huống sư phạm của sinh viên trường CĐSP Đà Lạt – Lâm Đồng),
Ths Lê Quang Sơn (với bài viết “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên Trường Cao đẳng Sư
phạm Quảng Trị” trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng - Số 2
(25).2008),… Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống các bài tập tình huống giao tiếp
nói chung cho sinh viên Sư phạm để nâng cao kỹ năng giao tiếp trên nhiều mặt vẫn còn
ít được chú ý. Việc nghiên cứu của các tác giả hầu hết trên những tình huống giao tiếp
sư phạm và ứng xử sư phạm.
Vì vậy, tôi thấy cần thiết phải đi sâu vào nghiên cứu nội dung này với hy vọng
xây dựng được một hệ thống các tình huống giao tiếp điển hình trên nhiều mặt để nâng
cao một cách hiệu quả kỹ năng giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật công nghiệp -
Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên.
3. Mục đích nghiên cứu

Xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết
tình huống trong giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP
Kỹ thuật Hưng Yên
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp luyện tập giải quyết tình huống giao tiếp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
10
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
5.2. Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, thực trạng kỹ năng giao tiếp và giải quyết tình huống
giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật
Hưng Yên.
5.3. Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống
giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật
Hưng Yên
6. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, những tình huống giao tiếp nói chung là vô hạn nên
trong phạm vi đề tài của mình tôi chỉ xây dựng những bài tập tình huống điển hình, phù
hợp với nhu cầu giao tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật cũng như phù hợp với
những kỹ năng thiết yếu trong giao tiếp.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được dùng trong suốt quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài, từ
việc xây dựng đề cương nghiên cứu vấn đề đến việc xác định cơ sở lý luận của
giao tiếp và xây dựng hệ thống bài tập tình huống. Số lượng tài liệu tham khảo là
trên 10 sách và tư liệu có liên quan (xem phần Tài liệu tham khảo)
7.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết

Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu lý thuyết về giao tiếp để xây dựng
những bài tập tình huống phù hợp nhất.
7.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Phiếu điều tra đảm bảo tính khách quan, tổng hợp, gồm 95 câu hỏi về 4 lĩnh vực
là: Nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, mức độ cởi mở của cá nhân và kỹ năng
giao tiếp, yêu cầu sinh viên chọn ý kiến phù hợp với mình. Từ đó dựa vào barem
điểm, cho điểm các phiểu điều tra.
11
Phiếu điều tra được phát ra hơn 200 phiếu trên hơn 200 đối tượng là sinh viên các
lớp: KTK3, KTK4.2, KTK5.1, KTK5.2, KTK6.1, KTK6.2, KTK7, KTK39,
KTK6LC. Tổng số phiếu thu được là 200 phiếu.
7.4. Phương pháp quan sát
Qua quan sát những biểu hiện trong các mặt hoạt động để tìm hiểu thực trạng nhu
cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên.
7.5. Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Qua trao đổi trò chuyện với sinh viên, với cán bộ Đoàn, cán bộ lớp để tìm hiểu
tâm tư, nguyện vọng của sinh viên, thái độ của họ trong khi trả lời các phiếu điều
tra, từ đó phát hiện ra yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao
tiếp.
7.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhóm phương pháp này được thực hiện trong việc đưa ra các nhận định, luận cứ
có tính thực tiễn, có độ tin cậy cao trong phần tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao
tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật, nêu ra những nguyên nhân hạn chế
của việc giao tiếp và xử lý tình huống giao tiếp, tổng kết rút kinh nghiệm từ nhiều
chuyên gia về kỹ năng giao tiếp.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp logic, toán học thống kê,… trong việc lập
bảng và phân tích số liệu,…
12
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TÌNH

HUỐNG TRONG GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con người.
Nên khái niệm giao tiếp được giải thích cũng rất đa dạng và có nhiều bàn cãi trong lĩnh
vực này.
nhận thông tin trao đổi giữa người với người.
T.Chuc Com (Mỹ): Giao tiếp là sự tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách dẫn
đến việc hình thành những ý nghĩa biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động. Quan
niệm này cụ thể hơn, đề cập đến các yếu tố tham gia trong giao tiếp nhưng chưa nêu
được bản chất của giao tiếp.
T.Stéc Sen (Pháp) đặc biệt chú ý đến sự thay đổi ý nghĩa, tình cảm và xúc cảm
giữa con người với con người và khi đó ông coi sự trao đổi này là quá trình hai mặt của
sự thông báo thiết lập, sự tiếp xúc và trao đổi thông tin.
13
L.X. Vưgôtxki (nhà tâm lý học Liên Xô) cho rằng: Giao tiếp xem như là sự thông
báo hoặc quan hệ qua lại thuần tuý giữa con người, như là sự trao đổi quan điểm và xúc
cảm (L.X.Vưgôtxki).
Ngày nay, cùng với việc xây dựng một cách tích cực và khoa học hệ phương pháp
nghiên cứu giao tiếp thì bản chất, hiện tượng giao tiếp cũng được lý giải ngày càng đầy
đủ và rõ ràng. Ở một khái niệm chung nhất chúng ta có thể hiểu: Giao tiếp là sự tác
động qua lại giữa con người với con người, mà trong quá trình của nó nảy sinh sự tiếp
xúc tâm lý, được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự ảnh hưởng lẫn nhau, sự rung cảm
lẫn nhau, sự hiểu biết lẫn nhau, và cuối cùng là những quan hệ qua lại giữa con người
với con người được thực hiện, được thể hiện và được hình thành.
1.1.2. Vai trò của giao tiếp
Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong khoa
học và cuộc sống.
Người ta không thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc lập, không
phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người không phải là trừu

tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà của tất cả những mối quan hệ xã hội” (Mác – Anghen “Tuyển tập” –
Nhà xuất bản sự thật Hà Nội, 1971)
Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người biểu thị
mối liên hệ của con người với những người khác cũng như với những đối tượng và
những hoàn cảnh có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với họ và quy định vị trí cá nhân
trong môi trường xã hội. Nói cho thật đúng thì tất cả những nhu cầu của một người riêng
lẻ đều chỉ có thể thoả mãn khi tính đến những nhu cầu của những người xung quanh.
Đồng thời cơ cấu nhu cầu càng phức tạp thì quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người này
với người khác càng tăng. Chẳng hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn
được người khác tôn trọng lại có thể thoả mãn ngoài mối liên hệ với những người xung
quanh.
14
Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con người như
là con người xã hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại con người. Chính vì vậy
mà nhiều nhà bác học thuộc lĩnh vực tâm lý học cũng quan tâm đến vấn đề giao tiếp.
Chẳng hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã nói: “Con người là nhu cầu quan trọng của con
người, con người sẽ bị mất mát nhiều nếu họ không thể so sánh được mình với người
khác, không thể trao đổi được với người khác về các ý nghĩ, không thể định hướng được
vào người khác. Căm thù người khác còn tốt hơn là phải sống cô đơn”
Hơn nữa, trong quá trình giao tiếp với nhau, người ta trao đổi quan niệm với nhau. Trong
quan niệm của họ thể hiện thái độ đánh giá về mặt trí tuệ của họ đối với những mặt khác
nhau của đời sống thực tế, của đời sống vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có
thể giống nhau và như thế thì củng cố lẫn nhau và trở thành cơ sở cho hoạt động chung
và cho cách xử sự (giống nhau) của những người ấy. Những quan niệm giống nhau sẽ
củng cố thái độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong trường hợp có những quan
niệm khác nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm dẫn đến việc hình thành quan điểm
chung.
Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và chính như
thế là nâng cao trình độ văn hoá chung của tập thể cũng như của mỗi thành viên trong

đó. Điều quan trọng không phải là bản thân các kiến thức được truyền đạt lại mà là thái
độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều đó giải thích tại sao lại có sự lựa chọn thiên
lệch đối với một số nghề nghiệp, sách báo phổ biến, khoa học, tác phẩm nghệ thuật nào
đó – Do ảnh hưởng của chúng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là “mốt” trong
nhận thức thẩm mỹ. Và trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi cho nhau các
kinh nghiệm riêng về cuộc sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của nhau
nhằm mục đích tạo nên sự thống nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề xã hội một cách
có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một nhân
cách qua quá trình giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực của mình
15
trong sự thống nhất với người khác. Từ đó, có được tình đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ
lẫn nhau, lòng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cô lập. Đặc biệt qua quá trình giao
tiếp, con người có được ấn tượng mới và thông tin mới, truyền thụ cho nhau những kinh
nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của
mỗi cá nhân.
1.1.3. Chức năng của giao tiếp
1.1.3.1. Chức năng xã hội
Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức năng thông
tin của giao tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thông (trao đổi
thông tin) của giao tiếp: Qua giao tiếp, con người trao đổi cho nhau những thông tin nhất
định. Những thông tin này sẽ có ý nghĩa về nhiều mặt như kiến thức, tâm lý, cảm xúc.
Sự thiếu thông tin sẽ làm cho con người cảm thấy lạc lõng và cô đơn, mất đi tính cộng
đồng vốn có.
Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức nhất định.
Đó có thể là gia đình,lớp học, trường học, công ty,… Và trong một tổ chức, một công
việc thường do nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực hiện. Để có thể hoàn thành công
việc một cách tốt đẹp, những bộ phận, những con người này phải thống nhất với nhau,
tức là phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy họ phải tiếp xúc với nhau để
trao đổi, bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến quy trình,

cách thức thực hiện công việc và trong quá trình thực hiện cũng phải có những “tín hiệu”
để mọi ngươi hành động một cách thống nhất. Đây chính là chức năng tổ chức phối hợp
hành động của giao tiếp.
Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh tác động ảnh hưởng qua lại của
giao tiếp. Trong giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người khác và ngược lại,
người khác cũng tác động, ảnh hưởng đến chúng ta bằng nhiều hình thức khác nhau như:
Thuyết phục, ám thị, bắt chước. Đây là một chức năng rất quan trọng của giao tiếp.
16
Trong xã hội, mỗi con người là một chiếc gương. Giao tiếp với họ chính là chúng
ta soi mình trong chiếc gương đó. Từ đó chúng ta thấy được những ưu điểm, những
thiếu sót của mình và tự sửa chữa, hoàn thiện bản thân. Chức năng phê bình và tự phê
bình này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới hiện nay của xã hội.
1.1.3.2. Chức năng tâm lý
Bên cạnh nhóm chức năng xã hội, giao tiếp còn mang những chức năng tâm lý
nhất định.
Chức năng động viên khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm xúc trong
đời sống tâm lý của con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi gợi ở nhau những
cảm xúc, tình cảm nhất định; chúng kích thích hành động của họ. Một lời khen chân tình
được đưa ra kịp thời, một sự quan tâm được thể hiện đúng lúc có thể làm người khác tự
tin, cảm thấy phải cố gắng làm việc tốt hơn.
Giao tiếp không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con
người, mà còn là cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới, phát triển và
củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp xúc, gặp gỡ nhau – Đó là khởi đầu của các mối
quan hệ. Nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát triển hay không, có trở nên bền
chặt hay không, điều này phụ thuộc nhiều vào quá trình giao tiếp sau đó.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có những cảm xúc cần được bộc lộ. Những
niềm vui hay nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi quan,… chúng ta muốn
được người khác cùng chia sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm được sự đồng
cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của mình.

Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được
các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên tắc
ứng xử: Chúng ta biết được cái gì tốt, cái gì xấu; cái gì đẹp, cái gì không đẹp; cái gì nên
làm, cái gì cần làm, cái gì không được làm và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động cho
phù hợp. Những phẩm chất như khiêm tốn hay tự phụ, lễ phép hay hỗn láo, ý thức nghĩa
17
vụ, tôn trọng hay không tôn trọng người khác,… Đó chính là quá trình hình thành, phát
triển tâm lý, nhân cách của mỗi chúng ta.
Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan trọng. Trong cuộc sống của mỗi
chúng ta, khi các quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ các chức năng
này thì điều đó không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động, mà còn
để lại những dấu ấn tiêu cực trong sự phát triển tâm lý nhân cách của mỗi chúng ta.
1.2. Các phương tiện giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp khác
nhau. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ,
tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng nhưng chúng ta có thể chia
chúng thành hai nhóm chính: Ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ và giao
tiếp phi ngôn ngữ ít khi tách rời nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan
hệ tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp phi ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn, còn trong các
mối quan hệ ít nhiều có tính chất xã giao thì nó làm nền cho giao tiếp ngôn ngữ.
1.2.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con
người có thể truyền đi bất cứ một thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự
vật… Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây:
- Nội dung ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò của ý cá
nhân của ngôn ngữ trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều có một hay vài ý
nghĩa nhất định. Ý nghĩa của ngôn ngữ có hai hình thức tồn tại: Khách quan và chủ
quan. Khách quan bởi nó không phụ thuộc vào sở thích, ý muốn của một cá nhân nào.

Chẳng hạn, không ai dùng từ “cái túi” để chỉ “cái cây” và ngược lại. Tính chủ quan thể
hiện ở chỗ, có những từ vô thưởng vô phạt, nhưng trong qua trình sử dụng gây ra những
phản ứng, những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của ngôn
18
ngữ. Ví dụ: từ “ma tuý” đối với người nghiện hút thì không gợi lên cảm giác tiêu cực
như ở những người bình thường.
Ngay trong một nhóm người, đôi khi cũng có những quy định riêng cho một số
tập hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm người từ cộng đồng địa
phương đến đẳng cấp dân tộc đều có những sắc thái riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ.
Hiểu được ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là sự
đồng cảm.
- Tính chất của ngôn ngữ:
Trong giao tiếp, tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu…cũng
đóng vai trò quan trọng. Có người trông vẻ ngoài hình thức khá hoàn hảo khiến mọi
người thích thú, nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm cho ta cảm
thấy thất vọng ngay. Cũng có người nhờ tiếng nói ấm áp, dịu dàng, quyến rũ làm cho
người nghe cảm tình ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả ái.
Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu. Lời nói có được rõ
ràng, khúc triết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng
người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn
giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo từng lời một. Biết
nhấn mạnh những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu.
Trong lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc
gằn từng tiếng thì lời nói mới nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng
phải ngừng một lúc, để cho người nghe chú ý.
- Điệu bộ khi nói
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói
vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc, vừa nói vừa vuốt ve, âu yếm,… Thường điệu bộ
phụ hoạ theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi

19
nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hoá. Những cử chỉ, điệu bộ tự
nhiên là đáng yêu nhất, đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người này hay
người khác.
1.2.2. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ
Trong giao tiếp, chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ
nghe qua lời nói. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ
chiếm từ 30% - 40% , phần còn lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc giao tiếp không
lời qua vẻ mặt, động tác, dáng điệu và các tín hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện
phi ngôn ngữ là hết sức quan trọng, giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn trong giao tiếp.
- Nét mặt:
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình
nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn,
ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít
nhiều về cá tính con ngươi. Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực
tính; người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì hoà nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ
thích nghi trong giao tiếp.
Nhướn mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn lặp lại
thông tin. Đôi khi nó chỉ sự không tin tưởng mấy. Nhăn trán, cau mày là dấu hiệu phổ
biến của sự lúng túng và sự lo lắng, và đôi khi là biểu hiện của sự giận dữ.
- Nụ cười:
Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của
mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn,
hồn nhiên, đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, đanh ác, có cái cười đồng tình,
thông cảm nhưng cũng có cái cười chế giễu, cười khinh bỉ… Mỗi điệu cười biểu hiện
một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của
đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ.
- Ánh mắt:
20
Dân gian có câu nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn” bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi

đầu cho tất cả mọi nghiên cứu quan sát, tìm hiểu qua ánh mắt con người có thể nói lên
nhiều thứ. Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước
nguyện của con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hoá” câu chuyện, biểu hiện sự
chú ý, tôn trọng, sự đồng tình hoặc là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc
vào vị trí xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hoặc tự cho mình là người
có vai trò cao hơn) thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói, lẫn khi
nghe.
Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế
thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện,
người nham hiểm đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi,…
- Các cử chỉ:
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,…), của bàn tay (vẫy,
chào, khua tay), của cánh tay,… Vận động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao
tiếp. Thật vậy, chuyển động của đầu có thể là “đồng ý” hay “không đồng ý”, của bàn tay
là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin,…
Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như
một số vận động của tay và đầu có ý nhắc người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay
giải thích thêm.
Mũi cũng là phương tiện truyền thông, bởi vì khi nhìn người khác với cái vẻ coi
khinh người ta thường nhìn xuống mũi của mình. Khi động tác này đi kèm với một cái
hít vào khinh khỉnh thì thái độ phủ nhận lại càng được gia tăng. Ngoài ra, lưỡi, cằm, cử
chỉ của bàn tay, vị trí của đôi chân, … cũng nói lên nhiều điều.
- Tư thế:
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với
vai trò, vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức, nó bộc lộ cương vị
xã hội mà cá nhân đang đảm nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hơi ngả ra phía sau
21
là tư thế của bề trên, của lãnh đạo. Tư thế ngồi hơi cúi đầu về phía trước, tựa hồ lắng
nghe là tư thế của người cấp dưới.

Tư thế có vai trò biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải
mái hay căng thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận
gần gũi cho người đối thoại, phản ánh một thái độ cởi mở, hoà hợp.
- Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay thấp, mập
hay ốm, mặt vuông hay dài, môi mỏng hay dày…), sắc da (trắng hay đen, xanh xao,
vàng vọt hay “ngăm ngăm”...), và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang
điểm, trang sức, trang phục…
Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn ông cao
ráo, có vẻ khoẻ mạnh, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay gầy đét; một người
“tốt tướng” thường được mọi người tôn trọng từ cái nhìn đầu tiên. Cách trang sức, cách
ăn mặc cũng nói lên nhiều cá tính, văn hoá, nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi của một cá
nhân.
- Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
Đó là động tác ôm hôn, vỗ vai, xoa đầu, khoác tay, bắt tay,… Những phương tiện
này gọi là đặc biệt vì trong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng
hạn, không phải gặp ai ta cũng có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta người lớn xoa đầu
trẻ con chứ không được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: Bắt
tay mạnh mẽ, khô ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái
bắt tay ẻo lả, ướt át thuộc về con ngươi yếu đuối và đáng ngờ.
1.3. Một số kỹ năng giao tiếp cơ bản
22
Giao tiếp vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Muốn thành công trong
giao tiếp, chúng ta không chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực này
mà còn phải biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn hoạt động giao tiếp của
mình. Tức là nắm vững kỹ năng và không ngừng trau dồi, rèn luyện để đạt đến mức
nghệ thuật. Dưới đây là một số kỹ năng cơ bản trong giao tiếp.
1.3.1. Kỹ năng lắng nghe
Trong quá trình giao tiếp, chúng ta vừa phải tác động lại vừa phải quan sát lắng

nghe “đối phương”. Việc lắng nghe người khác, nắm bắt, thông hiểu các thông tin để có
thái độ, hành vi tương xứng là điều rất có ý nghĩa trong giao tiếp. Có nhà nghiên cứu đã
nhận xét rằng, trong cuộc sống, mỗi ngày làm việc, ít ra là chúng ta phải dùng nửa thời
gian để lắng nghe và xử lý thông tin trên cơ sở đó mà chúng ta có những tác động phản
hồi đối với mọi người.


Hình 1.1. Biểu đồ thời lượng sử dụng các kỹ năng
1.3.1.1. Để có thể lắng nghe tốt
Trong quan hệ giao tiếp, việc lắng nghe tích cực thường diễn ra khi ta thật sự
quan tâm đến vấn đề nào đó và vì thế, tất nhiên khi có quan hệ, tác động ta hướng tất cả
sự chú ý vào vấn đề. Tuy nhiên có những trường hợp ngược lại: Do công việc yêu cầu,
do thái độ ứng xử đối nghịch của đối phương gây cho chúng ta sự ức chế về mặt tâm lý,
đòi hỏi sự tự kiềm chế khá căng thẳng.
23
Để có thể vượt qua tình thế như vậy và có thể lắng nghe có hiệu quả cần tự điều
chỉnh để tự thích ứng với tình hình, và hình thành được thái độ sau:
Thái độ tự thấu cảm: Ta tự đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người nói, thử đặt
mình vào tình cảnh như vậy, từ đó mà tạo ra sự thấu hiểu thông điệp cả từ hai phía: Phía
công khai và những gì tiềm ẩn bên trong các thông điệp đó. Trong phần lớn trường hợp
người truyền thông tin thường có mong muốn ta thấu hiểu họ một cách đầy đủ cả hai
khía cạnh ấy, nhất là ở phía “ý tại ngôn ngoại”, tiềm ẩn bên trong.
Sự tập trung, chú ý vào nội dung thông tin với thái độ khách quan là không thể
thiếu. Cần hết sức chăm chú nắm bắt thông tin, sẵn sàng phản hồi bằng ngôn ngữ, bằng
tín hiệu, bằng biểu cảm (thái độ) ví dụ như: Gật gù tỏ vẻ hiểu, hưởng ứng, mỉm cười tán
đồng. Tất nhiên để bộc lộ thái độ khách quan như vậy, ta phải hết sức tự kiềm chế, kiên
nhẫn với thái độ tự tin để duy trì sự giao lưu, tiếp xúc diễn ra một cách thuận lợi. Đôi lúc
có thể kiểm tra ngược lại hoặc để tâm xem lại những điều mình đã nắm được, ta có thể
xen kẽ bằng những câu nhắc lại những gợi ý khéo như: “Theo anh nên hiểu vấn đề ấy
như thế nào?” hoặc gợi mở thêm sự giao lưu được tiếp tục kiểu như “Hình như anh

