Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

ĐỊNH GIÁ LẠI ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ MINI CASE – CHAPTER 3 MULTINATIONAL BUSINESS FINANCE (12E)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.69 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
BỘ MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

NỘI DUNG:
ĐỊNH GIÁ LẠI ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ
MINI CASE – CHAPTER 3
MULTINATIONAL BUSINESS FINANCE (12E)

Nhóm thực hiện:




Chuyên ngành:
Khóa:
Giảng viên:
Nguyễn Lan Anh
Đỗ Thùy Dương
Trần Thị Thu Hà
Trần Thị Huế
Nguyễn Thị Huệ
KTTG & QHKTQT
18B
TS. Mai Thu Hiền


Hà Nội, 06/2012



2

MỤC LỤC

I. ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ĐƯỢC ĐỊNH GIÁ LẠI 3
1. Cuộc tranh luận về sự định giá lại 5
2. Chế độ tỷ giá mới 7
3. Những tác động mang tính chất khu vực 9
4. Tác động đến sự cạnh tranh 9
II. PHÂN TÍCH VIỆC ĐỊNH GIÁ LẠI ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ VÀ
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC 13
1. Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá
thấp Đồng nhân dân tệ để tạo ra lợi thế thương mại ngắn hạn 13
2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc là duy trì cán
cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối và nâng cao vị thế của Đồng nhân dân
tệ 15
a. Đồng nhân dân tệ được định giá thấp mang về cho ngân sách Trung
Quốc một lượng lớn ngoại tệ 15
b. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu đưa Đồng nhân dân tệ thành
một trong số những đồng tiền mạnh của nền kinh tế thế giới 15
3. Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối đoái linh hoạt và gắn với
từng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời điểm cụ thể. 18
4. Công cụ điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc rất linh hoạt và
hiệu quả 19
5. Chính sách tỷ giá hối đoái hiệu quả của Trung Quốc là kết quả của quá
trình cải cách kinh tế và tự do hóa tài chính 22




3

Multinational Business Finance (12th edition)
David K.Eiteman, Arthur I.Stonehill, Michael H.Moffett (2010)
Mini case – Chapter 3 – page 71 - 73
I. ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ ĐƯỢC ĐỊNH GIÁ LẠI
Trang nhất tờ “The Wall Street” ra ngày 25/07/2005 có bài “Đằng sau
bước đi của Đồng nhân dân tệ, mở ra những cuộc tranh luận và những cánh
cửa đã đóng”. Trong đó có đoạn: “Sau khi một giám đốc ngân hàng bị lập hồ
sơ vì đưa ra lời tuyên bố: “Họ bắt đầu nói về những thứ không thực sự hữu
ích cho lắm, và bắt đầu thu nhặt những chiếc điện thoại di động và
BlackBerry”, Trung Quốc đã đưa ra một tuyên bố bốn điểm: Bắc Kinh đang
thả nổi Đồng nhân dân tệ khỏi đồng Đô la Mỹ”.
Ngày 21/07/2005, nhằm thúc đẩy nền kinh tế chủ nghĩa xã hội theo
định hướng thị trường, đưa Trung Quốc trở thành thị trường có vai trò then
chốt cung ứng nguồn lực cho nền kinh tế toàn cầu và củng cố hệ thống tỷ giá
thả nổi có điều tiết theo cung cầu của thị trường, thay mặt Chính phủ Trung
Quốc, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đưa ra bản công bố bao gồm
bốn điểm về việc thiết lập lại chế độ tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc như sau:
1. Bắt đầu từ ngày 21/07/2012, Trung Quốc sẽ thiết lập chế độ tỷ giá
thả nổi có điều tiết dựa trên cung cầu của thị trường xác định theo một rổ tiền
tệ. Đồng nhân dân tệ sẽ không còn neo vào Đồng đô la Mỹ nữa và chế độ tỷ
giá của Đồng nhân dân tệ sẽ trở nên linh hoạt hơn.
2. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ thông báo giá đóng cửa của
ngoại tệ như Đô la Mỹ được mua bán bằng Đồng nhân dân tệ trên thị trường
mua bán ngoại tệ liên ngân hàng hàng ngày, và giá đóng cửa này sẽ là giá cơ
sở để trao đổi mua bán bằng Đồng nhân dân tệ vào ngày hôm sau.


4


3. Tỷ giá Đồng đô la Mỹ bằng Đồng nhân dân tệ sẽ là Yuan8,11/$ bắt
đầu từ 19:00 ngày 21/07/2005. Các ngân hàng được chỉ định giao dịch ngoại
tệ vì thế có thể điều chỉnh chào hàng ngoại tệ tới khách hàng của mình.
4. Giá giao dịch Đồng đô la Mỹ bằng Đồng nhân dân tệ trên thị trường
mua bán ngoại tệ liên ngân hàng hàng ngày sẽ được phép dao động trong
khoảng 0,3% theo giá đóng cửa được công bố ngày hôm trước bởi Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc, trong khi đó giá giao dịch các ngoại tệ khác bằng
Đồng nhân dân tệ sẽ dao dộng trong biên độ nhất định được Ngân hàng Trung
ương Trung Quốc cho phép.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ điều chỉnh biên độ dao động của
Đồng nhân dân tệ khi cần thiết tùy theo diễn biến của thị trường và tình huống
kinh tế tài chính cụ thể. Tỷ giá Đồng nhân dân tệ sẽ trở nên linh động hơn
theo định hướng của thị trường bởi các đồng tiền trong giỏ tính toán. Ngân
hàng Trung ương Trung Quốc có trách nhiệm duy trì tỷ giá Đồng nhân dân tệ
cơ bản ổn định ở một mức cân bằng và thích hợp để duy trì cán cân thanh
toán và sự ổn định về tài chính và kinh tế vĩ mô.
Trang nhất tờ “The Washington Post” ra ngày 22/07/2005 có bài
“Trung Quốc kết thúc chế độ tỷ giá cố định” bởi Peter S.Goodman. Trong đó
viết: “Đây là một quyết định thận trọng”, theo lời ngài Zhong Wei, một
chuyên gia tài chính tại Trường Đại học Bắc Kinh, “Quyết định này đứng
trên lập trường chính trị hơn là một cải cách tiền tệ thực sự”.
Ngày 21/07/2005, Chính phủ Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương
Trung Quốc đã chính thức định giá lại Đồng nhân dân tệ. Sáng cùng ngày,
một cuộc họp bất thường đã được tổ chức tại Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc với thành phần tham dự gồm đại diện của những ngân hàng nước ngoài
quan trọng ở Bắc Kinh. Trong cuộc họp đó, Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc đã tuyên bố xóa bỏ chế độ neo tỷ giá Đồng Nhân dân tệ theo Đồng đô la



