Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu cà phê việt nam sang thị trường eu tới năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.75 KB, 56 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập là xu hướng tất yếu của một nền kinh tế. Trên thực tế, một quốc
gia không thể có sự phát triển phồn thịnh nếu nền kinh tế ở trạng thái tự cung tự
cấp, đóng cửa giao thương với nước ngoài. Không nằm ngoài quy luật ấy, Việt
Nam tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như một xu hướng tất yếu
của sự phát triển. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO như một dấu mốc đánh dấu
cho sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Bất kì cuộc chơi nào cũng có
tính hai mặt của nó, hội nhập càng sâu Việt Nam càng có nhiều cơ hội lớn và tất
nhiên thách thức đặt ra cũng không hề nhỏ. Trải qua hơn bốn năm chính thức gia
nhập WTO các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước đi phù hợp để tìm
kiếm cho mình một chỗ đứng trên đấu trường quốc tế,khi mà sự cạnh tranh đang
diễn ra từng ngày, từng giờ với tính chất gay gắt và không kém phần khốc liệt -
Thương trường như chiến trường. Tuy nhiên, năng lực cạnh trạnh của các doanh
Nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn được đánh giá là chưa xứng với tiềm năng của
mình nếu không muốn nói là kém, đặc biệt là sức cạnh tranh của các mặt hàng
xuất khẩu liên quan đến cây công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hồ tiêu,
cây điều,…còn yếu so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Cây cà phê là cây công nghiệp dài ngày, và có thể nói là thế mạnh của Việt
Nam vì nó có khả năng thích ứng rộng và mang lại giá trịvà hiệu quả kinh tế
cao. Việt Nam có được lợi thế vô cùng lớn về điều kiện khí hậu, đất đai, con
người … thuận lợi cho sự phát triển của cây cà phê. Chính vì thế cây cà phê đã
trở thành mặt hàng mang lại nguồn lợi kinh tế lớn đặc biệt trong hoạt động xuất
khẩu.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam hiện nay lại
gặp nhiều khó khăn và năng lực cạnh tranh còn yếu kém so với các đối thủ như
Ấn Độ, Brazil, Colombia…Trong điều kiện hội nhập như hiện nay, nếu các
doanh nghiệp xuất khẩu và chế biến cà phê nếu không có những giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì sẽ nhanh chóng bị đào thải bởi quy
luật cạnh tranh.
Trong tất cả các thị trường xuất khẩu cà phê thì thị trường EU được đánh


giá là một trong những thị trường khó tính nhưng cũng là một thị trường tiềm
năng cho các doanh nghiệp. Cũng chính vì thế mà sự cạnh tranh trên thị trường
này đang diễn ra ngày một gay gắt với những thủ thuật tinh vi hơn rất nhiều so
với những cách thức cạnh tranh truyền thống.Vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết khi thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng vừa trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế trong thời gian
gần đây. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam có thêm nhiều
thông tin và giải pháp em đã quyết định chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU tới năm 2020”

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của bài viết hướng tới là nghiên cứu năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài chính là :
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU.
Thứ hai, phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất khẩu và chế biến cà phê hiện nay trên thị trường EU, đồng thời tìm ra
những ưu điểm và nhược điểm của nhóm hàng này so với các đối thủ các.
Và cuối cùng, đưa ra các kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
trạnh của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU trong
thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất
khẩu cà phê Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: thị trường EU nhằm đưa ra những giải pháp chung
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt
Nam sang thị trường EU
Thời gian nghiên cứu là từ năm 2005 đến đầu năm 2012.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế như chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử,phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê và phương pháp so sánh, sử dụng mô hình kinh
tế….nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

5. Kết cấu đề tài
Đề tài được chia thành ba chương với nội dung bao quát như sau:
Chương I : Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
cà phê Việt Nam sang thị trường EU
Chương III : Định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị
trường EU trong thời gian tới
CHƯƠNG I: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.KHÁI QUÁT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1.1.Khái niệm năng lực cạnh tranh
1.1.1.1.Các quan niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được hiểu bằng nhiều phương thức khác nhau. Trong từ
điển Bách Khoa toàn thư, cạnh tranh được định nghĩa là sự cố gắng giành phần
hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm đạt
được những lợi ích như nhau.

Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” của
Adam Smith, ông cho rằng cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp
nhàng, có lợi cho xã hội. Vì sự cạnh tranh trong quá trình của cải của các dân tộc
tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và giá cả. Do đó, cạnh tranh có
quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị trường. Theo Smith, “Nếu tự do cạnh tranh, các
cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công
việc của mình một cách chính xác”, “Cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố

gắng lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ
thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố
gắng lớn nào”.
Trong tác phẩm “Về nguồn gốc của các loài”, Charles Robert Darwin đã đề
ra tư tưởng “vật cánh thiên trạch, thích giả sinh tồn”, đó là sự mô tả hay nhất về
sự cạnh tranh trong giới sinh vật. Quả vậy, không có cạnh tranh thì không có sự
tiến bộ của sinh vật, toàn bộ giới sinh vật, trong đó gồm cả loài người sẽ vì thiếu
sức sống mà suy vong.
Tiếp theo là quan điểm của Các Mác về cạnh tranh giữa những người sản
xuất và vấn đề Các Mác nghiên cứu liên quan tới sự cạnh tranh này là cạnh tranh
giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh tranh này diễn ra dưới
ba góc độ: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các
nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng
thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để
thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc gia
tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư.
Ba góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự
thực hiện giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản
trong lý luận cạnh tranh của Các Mác.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới
xây dựng lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận kinh tế ở
nửa đầu thế kỷ ấy nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư
bản chủ nghĩa để chỉ đạo cạnh tranh. Kết quả là họ đã cho đời tư tưởng về thể
chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, lấy thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm
cốt lõi. Cạnh tranh hoàn hảo là một trong những giả thiết cơ bản của lý luận kinh
tế này.
Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà kinh tế
học thuộc trường phái cổ điển của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học của trường
phái Áo cho rằng: “Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý luận cạnh tranh
hiện đại là vứt bỏ việc lấy cạnh tranh hoàn hảo làm giáo điều của lý luận cạnh

tranh hiện thực và lý tưởng, cạnh tranh được xem xét ở góc độ là một quá trình
động, phát triển chứ không phải là quá trình tĩnh”
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho
sự phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Cạnh tranh giúp
khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra các phương tiện mới
để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao hơn. Từ đó,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh tranh đã thúc
đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu mới trên
nhiều lĩnh vực.
Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng với
ảnh hưởng của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là cuộc
đấu tranh giữa các đối thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh ngày càng
được xem là một cuộc đấu tranh giữa các đối thủ với mục đích đánh bại đối thủ.
Đặc biệt, trước xu thế hội nhập như hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc
liệt và phức tạp hơn, trở thành một vấn đề sống còn của doanh nghiệp, doanh
nghiệp nào không thể cạnh tranh được với đối thủ sẽ nhanh chóng bị đào thải ra
khỏi thương trường.
1.1.1.2.Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Theo Fafchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh
nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá
của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra
những sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác
nhưng có chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh
Một quan niệm khác cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được
hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần,
lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối
quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục
tiêu xác định”
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Quy, “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp
là khả năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy

trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của
ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sẽ hoạt động an toàn và lành mạnh, có
khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh
doanh.”
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp, được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể
hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.1.2.Các cấp độ năng lực cạnh tranh
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh ở cấp độ quốc gia
Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu
hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người
dân.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy
trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh
tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều
sản phẩm dịch vụ. Vì vậy, người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.
1.1.2.3.Năng lực cạnh tranh sản phẩm, dịch vụ
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo bằng thị phần của
sản phẩm hay dịch vụ trên thị trường.
Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với
nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nền kinh tế
có năng lực cạnh tranh quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp có cạnh tranh,
ngược lại, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường
kinh doanh cho nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ
ràng, có thể sự bao được, nền kinh tế phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong
sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên nghiệp.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể
hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc
gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hoặc một số sản phẩm dịch vụ có năng lực
cạnh tranh.
1.2.CÁC YẾU TỐ CHỦ YẾU TẠO NÊN NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Thị phần
Theo khoản 5, điều 3 Luật Cạnh tranh, thị phần của doanh nghiệp đối với
một loại hàng hóa hay dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra
của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỉ lệ phần trăm
giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất
cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên
quan theo tháng, quý, năm.
Thị phần ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có thị phần lớn đồng nghĩa với năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đó càng cao. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chịu chi phí lớn thậm
chí không có doanh thu để chiếm lĩnh thị phần của các doanh nghiệp khác.
1.2.2. Gía cả
Gía cả luôn tác động đến quan hệ cung cầu. Gía thấp thì khối lượng hàng
hóa bán ra sẽ tăng nhưng giá trị hàng hóa không tăng đáng kể thậm chí là giảm.
Ngược lại, khi giá hàng hóa tăng cao thì khối lượng bán ra có thể không tăng
nhưng giá trị hàng hóa có thể tăng mạnh.
1.2.3. Kênh phân phối
Một kênh phân phối hợp lý sẽ không những giảm chi phí trong hoạt động

nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa mà còn giúp cho quá trình bán hàng được
nhanh chóng và nắm bắt tốt thông tin phản hồi từ thị trường.
Một kênh phân phối tốt sẽ giúp cho khách hàng hài lòng hơn khi mua sản
phẩm. Dịch vụ phân phối còn là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu của các nhà cung
ứng nhằm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Nếu như không có dịch vụ phân
phối tốt thì khách hàng sẽ mua hàng của đối thủ cạnh tranh mà không mua của
doanh nghiệp cho dù sản phẩm của doanh nghiệp đó có giá rẻ hơn.