cũng cảm thấy khó xử…” thậm chí có thể tỏ thái độ trung lập với những gợi ý vô thưởng
vô phạt như “Tôi hiểu anh trong trường hợp này…”. Tác dụng của những câu đưa đẩy
ấy sẽ duy trì được sự giao lưu, tiếp xúc và nếu có dụng ý ta sẽ gián tiếp hiểu được thái
độ đích thực của đối tượng giao tiếp.
1.3.1.2. Những trở ngại trong việc lắng nghe
Có nhiều trở ngại khiến cho chất lượng lắng nghe người khác nói không phải lúc
nào cũng như nhau, do nhiều nguyên nhân rất dễ sa vào tình trạng chất lượng kém với
các mức độ khác nhau như: Do không tập trung chú ý nên chẳng nắm được nội dung,
nghe lõm bõm, chỉ thông hiểu một phần, nghe nhưng nắm thông tin không chính xác,
nghe rồi nhưng không có chủ định và quên mất thông tin,….
Trước hết phải nói đến trở ngại về mặt tâm lý – Ví dụ như tốc độ suy nghĩ, chúng
ta có thể nghe với tốc độ nhanh nhưng người nói lại rề rà, quá chậm. Do vậy có những
24
khoảng trống, khiến ta dễ liên tưởng, dễ suy nghĩ lan man về các vấn đề khác. Hơn thế
nữa, trong trường hợp tâm trạng chúng ta xao động, ta mải chú ý vấn đề khác, nếu người
nói lại không “tâm lý” dễ dẫn ta đến trạng thái suy nghĩ lan man. Có thể xem trở ngại
tâm lý là trở ngại quan trọng nhất, làm giảm hiệu quả của sự lắng nghe.
Cùng với tốc độ suy nghĩ, việc phân tán chú ý còn do nội dung thông tin quá khó,
ta không thể hiểu rõ và cũng không thể không nắm bắt được thực chất của thông tin, cảm
thấy căng thẳng do vậy không tập trung được chú ý.
Cũng có thể do thiếu kiến thức, đôi khi trong trao đổi, một bên cứ nói và một bên
cứ lảng đi, không chịu “nghe”. Như vậy là trong giao tiếp, sự hiểu biết về đối tượng: Cá
tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm xử thế,…thì chắc chắn sẽ gặp ít trở ngại hơn.
Về mặt cá tính, một số người có tính thiếu kiên nhẫn trong giao tiếp – Thái độ
này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giao lưu, tiếp xúc. Với tâm trạng như vậy,
chúng ta nói vào tai này thì thông tin sẽ trượt ra tai khác, vô hiệu quả.
Thực tế chứng tỏ rằng đôi khi thái độ thờ ơ, tiêu cực trong giao tiếp nảy sinh ra
do định kiến, thành kiến và nhân cách của ai đó; thái độ gây nên trạng thái ức chế, cản
trở sự trao đổi thông tin, nghĩa là không chịu tiếp nhận, trao đổi các thông tin.
1.3.2. Kỹ năng đặt câu hỏi

Thu thập thông tin từ người khác là một kỹ năng khá quan trọng trong giao tiếp.
Có nhiều thông tin chúng ta cần được chứa đựng trong não bộ của người khác. Có lúc
chính họ tự nguyện, tự giác cho ta tin tức, nhưng đa số trường hợp chúng ta phải khai
thác nó bằng các câu hỏi khác nhau. Muốn khai thác thông tin có hiệu quả chúng ta cần
thực hiện nó một cách có bài bản.
Muốn khuyến khích việc cung cấp tin, bạn phải làm sao cho việc ấy trở thành
niềm vui thú đối với người khác. Hãy sử dụng nghệ thuật lắng nghe để tạo hứng thú ở
đối tượng cung cấp thông tin.
Khi muốn khai thác thông tin, bạn hãy bắt đầu bằng một câu hỏi dễ. Những câu
hỏi dễ sẽ giúp người khác có cơ hội trả lời đúng một cách dễ dàng. Chúng làm cho đối
25
tượng thoải mái, bớt căng thẳng và tự tin hơn. Nói chung, trước hết cần phải làm nóng
cuộc nói chuyện để khi người đối thoại thấy được sức cuốn hút thì anh ta sẽ say sưa trút
bầu tâm sự.
Sau khi đã làm cho người khác cảm thấy thoải mái, bạn cần biết đặt những câu
hỏi để có được những tin tức đầy đủ và chính xác. Có rất nhiều loại câu hỏi để bạn có
thể sử dụng, tuỳ vào từng hoàn cảnh và dụng ý sử dụng.
- Câu hỏi hẹp:
Đó là những câu hỏi nhằm thu hẹp vấn đề để tranh thủ những thông tin chính xác,
ngắn gọn. Ví dụ: “Ai thực hiện việc này?”, “Tên anh là gì?”. Những câu hỏi hẹp có ích
khi bạn cần những dữ kiện rõ ràng, thẳng thắn. Hầu hết các cuộc gặp gỡ đều có những
câu hỏi hẹp ở một thời điểm nào đó.
- Câu hỏi trực tiếp:
Tức là hỏi thẳng vào vấn đề mà mình cần tìm hiểu. Loại này có ưu điểm là thu
thập thông tin một cách nhanh chóng và thường tạo ra yếu tố bất ngờ ở đối tượng. Hỏi
trực tiếp thường để lộ mục đích tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên.
- Câu hỏi gián tiếp:
Tức hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình cần tìm hiểu. Loại câu hỏi này
thường dùng để khai thác những yếu tố tế nhị mà không thể hỏi trực tiếp.
- Câu hỏi gợi mở:

Là loại câu hỏi mà không thể trả lời có hoặc không được, chúng đòi hỏi phải có
lời giải thích tại sao. Nhờ câu hỏi này mà chúng ta bước vào một giai đoạn mới của cuộc
đàm phán độc thoại chuyển thành đối thoại. Loại câu hỏi này làm dễ dàng cho người đối
thoại. Mục đích của loại câu hỏi này chủ yếu là thu thập thông tin sâu hơn mà câu hỏi
hẹp không làm được.
- Câu hỏi để suy nghĩ:
Mục đích của câu hỏi này nhằm xây dựng bầu không khí thân thiện, hiểu biết lẫn
nhau. Chúng đặc biệt có lợi khi nhắc lại một phần các ý kiến đã phát biểu. Câu hỏi này
sẽ tạo điều kiện cho đối tác cải chính, bổ sung vấn đề đã được trình bày.
26
1.3.3. Kỹ năng thuyết phục
Để giải quyết tốt một công việc nào đó, chúng ta thường cần sự giúp đỡ, hợp tác
của người khác. Điều này đòi hỏi giữa chúng ta và họ phải có sự thống nhất về quan
điểm, lập trường, về cách giải quyết công việc. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thường
gặp trường hợp, trong đó người khác không cùng chung ý kiến, quan điểm với chúng ta.
Trong trường hợp này, việc chúng ta có đạt được mục đích hay không phụ thuộc vào khả
năng thuyết phục của chúng ta. Thuyết phục chính là đưa ra tình tiết, sự kiện, phân tích,
giải thích làm cho người khác thấy đúng, thấy hay mà tin theo, mà làm theo.
1.3.3.1. Những điểm cần chú ý khi thuyết phục
Thuyết phục người khác là một công việc không hề đơn giản, bởi một lẽ thường
tình là bất kỳ ai, khi đã có ý kiến về một vấn đề nào đó, cũng có niềm tin nhất định vào
mình và không muốn tiếp thu ý kiến của người khác. Hơn nữa không phải ai cũng biết
cách thuyết phục người khác. Để thuyết phục có hiệu quả chúng ta cần chú ý một số
điểm sau đây:
Bầu không khí bình đẳng là điều kiện đầu tiên để có thể thành công trong thuyết
phục, bởi vì nó làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái, được tôn trọng, làm giảm sự
đề phòng, phản kháng của họ.
Thông thường người đối thoại luôn muốn bảo vệ ý kiến của mình, không muốn
tiếp thu ý kiến của người khác. Muốn thuyết phục họ, trước hết phải tôn trọng và lắng
nghe họ. Đến một lúc nào đó sẽ xuất hiện chỗ hở trong quan điểm của người đối thoại vì

thiếu thông tin, vì cân nhắc chưa thấu đáo. Lúc này họ sẽ cảm thấy thiếu tự tin và muốn
nghe ý kiến. Đây chính là lúc để thuyết phục.
Khi trình bày ý kiến cần lưu ý: Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng và có cơ sở; lời nói phải
ngắn gọn và có trọng tâm, không nên dài dòng tràn lan, phải nhã nhặn, ôn tồn, lịch sự;
ngôn ngữ và cách lập luận phải phù hợp với trình độ nhận thức của người đối thoại; biết
thừa nhận những điểm có lý trong ý kiến của người đối thoại; cần tác động đến cả nhận
thức, tình cảm và ý chí của người đối thoại.
27
1.3.3.2. Quy trình thuyết phục
Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra một quy trình thuyết phục bao gồm các
bước cơ bản:
Trước hết hãy tạo một không khí bình đẳng, thân thiện gây thoải mái cho người
đối thoại. Đây là một bước quan trọng, ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả thuyết phục.
Sau khi đã tạo được một không khí cởi mở nhất định, chúng ta cần tìm hiểu, lắng nghe
để hiểu tâm lý người đối thoại. Muốn thuyết phục ai đó về một vấn đề nào đó. Trước hết
hãy tìm hiểu quan điểm cá nhân của họ về vấn đề, những vướng mắc, bận tâm khiến họ
lo ngại, từ chối. Chúng ta không thể đưa ra cách giải cho một bài toán khi chưa biết đề
bài. Hãy vận dụng hết khả năng lắng nghe trong bước này.
Bất kỳ ai cũng đều mong muốn có được sự đồng cảm, chia sẻ của người khác với
những ý kiến, lo lắng của mình. Hãy chứng tỏ sự cảm thông với những vướng mắc đó,
coi vướng mắc của người đối thoại cũng chính là vướng mắc của người thuyết phục.
Và cuối cùng, khi đứng trên quan điểm của người đối thoại đồng thời trên quan
điểm của người đưa ra được cách giải quyết những vướng mắc ấy, chúng ta cần dùng lý
lẽ để giải tỏa lo ngại và bận tâm của người đối thoại.
1.3.4. Kỹ năng thuyết trình
Trong cuộc sống, có những khi đối tượng chúng ta cần trình bày quan điểm, suy
nghĩ về vấn đề nào đó, không chỉ là một hay hai người, mà có thể là mười người, hai
mươi người, một trăm người, hay hơn thế nữa. Đó chính là lúc chúng ta thực hiện một
bài thuyết trình. Thuyết trình hay còn gọi là diễn thuyết, là nói chuyện trước nhiều người
về một vấn đề nào đó một cách có hệ thống.