5

Mỹ, định giá lại Đồng nhân dân tệ ấn định ở tỷ giá Yuan8,11/$, và biên độ
dao động tỷ giá của Đồng nhân dân tệ được nới rộng lên 0,3% theo giá đóng
cửa ngày hôm trước. Quyết định thay đổi chế độ tỷ giá và định giá lại Đồng
nhân dân tệ theo Đồng Đô la Mỹ của Trung Quốc mặc dù đã được dự đoán
trước nhưng vẫn gây ra những sự ngạc nhiên.
Như vậy, nếu để tỷ giá tự điều tiết theo thị trường trong 30 hoặc 60
ngày liên tiếp thì ta nhận thấy về cơ bản Đồng nhân dân tệ sẽ lên giá so
với đồng Đô la Mỹ.
+ Nếu Nhân dân tệ lên giá liên tiếp 30 ngày với biên độ tối đa mỗi
ngày là 0,3% thì tỷ giá mới sẽ là: 1 USD = 8,11.(1-0,003)
30
≈ 7,41 Yuan
+ Nếu Nhân dân tệ lên giá liên tiếp 60 ngày với biên độ tối đa mỗi
ngày là 0,3% thì tỷ giá mới sẽ là: 1 USD = 8,11.(1-0,003)
30
≈ 6,77 Yuan.
1

1. Cuộc tranh luận về sự định giá lại
Từ năm 2004 đến năm 2005, Chính phủ Mỹ liên tục thúc giục Trung
Quốc định giá lại Đồng nhân dân tệ sau suốt một thập kỷ neo giá Đồng nhân
dân tệ theo Đồng đô la Mỹ với tỷ giá Yuan8,28/$. Mỹ cho rằng sự gia tăng
thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ cho thấy rằng Đồng nhân dân tệ
đã được định giá quá thấp giá trị. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh
nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, Đồng nhân dân tệ đang
giảm đi mất 40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh
không công bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi
tính cạnh tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho

thấy Đồng nhân dân tệ đang bị Chính phủ Trung Quốc “dìm giá” chính là sự
tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là
khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm”
thu hút lượng lớn ngoại tệ. Các chuyên gia công nghiệp Hoa Kỳ nói rằng sở dĩ

1
Trả lời câu hỏi số 3 (Mini case – Chapter 3 – Multinational Business Finance (12
th

edition) – David K.Eiteman, Arthur I.Stonehill, Michael H.Moffett (2010) – page 73)


6

có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền,
được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như
vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình
này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để
đồng nhân dân tệ tăng giá. Bên cạnh đó, mâu thuẫn về chính trị giữa hai quốc
gia đang tiềm ẩn những mối đe dọa, trong khi các thành viên của Kho bạc Mỹ
cảnh cáo Chính phủ Trung Quốc cần phải định giá lại Đồng nhân dân tệ ít
nhất ở mức 10% để tránh sự trừng phạt của luật bảo hộ Mỹ. Thậm chí, rất
nhiều chuyên gia Trung Quốc cũng thừa nhận việc duy trì chế độ neo tỷ giá là
rất tốn kém, khi mà Ngân hàng trung ương Trung Quốc phải liên tục mua lại
Đô la Mỹ liên tiếp được đổ vào từ Đầu tư và thương mại. Đến đầu năm 2005,
lượng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới con số 700 tỷ Đô la Mỹ,
trong đó có 190 tỷ Đô la Mỹ trái phiếu chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên, Chính phủ Trung Quốc và nhiều chuyên gia thương mại
quốc tế khác không cho rằng Đồng nhân dân tệ bị định giá thấp giá trị, việc
thặng dư thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ có được là do những lợi thế

cạnh tranh, chi phí sản xuất rẻ và sự tái cấu trúc nền công ngiệp toàn cầu. Bất
chấp điều đó, động thái định giá lại Đồng nhân dân tệ được xem như một
hành động mang tính chất chính trị nhằm làm giảm căng thẳng gia tăng
giữa hai chính phủ hai nước, trong khi đó Trung Quốc có thể tiếp tục
mục tiêu đưa nền kinh tế quốc gia thành một trong những đầu tàu chủ
chốt của nền kinh tế toàn cầu.
2

Tháng 5 năm 2004, Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một cuộc hội với
thành phần tham dự gồm rất nhiều chuyên gia kinh tế tại Đại Liên để tìm ra
tương lai cho Đồng nhân dân tệ. Trong cuộc tranh luận này, có hai luồng ý
kiến trái lập, một bên ủng hộ quan điểm của học thuyết “giữ nguyên đường

2
Trả lời câu hỏi số 2 (Mini case – Chapter 3 – Multinational Business Finance (12th
edition) – David K.Eiteman, Arthur I.Stonehill, Michael H.Moffett (2010) – page 73)


7

lối” của Ronanld McKinnon đến từ Đại học Stanford và Robert Mundell của
Đại học Columbia, một bên đồng tình với quan điểm “ủng hộ việc định giá
lại” của Jeffey Frankel, Đại học Havard và Moris Goldstein, Viện kinh tế toàn
cầu. Tuy nhiên thì cả hai trường phái đều đồng ý rằng nếu sự định giá lại
Đồng nhân dân tệ không đủ lớn, thị trường tiền tệ đặc biệt là những nhà đầu
cơ, sẽ đòi hỏi nhiều hơn và gây ra những sự bất ổn. Khả năng xảy ra rủi ro
này là rõ ràng.
Sức ép ngày càng gia tăng và dư luận ngày càng lên tiếng nhiều hơn khi
mà gần đây, ngày 15/07, Thời báo Tài chính đã công bố bài viết “Mỹ kỳ vọng
sự định giá lại Đồng nhân dân tệ” cho rằng sự định giá lại này sẽ diễn ra trong

tháng 8. Nhưng phía Trung Quốc đã thực hiện việc định giá lại Đồng nhân
dân tệ sớm hơn. Ngày 20/07/2005, Kho bạc Mỹ và các nhà cầm quyền hệ
thống ngân hàng Hồng Kông đều được thông báo trước những người khác vài
giờ rằng Trung Quốc đang ở trên bờ vực của việc thay thế hệ thống tỷ giá của
mình từ chế độ neo tỷ giá vào Đồng đô la Mỹ sang chế độ tỷ giá thả nổi có
điều tiết.
2. Chế độ tỷ giá mới
Đồng nhân dân tệ đã được neo vào Đồng đô la Mỹ theo tỷ giá
Yuan8,28/$ từ đầu năm 1997. Tỷ giá cố định này đã được duy trì trong suốt
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997 - 1998, tạo ra nền tảng
tiền tệ ổn định và vững chắc cho sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế
Trung Quốc khi bước vào thiên niên kỷ mới. Nền kinh tế Trung Quốc liên tục
tăng trưởng nhanh chóng với con số tăng hơn 10% trong chỉ số GDP thực tế
hàng năm, và tỉ lệ tăng trưởng này được kỳ vọng sẽ được duy trì trong ít nhất
một thập kỷ nữa. Rõ ràng rằng nền kinh tế này đã phát triển quá lớn để duy trì
một tỷ giá hối đoái hạng hai. Ngày càng nhiều quốc gia kêu gọi Trung Quốc
nên chuyển Đồng nhân dân tệ sang chế độ tỷ giá thả nổi và gia nhập cùng


8

Đồng đô la Mỹ, Đồng Euro và Yên Nhật trong đội ngũ hàng đầu của hệ thống
tài chính toàn cầu.
Hệ thống tiền tệ mới được đưa ra bởi Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc sẽ thay đổi cách thức định giá giá trị tiền tệ. Mặc dù không đưa ra cách
xác định một cách chính xác giá trị Đồng nhân dân tệ, nhưng chắc chắn các
nhà làm chính sách Trung Quốc đã xác định giá trị Đồng nhân dân tệ dựa vào
giá trị của những đồng tiền mạnh khác như Đô la Mỹ, Euro, Yên Nhật khi
quyết định chuyển sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Tuy nhiên, không
biết nội dung của giỏ khái niệm này, chúng ta không thể dự đoán được động

thái cụ thể của các nhà làm chính sách Trung Quốc trong việc định giá Đồng
nhân dân tệ.
Sự định giá lại ban đầu được tính toán xấp xỉ 2,1%, nhỏ hơn rất nhiều
lần so với mức 10 đến 20% mà các bên chỉ trích Trung Quốc trong đó có
chính phủ Mỹ đã yêu cầu.
8.28/$ 8.11/ $
*100 20,696% 21%
8.11/ $
Yuan Yuan
Yuan



Nhiều nhà chỉ trích Trung Quốc cho rằng Đồng nhân dân tệ đang
định giá thấp 20% giá trị hoặc hơn thế nữa. Nếu thực hiện định giá lại
20% thì thì giá trị thực của Đồng nhân dân tệ tính theo Đôla Mỹ phải là:
Yuan 8,28/$ - Yuan 8,28/$ . 20% = Yuan 6,62/$.
3

Biên dao động 3% cho phép một độ lệch có ý nghĩa hơn rất nhiều. Mặc
dù độ lệch này sẽ giới hạn sự thay đổi hàng ngày của giá trị Đồng nhân dân tệ
(theo rất nhiều cách sẽ bảo vệ nhà đầu từ và các công ty khỏi những thay đổi
lớn đột ngột), nó cũng cho phép Đồng nhân dân tệ bắt đầu được thả nổi ở một
mức nhỏ nhất, trong khi đó không ngăn cản việc tăng giá trị chậm dần dần

3
Trả lời câu hỏi số 1 (Mini case – Chapter 3 – Multinational Business Finance (12th
edition) – David K.Eiteman, Arthur I.Stonehill, Michael H.Moffett (2010) – page 73)



9

của Đồng nhân dân tệ theo thời gian so với các đồng tiền khác như Đồng đô
la Mỹ. Một số chuyên gia tiền tệ nhanh chóng chỉ ra rằng chế độ tỷ giá trước
đây cũng cho phép sự điều chỉnh tỷ giá dần dần và thực tế thì Đồng nhân dân
tệ đã một lần được định giá lại từ Yuan8,70/$ lên Yuan8,28/$ giữa những
năm 1994 và 1997.
3. Những tác động mang tính chất khu vực
Nền kinh tế Trung Quốc nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế châu Á,
đặc biệt là các nền kinh tế Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Đài Loan. Trong
những năm gần đây, một số lượng các ngành công nghiệp then chốt đã
chuyển từ khu vực các quốc gia Nam Á sang Trung Quốc, vì thế sự định giá
lại Đồng nhân dân tệ đã thay thế hiệu quả lợi thế cạnh tranh trong khu vực.
Rất nhiều quốc gia khác ngay lập tức phản ứng lại với sự định giá lại Đồng
nhân dân tệ bằng việc đưa ra những thay đổi về tỷ giá hối đoái của mình. Tuy
nhiên, Hong Kong lại giữ nguyên chế độ neo tỷ giá theo đồng Đô la Mỹ.
Chính phủ Malaysia, chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, cũng đã đưa ra
một chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết tương tự Trung Quốc. Malaysia đã duy
trì một tỷ giá hối đoái cố định từ giai đoạn khủng hoảng tài chính tấn công
châu Á năm 1997. Chế độ tỷ giá mới ở Trung Quốc và Malaysia đều đặc biệt
tương tự chế độ tỷ giá của Singapore, cái mà được gọi là “basket, band, and
crawl” (tỷ giá được xác định dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ dao động, và
được điều chỉnh định kỳ), hay còn gọi lại chế độ tỷ giá BBC, đã được
Singapore sử dụng rất thành công suốt từ giai đoạn những năm 1980.
4. Tác động đến sự cạnh tranh
Trang B1, tờ “The Wall Street Journal” ra ngày 22/07/2005 có bài “Các
công ty đang phải chứng kiến những tác động nhỏ của việc Đồng nhân dân tệ
đắt hơn” viết:



10

“Một công ty nổi tiếng của Mỹ với thị phần lớn tại Trung Quốc là Tập
đoàn Mattel, nhà sản xuất đồ chơi lớn nhất thế giới, tiêu thụ khoảng 70% Búp
bê Barbie, ô tô đồ chơi và nhiều loại đồ chơi khác từ Trung Quốc, bao gồm
cả những nhà máy thuộc sở hữu của tập đoàn ở đó. Một nữ phát ngôn viên
của Mattel đã nói rằng Đồng nhân dân tệ mạnh hơn đồng nghĩa với việc giá
nguyên vật liệu cao hơn vào năm sau khi mà họ đàm phán các hợp đồng với
các nhà máy mà họ không sở hữu ở Trung Quốc. Còn với các nhà máy thuộc
sở hữu của tập đoàn Mattel thì vấn đề lại nằm ở giá nhân công, chứ không
phải giá nguyên vật liệu, tuy nhiên, tác động của nó không quá lớn”.
Việc định giá lại Đồng nhân dân tệ không phải là thứ mà các công ty đa
quốc gia mong đợi. Hầu hết các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại Trung
Quốc đều đầu tư với mục đích biến Trung Quốc thành nơi sản xuất cung ứng
nguồn lực toàn cầu. Vì thế, họ mong muốn một chế độ tiền tệ ổn định và rẻ
tương đối. Một công ty đa quốc gia nước ngoài như Mattel, một trong số
những nhà sản xuất đồ chơi hàng đầu thế giới, 70% nguồn lực cho sản xuất đồ
chơi của tập đoàn này là ở Trung Quốc. Bất kỳ sự định giá lại Đồng nhân dân
tệ nào đều có nghĩa rằng giá cả hàng hóa khi tính bằng Euro hay Đô la Mỹ sẽ
tăng lên, dẫn tới doanh thu và lợi nhuận của họ sẽ bị giảm xuống khi những
sản phẩm tương tự được bán trên thị trường bằng đồng Euro và Đô la Mỹ.
Với một vài công ty, như Boeing, sự định giá lại Đồng nhân dân tệ lại
có tác động tích cực nào đó. Phân lớn nguồn lực của Boeing không được khai
thác ở Trung Quốc, nhưng đây lại là thị trường lớn mang lại doanh thu ngày
càng nhiều cho công ty. Sự định giá lại Đồng nhân dân tệ làm cho sức mua
của khách hàng Trung Quốc đối với những sản phẩm của Boeing tăng nhẹ, vì
những sản phẩm này được định giá xuất khẩu bằng Đồng đô la Mỹ. Những
công ty khác đã nhìn thấy trước được những tác động cạnh tranh phức tạp
hơn. Ví dụ, Genneral Mootors thực tế rất mong đợi sự định giá lại Đồng nhân
dân tệ. Mặc dù GM ngày càng khai thác nguồn lực và lắp ráp nhiều hơn ở



11

Trung Quốc, việc tăng giá Đồng nhân dân tệ 2,1% đã được cho rằng sẽ làm
chi phí sản xuất tăng lên rất nhỏ. Đồng thời, sự định giá lại Đồng nhân dân tệ
được kỳ vọng là sẽ làm cho Đồng Yên Nhật tăng giá thực trên thị trường tài
chính quốc tế so với Đồng đô la Mỹ là Đồng Euro. Đối với tương lai của GM,
bất kỳ sự tăng giá Đồng Yên Nhật nào cũng sẽ đều có lợi vì nó làm tăng chi
phí sản xuất của đối thủ cạnh tranh Toyota khi mà phần lớn việc sản xuất toàn
cầu của Toyota vẫn tại Nhật Bản.
Tác động cạnh tranh đến các công ty Trung Quốc, đặc biệt là các công
ty đa quốc gia Trung Quốc như tập đoàn Haier (nhà sản xuất các thiết bị nhỏ
như tủ lạnh mini trong các phòng ký túc xá đại học khắp thế giới) chủ yếu là
trong dài hạn. Mặc dù họ có thể chỉ phải chịu 2% sự tăng lên trong chi phí so
với giá tại thị trường nước ngoài, sự gia tăng việc thả nổi Đồng nhân dân tệ
qua thời gian sẽ mang đến cho họ những rủi ro hoạt động từ tỷ giá hối đoái.
Họ sẽ phải có một chiến lược hợp lý cho hoạt động kinh doanh của mình dưới
chế độ tỷ giá mới và Đồng nhân dân tệ được định giá lại.
Trước đây, việc duy trì định giá thấp Đồng nhân dân tệ tuy có tác dụng
thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng lại tạo sự cạnh tranh khốc liệt về
giá cả giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với nhau, mà hậu quả là nhiều mặt
hàng không đảm bảo chất lượng, nổi bật là máy tính và một số đồ điện dân
dụng, đây là những mặt hàng cần đến nguồn nguyên liệu thô, nhất là kim loại
và chất dẻo, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng khan hiếm và đắt đỏ.
Sản xuất tăng mạnh, hàng hóa bán được nhiều, thị trường chứng khoán tăng
mạnh, nhưng nguy hiểm hơn là lợi nhuận giảm mạnh và điều này làm tăng
xác suất phá sản của doanh nghiệp Trung Quốc.
Khi Đồng nhân dân tệ được định giá lại trở nên đắt hơn so với Đô la
Mỹ, sẽ có những tác động nhất định. Nhập khẩu hàng hóa vào Trung Quốc sẽ

rẻ đi các doanh nghiệp và chính phủ Trung Quốc sẽ có khả năng mua được
nhiều hàng hóa nước ngoài hơn, làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Họ


12

sẽ có điều kiện để nhập khẩu những trang thiết bị và cơ sở vật chất phục vụ
sản xuất hiện đại hơn, góp phần nâng cao năng suất lao động. Đây cũng sẽ là
lợi thế cho các Hãng hàng không Trung Quốc như Air China, China
EasternAirlines… vốn phải thường xuyên mượn ngoại tệ để mua máy bay hay
nhập khẩu xăng dầu.
Đối với các công ty đa quốc gia của Trung Quốc thực hiện chủ yếu
việc sản xuất của mình ở Trung Quốc, việc Đồng nhân dân tệ trở nên đắt
tương đối so với Đô la Mỹ dường như làm cho chi phí nguyên vật liệu,
nhân công của họ tăng lên và làm giảm sức mua của khách hàng nước
ngoài. Nhưng đối với các công ty đa quốc gia Trung Quốc thực hiện việc
tìm kiếm nguồn lực từ bên ngoài thì dường như chi phí nhập khẩu
nguyên vật liệu của họ lại giảm xuống, chưa kể đến sức mua của thị
trường nội địa Trung Quốc lại tăng lên. Việc tăng giá Đồng nhân dân tệ
so với Đô la Mỹ, như vậy, sẽ làm cho các nhà đầu tư hướng vào thị
trường nội địa nhiều hơn
4
. Như vậy, với nhiều công ty đang gia nhập nhanh
chóng thị trường Trung Quốc để sản xuất hay tìm kiếm thị trường tiêu thụ, chỉ
có thời gian mới có thể cho thấy việc tự do hóa Đồng nhân dân tệ sẽ mang lại
cơ hội hay là thách thức.