1.3.4.1. Các bước thuyết trình
Một bài thuyết trình thành công bao giờ cũng đi qua ba bước: Chuẩn bị thuyết
trình, tiến hành thuyết trình và kết thúc thuyết trình.
- Chuẩn bị thuyết trình
28
Bất kỳ một nhà diễn thuyết chuyên nghiệp nào cũng có lúc lúng túng, e ngại, căng
thẳng. Để có thể đường hoàng, tự tin, chúng ta và cả những nhà diễn thuyết chuyên
nghiệp cũng đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho buổi nói chuyện của mình.
Khi được mời thuyết trình về một vấn đề nào đó, chúng ta cần cân nhắc hai vấn đề. Đó
là: Chúng ta có am hiểu vấn đề, có đủ thông tin để trình bày hay không? Con người và
cương vị của người nói có được người nghe chấp thuận hay không? Nói cách khác, tầm
quan trọng của vấn đề phải ngang tầm với người diễn thuyết, nếu không người nghe sẽ
thiếu tin tưởng.
Bài nói chuyện phải được xây dựng xung quanh người nghe, lấy người nghe làm
trung tâm. Cùng một vấn đề nhưng nói cho những đối tượng khác nhau thì cách xây
dựng bài nói cũng khác nhau. Chẳng hạn, cùng một vấn đề thời sự nhưng nói cho sinh
viên khác với nói cho giáo viên. Vì vậy, người thuyết trình cần tìm hiểu người nghe là ai,
giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, tín ngưỡng…để chuẩn bị bài nói chuyện cho phù hợp.
Bài diễn thuyết cần được chuẩn bị một cách chu đáo. Người diễn thuyết có thể
thảo sẵn nội dung diễn thuyết ra giấy hoặc chí ít cũng phải lập một đề cương chi tiết các
ý cần phải trình bày và những dẫn chứng, những số liệu để minh hoạ. Không nên quá tin
tưởng vào trí nhớ. Nếu lần đầu diễn thuyết thì cần tập dượt trước . Sự chuẩn bị tốt luôn
làm người diễn thuyết tự tin trong quá trình nói chuyện.
- Tiến hành thuyết trình
Khi tiến hành thuyết trình, điều quan trọng nhất của người diễn thuyết là kiểm
soát được nội dung mà mình đang trình bày. Tránh tình trạng, vì một vài câu hỏi hay một
vài yếu tố khách quan dẫn đến quên mất trình tự hay quên mất nội dung định trình bày.
Để có được một bài thuyết trình hay, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là khả
năng dẫn dắt vấn đề, khả năng gây thiện cảm, khả năng xử lý tình huống của người
thuyết trình.

- Kết thúc thuyết trình
Người thuyết trình cần biết kết thúc đúng lúc. Khi người nói đã dùng đến cụm từ
“cuối cùng là…” thì có nghĩa chỉ còn vài phút nữa thôi. Nếu sau đó, người nói vẫn còn
29
muốn nói tiếp thì người nghe sẽ cảm thấy rất ức chế. Sau khi tóm tắt những ý then chốt
của bài nói chuyện và tuỳ theo tính chất của bài nói chuyện mà đưa ra lời kêu gọi, lời
chúc mừng, cần nhớ cảm ơn thính giả đã chú ý lắng nghe. Trong trường hợp cần thiết,
cần dành một ít thời gian để giải đáp những ý kiến, những thắc mắc của người nghe.
1.3.4.2. Một số điểm cần lưu ý với người thuyết trình
Ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng có một vị trí nhất định trong sự thành công của
bài thuyết trình. Để có được những ấn tượng tốt đẹp ấy, người thuyết trình cần chú ý
một số điểm sau:
Trước hết người thuyết trình phải ăn mặc nghiêm túc, lịch sự, phù hợp với tính
chất của buổi thuyết trình. Tránh những bộ quần áo cầu kỳ, kiểu cách, xa lạ với người
nghe. Quần áo phù hợp sẽ làm cho người thuyết trình thêm tự tin. Bên cạnh đó, dáng đi
chững chạc cũng thể hiện sự đường hoàng, tự tin của người thuyết trình, không nên đi
quá nhanh nhưng cũng đừng chậm chạp, ung dung, thong thả quá. Khi bước ra chào, cần
tiếp xúc bằng mắt và mỉm cười với người nghe.
Khi đứng trên bục, người thuyết trình cần đứng thẳng người với tư thế tự nhiên,
không bỏ tay túi quần, mắt nhìn thẳng xuống người nghe, ánh mắt nhẹ nhàng, tôn trọng
và quan tâm. Trước khi nói chuyện, cần tự giới thiệu về bản thân, những lời giới thiệu
này nên ngắn gọn, không rườm rà, dài dòng.
Khi nói, giọng nói cần to, rõ ràng đủ cho người ngồi xa nhất cũng có thể nghe
thấy. Thêm vào đó, cần thay đổi tốc độ nói, nhịp độ nói: Khi lên, khi xuống, khi trầm,
khi bổng, khi nhanh, khi chậm, khi lướt qua, khi nhấn mạnh, tuỳ thuộc vào nội dung
trình bày. Trong quá trình trình bày, thường xuyên đưa mắt xuống người nghe, bao quát
tất cả những người có mặt trong phòng, đừng để ai đó có cảm giác bị “bỏ rơi”.
Ngoài ánh mắt, người thuyết trình cần chú ý sử dụng cả phương tiện phi ngôn
ngữ khác như nét mặt, cử chỉ, động tác. Tuy nhiên, cần sử dụng chúng một cách tự
nhiên, hợp lý. Người diễn thuyết có thể đi lại trong khi nói chuyện, song không nên rời