4
Trả lời câu hỏi số 4 (Mini case – Chapter 3 – Multinational Business Finance (12th
edition) – David K.Eiteman, Arthur I.Stonehill, Michael H.Moffett (2010) – page 73)



13

II. PHÂN TÍCH VIỆC ĐỊNH GIÁ LẠI ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ
VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC
Chính sách tỷ giá hối đoái của Tung Quốc được thực hiện có tính nhất
quán, gắn trực tiếp với lợi thế thương mại về hàng giá rẻ và khối lượng lớn
của Trung Quốc. Có thể nói chính sách tỷ giá này đã hỗ trợ hữu hiệu cho mục
tiêu thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc. Nhờ sự nhạy bén của của các công
cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong
nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài (trong khi các chính sách
kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hoá để giảm lạm phát thì chính
sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu). Trung Quốc đã cho
thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý của
đồng nhân dên tệ đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng
những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm
bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự
thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ
giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất
khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ,
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Các vấn đề được thực thi trong chính
sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc có nhiều khía cạnh khác nhau.
1. Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định
giá thấp Đồng nhân dân tệ để tạo ra lợi thế thương mại ngắn hạn
Trong thương mại quốc tế, Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối
đoái trên cơ sở định giá thấp Đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác (đặc
biệt với Đô la Mỹ) để tạo lợi thế thương mại ngắn hạn nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu, tăng thặng dư cán cân thương mại, duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp, tạo sự
ổn định và bền vững trong dự trữ ngoại hối.



14

Vào những năm 1980, tỷ giá giữa Đô la Mỹ và Nhân dân tệ là Yuan2/$,
năm 1994 Trung Quốc phá giá mạnh Đồng Nhân dân tệ khi đưa tỷ giá Đô la
Mỹ - Nhân dân tệ lên mức Yuan8,5/$ và giữ cố định tỷ giá này trong suốt
những năm từ 1995 cho đến năm 2005 tăng lên là Yuan8,25/$ trước khi định
giá lại Đồng nhân dân tệ ngày 21/07/2005. Ngày 21/07/2005, Trung Quốc tiến
hành điều chỉnh tỷ giá theo hướng nâng giá Đồng nhân dân tệ vào thời điểm
này là Yuan8,11/$, sau đó tỷ giá được cho phép thả nổi tỷ giá trong giới hạn
biên độ 0,3% so với tỷ giá chính thức của Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc.
Đồng nhân dân tệ đã lên giá 3,12% kể từ khi cải cách tỷ giá. Việc nâng
giá Đồng nhân dân tệ gây bất lợi đới với hoạt động xuất khẩu và Trung Quốc
đã tìm biện pháp để định giá danh nghĩa cao Đồng nhân dân tệ song lại cố
gắng để giảm giá thực tế đồng tiền này mà các đối tác thương mại khó có thể
phản ứng thích hợp. Để thực hiện được chế độ tỷ giá có sự khác biệt giữa tỷ
giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế, Trung Quốc đã có những biện pháp điều
chỉnh và duy trì sự khác biệt này có hiệu quả rất cao. Ví dụ tỷ giá hối đoái
danh nghĩa giữa Đồng nhân dân tệ với Đô la Mỹ dao động trong khoảng
1USD = 6,77 – 6,88 Yuan song tỷ giá hối đoái thực tế dao động trong khoảng
1USD = 8,28 Yuan.
5

Với việc định giá thấp đồng tiền của mình Trung Quốc còn tạo ra hàng
rào bảo hộ thương mại đối với thị trường trong nước khi Trung Quốc phải mở
cửa thị trường theo các cam kết khi gia nhập WTO, đồng thời góp phần bảo
vệ việc làm cho người lao động trong nước.


5
Nguồn số liệu:


15

2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc là duy trì
cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối và nâng cao vị thế của Đồng
nhân dân tệ
a. Đồng nhân dân tệ được định giá thấp mang về cho ngân sách Trung
Quốc một lượng lớn ngoại tệ
Cũng giống một số nước khác, vào năm 1994, Trung Quốc đã cố định
tỷ giá Yuan8,28/$. Điều thú vị ở đây là khác với nhiều nước Đông Á, với tỷ
giá này, Đồng nhân dân tệ đã bị định giá thấp, nhưng tạo được lợi thế xuất
khẩu gia tăng. Cộng với những yếu tố thuận lợi khác, một kết quả hết sức mỹ
mãn đối với Trung Quốc là kể từ đó thặng dư mậu dịch và dữ trữ ngoại hối
liên tục gia tăng. Thực tế đến nay cho thấy với việc duy trì tỷ giá phù hợp đã
giúp Trung Quốc luôn đạt được thặng dư thương mại, kể cả trong giai đoạn
khó khăn nhất của nền kinh tế thế giới. Ví dụ cán cân thương mại Trung Quốc
luôn thặng dư với con số thặng dư là 261,9 triệu USD năm 2007 năm 2008
tăng lên 297 triệu USD, và đạt 198 triệu USD năm 2009. Bên cạnh thặng dư
cán cân thương mại liên tiếp qua các năm phải kể đến sự bền vững kho dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc: tăng từ 1.528 tỷ USD năm 2007 lên 1.946 tỷ USD
năm 2008 và tính đến hết năm 2009, con số này lên đến 2.400 tỷ USD.
6

b. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu đưa Đồng nhân dân tệ thành
một trong số những đồng tiền mạnh của nền kinh tế thế giới
Tuy nhiên, việc duy trì Đồng nhân dân tệ yếu tuy có tác dụng thúc đẩy
xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng lại tạo sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả

giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với nhau. Sản xuất tăng mạnh, hàng hóa
bán được nhiều, thị trường chứng khoán tăng mạnh, nhưng nguy hiểm hơn là
lợi nhuận giảm mạnh và điều này làm tăng xác suất phá sản của doanh
nghiệp. Suy cho cùng, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu quá lâu hoàn toàn