khỏi tầm nhìn của một nhóm người nghe nào đó quá lâu. Chẳng hạn, trong khi giảng bài,
30
có những giáo viên đi xuống cuối lớp và dừng lại ở đó trong một khoảng thời gian.
Trong trường hợp này, những học sinh ngồi ở dãy bàn đầu dễ phân tán chú ý và sẽ khó
tiếp thu bài giảng hơn.
1.3.5. Kỹ năng đọc và tóm tắt văn bản
1.3.5.1. Kỹ năng đọc
Đọc là hoạt động nhận thức có từ lâu đời, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước công
nguyên. Đọc là một kỹ năng. Để đọc có hiệu quả, chúng ta cần được dạy cách đọc và
không ngừng rèn luyện để biến kỹ năng thành kỹ xảo. Để đọc có hiệu quả, cần chú ý
một vài khía cạnh sau:
Khi đọc một đoạn văn bản, chúng ta cần nắm được thông tin chứa đựng trong đó.
Trở ngại lớn nhất cho sự lĩnh hội là khi đọc, người đọc không được tiếp xúc trực tiếp với
người viết. Vì vậy, điểu cốt lõi khi đọc là người đọc phải thực hiện một cuộc đối thoại
trong tưởng tượng với người viết, tức là phải tập trung tư tưởng cao độ đặt câu hỏi, phân
tích, và tự tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó. Đó là đọc tích cực.
Tốc độ đọc cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đọc. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy, tốc độ đọc trung bình vào khoảng 250 từ/1 phút. Bí quyết để đọc có hiệu quả là
chọn tốc độ đọc phù hợp với tài liệu. Không nên đọc nhanh với bất kỳ tài liệu nào, cũng
đừng bận tâm đọc kỹ mọi thứ. Để có thể quyết định có nên đọc một tài liệu nào đó hay
không, hoặc đọc phần nào, tốc độ nào, người đọc có thể sử dụng phương pháp khảo sát,
phân tích và đọc với tốc độ phù hợp. Khi khảo sát, người đọc chỉ cần đọc phần đầu,
phần cuối và lướt qua bố cục. Điều này giúp người đọc nắm bắt được cấu trúc tổng quát
và những điểm chính của văn bản. Từ đó, mà quyết định văn bản có đáng đọc hay không
và đọc với tốc độ nào.
Tóm lại, đọc là một kỹ năng quan trọng trong giao tiếp gián tiếp. Nó giúp chúng
ta thu thập được nhiều thông tin có chiều sâu trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống.
31
1.3.5.2. Kỹ năng tóm tắt văn bản

Tóm tắt văn bản là trình bày lại nội dung của văn bản, có loại bỏ những thông tin
không cần thiết theo mục đích đã định. Như vậy, văn bản tóm tắt bao giờ cũng ngắn gọn
hơn văn bản gốc. Trong tóm tắt văn bản, việc lựa chọn thông tin nào để đưa vào văn bản
tóm tắt phụ thuộc vào mục đích và yêu cầu của người tóm tắt.
Khi tóm tắt văn bản, cần loại bỏ hết những thông tin không cần thiết đối với mục
đích tóm tắt, diễn đạt lại nội dung văn bản bằng cách vắn tắt và súc tích nhất nhưng vẫn
phản ánh trung thực nội dung của văn bản gốc. Điều khác biệt giữa văn bản tóm tắt và
văn bản gốc là người tóm tắt phải diễn đạt lại văn bản gốc theo ý của mình, hạn chế đến
mức thấp nhất việc sử dụng lại các câu, các đoạn của văn bản gốc.
Nói chung, văn bản tóm tắt dài bao nhiêu là phụ thuộc vào văn bản gốc và mục
đích và mục đích tóm tắt của chúng ta. Cũng có những trường hợp cả một bài văn dài,
chỉ được tóm tắt bằng một câu. Ví dụ, khi giới thiệu bộ sử thi Ramayana của Ấn Độ thời
cổ đại, tác giả Cao Huy Đỉnh viết: “Ramayana chủ yếu mô tả cuộc tình duyên trắc trở và
mối tình chung thuỷ của hoàng tử Rama và nàng Xita”.
1.4. Các tình huống giao tiếp đặc trưng
Con người sống trong một xã hội với rất nhiều mối quan hệ giao tiếp phức tạp.
Các tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày với mỗi người cũng vô cùng phong phú. Để
tìm hiểu một cách chung nhất, ta có thể xem xét các tình huống giao tiếp nảy sinh trong
ba môi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội.
1.4.1. Tình huống giao tiếp trong gia đình
Gia đình xét trên quan điểm của tâm lý học là một tập thể nhỏ, trong đó mọi
người quan tâm đến nhau, chú ý đến những nhu cầu, hứng thú của nhau. Giao tiếp trong
gia đình là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Không khí tươi vui, lành mạnh trong gia đình là một “tiểu khí hậu” thuận lợi cho
sự phát triển đầu đời của mỗi chúng ta. Trong một gia đình đầm ấm, yêu thương thì ngay
32

×