6
Nguồn:


16

không có lợi cho chính nền kinh tế Trung Quốc, và điều này buộc Chính phủ
Trung Quốc phải can thiệp để tăng giá bản tệ với mục tiêu chính là giảm bớt
rủi ro đối với kinh tế trong nước.
Một số nước đã hối thúc Trung Quốc nới lỏng kiểm soát tiền tệ hơn
nữa, mục tiêu là giảm sự mất cân đối thương mại và tiết kiệm giữa các quốc
gia. Đề xuất này đã buộc Trung Quốc phải lưu tâm và tiến hành nới lỏng tiền
tệ, góp phần tăng tỉ giá giữa đồng nhân dân tệ với Đô la Mỹ.
Các nhà kinh tế nhận định, khi Đồng nhân dân tệ mạnh lên sẽ có những
tác động nhất định đối với các nền kinh tế khác. Nhập khẩu hàng hóa vào
Trung Quốc sẽ rẻ đi các doanh nghiệp và chính phủ Trung Quốc sẽ có khả
năng mua được nhiều hàng hóa nước ngoài hơn, làm tăng nhu cầu đối với
hàng nhập khẩu. Đây sẽ là lợi thế cho các Hãng hàng không Trung Quốc như
Air China, China EasternAirlines… vốn phải thường xuyên mượn ngoại tệ để
mua máy bay hay nhập khẩu xăng dầu. Đối với bản thân Trung Quốc, đồng
nội tệ lên giá cũng sẽ là một công cụ hiệu quả giúp kiềm chế lạm phát trong
nước, thay vì phải áp dụng các quy định ngặt nghèo đối với hệ thống ngân
hàng như nước này phải làm trong thời gian qua.
Đồng nhân dân tệ lên giá đã tạo ra khả năng đa dạng hóa cơ cấu dự trữ
quốc gia, hệ quả là đẩy Đồng đô la giảm sâu hơn so với các đồng tiền mới nổi

nhưng tăng lên so với euro. Một số Ngân hàng Trung ương vốn đã mua Đô la
Mỹ nhằm duy trì việc neo tỉ giá, đã nhanh chóng đa dạng hóa danh mục dự
trữ bằng cách bán 1/3 lượng Đô la Mỹ thu được để mua những ngoại tệ khác,
chủ yếu là euro vì có rất ít lựa chọn khác và nếu đồng nhân dân tệ tăng giá thì
tương quan euro/đô la sẽ giảm xuống. Điều này được nhiều nhà đầu tư và đầu
cơ kỳ vọng, kết cục là giá vàng đã tăng lên so với Euro, Bảng Anh và Yên
Nhật trong thời gian qua (bắt đầu từ ngày 23/11/2009).
Tuy nhiên, việc tăng giá Đồng nhân dân tệ có thể tiếp tục làm tăng
thêm việc tập trung Euro so với Đồng đô la Mỹ đồng thời với việc tăng cường


17

dòng vốn vào các nền kinh tế mới nổi, dẫn đến tăng giá những đồng tiền này
hơn là giảm giá, các nhà đầu tư có thể tiếp tục nâng cao vị thế của họ nhờ các
đồng tiền mới nổi bởi lẽ việc điều chỉnh Đồng nhân dân tệ chỉ là sự bắt đầu
của một quá trình điều chỉnh thị trường ngoại hối dài hơi. Do Đồng nhân dân
tệ chỉ tăng nhẹ, các nền kinh tế mới nổi, nhất là những đối thủ cạnh tranh xuất
khẩu của Trung Quốc tại châu Á, phải tiếp tục đối mặt với áp lực tăng giá bản
tệ. Các Ngân hàng Trung ương từ Liên bang Nga đến Hàn quốc, Brazil sẽ cần
phải mua Đô la Mỹ và vàng để kiềm chế làn sóng đầu cơ đang đe dọa kinh tế
trong nước. Đồng Euro cũng phải gánh chịu những nỗ lực kiềm chế tăng giá
bản tệ của Trung Quốc và những nước khác và rất ít sự can thiệp ngoại hối có
thể hỗ trợ các nhà xuất khẩu châu Âu. Trong bối cảnh đồng nhân dân tệ tăng
giá, nếu Đồng đô la Mỹ phục hồi thì tương quan Euro/Đô la Mỹ sẽ giảm,
nhưng sự phục hồi Đô la Mỹ không tác động đến những đồng tiền mới nổi.
Việc định giá lại Đồng nhân dân tệ sẽ làm giảm luồng vốn từ Trung
Quốc và nhiều nước châu Á vào euro và những đồng tiền thả nổi khác, nhưng
không giảm nhẹ áp lực tăng giá bản tệ tại các thị trường mới nổi. Mặc dù bị
các quốc gia trên thế giới lên án về việc thực thi chính sách tiền tệ song Trung

Quốc vẫn cố gắng kiên định với chế độ tỷ giá BBC nhằm mục tiêu khuyến
khích xuất khẩu, tạo lợi thế thương mại so với các nước bạn hàng và dần đưa
đồng nhân dân tệ trở thành đồng tiện mạnh trong hệ thống tiền tệ thế giới,
nhằm củng cố vị trí tài chính trên trường quốc tế.
Hơn thế nữa, nhờ khoản tiền dữ trữ ngoại hối dồi dào mà Trung Quốc
có thể chi ra cả trăm tỷ Đôla để biến các ngân hàng thương mại nhà nước với
tình trạng tài chính yếu kém trở thành những ngân hàng có khả năng cạnh
tranh được biết đến qua những vụ phát hành cổ phiếu ra công chúng hết sức
rùm beng trong hai năm qua.


18

3. Các phản ứng của Trung Quốc về tỷ giá hối đoái linh hoạt và gắn
với từng mối quan hệ thương mại cụ thể với từng thời điểm cụ thể.
Trong điều kiện Đồng đô la Mỹ tăng giá, Trung Quốc đã tìm cách để
định giá thấp Đồng nhân dân tệ. Điều này làm cho Trung Quốc có lợi thế
thương mại lớn so với Hoa Kỳ đồng thời cũng có lợi thế hơn so với các đối
tác thương mại khác của Trung Quốc thực thi chính sách neo giá đồng tiền
nước đó với Đồng đô la Mỹ. Với cách thức này, Trung Quốc gần như đã khai
thác triệt để lợi thế thương mại không chỉ với Hoa Kỳ mà còn với các đối tác
thương mại khác. Trong điều kiện Đồng đô la Mỹ giảm giá vì Hoa Kỳ muốn
cải thiện cán cân thương mại cũng như để giảm giá trị thực tế của lượng dự
trữ USD của Trung Quốc, Trung Quốc thực hiện chính sách neo buộc chặt
hay nói cách khác cố định tỷ giá Đồng nhân dân tệ với đồng Đô la Mỹ để
giảm giá Đồng nhân dân tệ nhằm tăng lợi thế thương mại và tiến hành chuyển
đổi một phần Đô la Mỹ ra vàng để bảo hiểm giá trị của lượng dự trữ ngoại hối
của mình. Nghĩa là dù Đô la Mỹ ở vị thế nào chăng nữa, Trung Quốc cũng có
thể vận dụng triệt để cơ hội để tạo lợithế thương mại cho mình. Điều này cho
thấy Trung Quốc thường xuyên thực hiện giám sát chặt chẽ những biến động

Đô la Mỹ và những chính sách tỷ giá do Mỹ áp dụng để đưa ra các “kế sách”
có lợi nhất.
Với sức mạnh về ngoại thương và số tiền có sẵn trong tay, Trung Quốc
đã khiến cho tất cả các đối tác thương mại, kể cả Hoa Kỳ phải e ngại. Có lẽ,
một trong những vấn đề được tranh luận nhiều nhất trên chính trường nước
Mỹ là vấn đề tỷ giá đồng Nhân dân tệ. Có thể việc không thuyết phục được
Trung Quốc nới lỏng chính sách tỷ giá như kỳ vọng mà Bộ trưởng Bộ Tài
chính John Snow phải từ chức để lại gánh nặng cho người kế nhiệm Henry
Paulson. Thực ra, vào cuối tháng 07/2005, để chuẩn bị món quà cho chuyến
viếng thăm Hoa Kỳ của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc đã quyết định bỏ
chế độ tỷ giá cố định, cho phép đồng Nhân dân tệ dao động linh hoạt hơn.


19

Nhưng điều này có vẻ vẫn chưa làm hài lòng các chính trị gia cũng như các
nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, sau 18 tháng, đồng Nhân dân tệ chỉ tăng giá vào
khoảng 6%, thấp hơn mức người ta kỳ vọng rất nhiều.
Tuy nhiên, mỗi quyết định trong chính sách tỷ giá của Trung Quốc theo
nhiều nhà phân tích nhận định là đứng trên lập trường chính trị, khi mà không
chỉ quyết định cải cách chính sách tỷ giá hối đoái ngày 21/07/2005 là nhằm
làm giảm căng thẳng giữa chính phủ Trung Quốc và chính phủ Hoa Kỳ mà
bài toán chính trị tương tự năm 2010 cũng được giải quyết bằng việc nâng giá
Đồng nhân dân tệ. Ngày 22/6/2010, Trung Quốc đã thực hiện bước đi đầu tiên
trong cam kết linh hoạt giá Đồng nhân dân tệ. Theo đó, Ngân hàng Trung
ương Trung Quốc đã xác lập tỷ giá hối đoái mới ở mức Yuan6,7980/$, tăng
0,43% so với mức Yuan6,8275/$ của ngày 21/6/2010. Đây là mức cao nhất kể
từ khi Bắc Kinh định giá lại Đồng nhân dân tệ vào tháng 7 năm 2005. Động
thái trên là do Trung Quốc muốn giảm bớt bầu không khí căng thẳng tại Hội
nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và đang phát triển (G-20)

khi đó đang nhóm họp tại Canada.
4. Công cụ điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc rất linh hoạt
và hiệu quả
Trước năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định và đa
tỷ giá. Cơ chế này đã làm cho các doanh nghiệp mất đi quyền chủ động trong
kinh doanh, không gắn kết lợi ích kinh tế với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, làm cho các doanh nghiệp không chú ý đến hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh, tăng tính ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước, chính điều
này đã làm cho Trung Quốc rơi vào suy thoái, khủng hoảng kinh tế sâu sắc.
Đầu những năm 80, Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ
giá giảm dần để phản ánh đúng sức mua của Đồng nhân dân tệ. Chính sách
này đã giúpTrung Quốc cải thiện được cán cân thương mại, giảm thâm hụt


20

thương mại và cáncân thanh toán, đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát của Trung quốc tiếp tục gia tăng, hạn chế
xuất khẩu và ảnh hưởng đếnmục tiêu phát triển kinh tế. Tháng 1/1994, Trung
Quốc chính thức công bố điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng nhân dân tệ; đồng thời,
để chính sách điều chỉnh tỷ giá giữ được ổn định, không bị giới đầu cơ thao
túng, Trung Quốc đã thực hiện chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối, nhằm
mục đích tập trung ngoại tệ về Nhà nước, đảm bảo cung-cầu ngoại tệ thông
suốt. Đồng thời, từ năm 1994 -1996, Trung Quốc thực hiện chính sách kết hối
ngoại tệ bắt buộc theo quy định của Chính phủ và quy định về cải cách cơ chế
quản lýngoại hối PBC. Theo đó, các nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp,
tổ chức xã hội phải kịp thời chuyển về nước và bán hết cho các ngân hàng
được ủy quyền. Từ năm 1997 đến nay chính sách kết hối ngoại tệ tiếp tục
được nới lỏng khi dự trữ ngoại hối tăng lên. Hiện Trung quốc đang thực hiện
việc quản lý tỷ giá theo một rổ tiền tệ của các đối tác thương mại chính. Kết

quả là nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về ngoại hối,
Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Thị
trường ngoại tệ ổn định, cung cầu ngoại tệ được cân đối.
Có thể nói trong thời gian qua, Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả
trong quá trình cải cách nền kinh tế, trong đó có những đóng góp quan trọng
của việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc.
Những kinh nghiệm thành công cũng như các khó khăn trong cải cách kinh tế
của Trung Quốc là những bài học quý giá cho các nước chuyển đổi nền kinh
tế như Việt Nam nghiên cứu và vận dụng. Đến năm 2007, Dự trữ ngoại hối
Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ USD. Ngày 13/8/2007 Cục Quản lý
ngoại hối ban hành Chỉ thị số 48 cho phép các tổ chức kinh tế căn cứ nhu cầu
sử dụng ngoại tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh được quyền giữ lại số
ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản. Như vậy, sau 13 năm Trung


21

Quốc mới xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ, chính sách này đượcxóa bỏ khi
nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, dự trữ ngoại hối
cao.
Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối còn thể hiện ở các quy định về
hạn chế chovay ngoại tệ trong nước. Từ năm 1994 đến năm 2002, các ngân
hàng thương mại Trung Quốc không được phép cho các doanh nghiệp trong
nước vay ngoại tệ. Đến ngày 6/12/2002 Cục Quản lý ngoại hối mới có văn
bản (Chỉ thị số 125 về cải cách cơ chế cho vay ngoại tệ trong nước) cho phép
các ngân hàng thương mại cho các tổ chức kinh tế trong nước vay ngoại tệ.
Khi vay vốn ngoại tệ các tổ chức kinh tế phải làm thủ tục mở tài khoản vay
ngoại tệ tại các ngân hàng được ủy quyền. Các ngân hàng thương mại có trách
nhiệm đăng ký khoản cho vay với cơ quan quản lý ngoại hối. Gần đây, khi

nền kinh tế Trung Quốc đã lớn mạnh, dự trữ ngoại hối tới 2.847,3 tỷ USD,
chính sách tỷ giá của Trung Quốc làm cho các nước Mỹ, phương Tây đau
đầu. Ngày 5/8/2008, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo mới ký Sắc lệnh sửa
đổi Điều lệ quản lý ngoại hối cho phép tự do hóa các giao dịch vãng lai và nới
lỏng quản lý với giao dịch vốn với nội dung gần tương tự với pháp lệnh ngoại
hối củaViệt Nam. Nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về
ngoại hối, Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm
bảo đáp ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững
chắc. Từ năm 1994 đến nay đã gần 20 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung
Quốc vẫn giữ được thị trường ngoại tệ ổn định, dựa trên cơ sở cân đối được
cung cầu ngoại tệ. Với chính sách Nhà nước quản lý chặt chẽ các nguồn thu
ngoại tệ sau khi điều chỉnh tỷ giá, đã góp phần tăng quyền sở hữu ngoại tệ của
các ngân hàng thương mại, đó chính là chìa khóa thành công giúp cho các
ngân hàng có đủ ngoại tệ bán cho các tổ chức kinh tế và cá nhân có nhu cầu.
Cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc trong thời gian qua đã
thu được nhiều kết quả, có những đóng góp quan trọng của việc điều hành cơ


22

chế tỷ giá linh hoạt, chủ động của các cơ quan chức năng Trung Quốc. Những
kinhnghiệm thành công cũng như các khó khăn trong cải cách kinh tế của
Trung Quốc là những bài học quý giá cho các nước chuyển đổi nền kinh tế
như Việt Nam nghiên cứu và vận dụng.
5. Chính sách tỷ giá hối đoái hiệu quả của Trung Quốc là kết quả của
quá trình cải cách kinh tế và tự do hóa tài chính
Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc có được vị thế như hiện nay
mà song song với quá trình cải cách kinh tế, họ đã thực hiện một quá trình cải
cách và tự do hóa tài chính một cách hợp lý qua 5 giai đoạn khác nhau mà bắt
đầu bằng việc tự do hóa lần đầu tiên trong những năm 1978 - 1986, đến giai

đoạn tự do hóa và mở cửa ngành tài chính sau khi gia nhập WTO vào năm
2001. Trong quá trình tự do hóa tài chính của mình, không phải lúc nào cũng
suôn sẻ đối với Trung Quốc, sau cuộc khủng hoảng năm 1997, sức ép phá giá
lên đồng Nhân dân tệ rất nhiều, nhưng nhờ sức mạnh sẵn có của nền kinh tế
cộng với một lượng ngoại tệ dữ trữ tương đối lớn (gần 150 tỷ đôla) mà Trung
Quốc đã thành công trong việc duy trì chính sách tỷ giá của mình. Điều này
cũng đã giúp Đông Á không chìm sâu vào khủng hoảng.
Điều đáng chú ý ở đây là trong vòng 10 năm qua, Trung Quốc đã tung
ra số Nhân dân tệ bằng 40% cung tiền để mua vào gần 1.000 tỷ đôla giá trị
ngoại tệ mạnh, nhưng lạm phát bình quân chưa đến 1%, trong khi tốc độ tăng
cung tiền lên đến16% và tốc độ tăng dữ trữ ngoại hối trên 24%. Nhiều người
lý giải vấn đề này là do đồng Nhân dân tệ đang mạnh, người ta muốn cất giữ
nó (bằng tiền mặt) hoặc chuyển ra nước ngoài để chờ khi nó lên giá mới bán
ra. Đây là một trong những điều lo ngại của Trung Quốc.
Dù sao, với vị thế của mình, Trung Quốc đang thực hiện một tiến trình
cải cách tỷ giá hối đoái và tự do hóa tài chính một cách chủ động. Một trong
những sai lầm lớn nhất gây ra cuộc khủng hoảng năm 1997 là việc Thái Lan


23

đã mở tài khoản vốn quá sớm làm cho một dòng nợ, nhất là nợ ngắn hạn
khổng lồ đổ vào kết hợp với chính sách cố định tỷ giá ở mức cao, đồng tiền
kém sức cạnh tranh, thâm hụt thương mại gia tăng làm cho vấn đề trầm trọng
hơn. Trái lại, thành công của Trung Quốc có được là do nước này đã định giá
đồng tiền ở mức thấp tạo ra lợi thế cạnh tranh ngoại thương cộng với một tiến
trình cải cách thương mại và cải cách tài chính hợp lý.

×