1.2.4. Xúc tiến hỗn hợp và hỗ trợ kinh doanh
Thông qua hoạt động xúc tiến hỗn hợp và hỗ trợ kinh doanh, người tiêu
dùng sẽ biết về sản phẩm rõ hơn cũng như nhà sản xuất tiếp cận được với nhu
cầu của người tiêu dùng tốt hơn. Nó có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh
của hàng hóa khi được tung ra thị trường, định hướng thị trường mục tiêu và
khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp.

1.3.NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.3.1.Môi trường bên ngoài
1.3.1.1.Nhóm các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp là tổng hợp các nhân tố kinh tế ,
chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội , tự nhiên, công nghệ,… Các nhân tố này có
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình sản xuất hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp và ảnh hưởng của nó là không nhỏ.
A. Các nhân tố về mặt kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm các vấn đề như tăng trưởng kinh tế , thu
nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp… ảnh hưởng một cách gián tiếp đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chẳng hạn khi nền kinh tế tăng trưởng , GDP
cao, thu nhập người dân tăng lên, mức sống được nâng cao thì nhu cầu người
tiêu dùng cũng đòi hỏi cao hơn. Họ muốn tiêu dùng hàng chất lượng tốt hơn
đồng thời chấp nhận thanh toán với giá cao hơn. Doanh nghiệp cần phải nắm bắt

được sự thay đổi nhu cầu này để điều chỉnh chiến lược kinh doanh hợp lý và
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Mặt khác khi GDP tăng lên cũng có
nghĩa là chi phí về tiền lương của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Đây cũng
chính là nhân tố làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Những chính sách kinh tế như chính sách thương mại , chính sách đầu tư,
chính sách tài chính, tỉ giá hối đoái, thuế ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp . Chính sách đầu tư phát triển ảnh hưởng đến phương án
đầu tư của doanh nghiệp,hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, ảnh hưởng đến khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp. Một chính sách đầu tư thuận lợi sẽ thu
được nhiều vốn đầu tư từ bên ngoài ( kể cả vốn đầu tư nước ngoài ). Chính sách
tài chính , lãi xuất tiền vay, tiền gửi ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sử dụng
vốn. Khi lãi suất tiền vay cao thì chi phí sử dụng vốn tăng, hiệu quả kinh doanh
giảm. Chính sách tài chính , thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí. Cụ thể là thuế
xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, đây là một khoản chi phí khá lớn trong
sản xuất hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu, nếu mức thuế cao thì chi phí tăng lên
giá thành sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp . Chính sách về tỉ
giá hối đoái cũng ảnh hưởng lớn đến năng lực canh của doanh nghiệp cả trong
và ngoài nước. Khi tỉ giá hối đoái tăng giá trị đồng nội tệ giảm xuống sẽ có lợi
cho hoạt động xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh về giá trên thị trường nước
ngoài . Đồng thời khi tỉ giá tăng sẽ hạn chế được nhập khẩu vì giá hàng nhập
khẩu sẽ tăng lên, năng lực cạnh tranh của hàng ngoại giảm xuống. Và như vậy
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tăng cả ở thị trường
trong nước và nước ngoài.
B. Các nhân tố thuộc chính trị, luật pháp.
Môi trường này bao gồm: Luật pháp, các chính sách và cơ chế của
Nhà nước đối với giới kinh doanh. Quan tâm hàng đầu của Nhà nước được thể
hiện trong sự thay đổi của luật kinh doanh là bảo vệ các doanh nghiệp , nhưng
cũng đồng thời nó lại kích thích tính chất cạnh tranh và giữ thái độ trung gian
khi phải đối phó với các xung đột trong cạnh tranh. Điều này bắt buộc các doanh
nghiệp muốn tồn tại phải biết bám lấy hành lang pháp luật để hành động.

C. Các nhân tố về khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ đóng một vai trò quan trọng , có ý nghĩa rất lớn
trong cạnh tranh không chỉ các doanh nghiệp trong nước với nhau mà cả các
doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt trong thời kỳ phát triển khoa học công nghệ
như hiện nay thì sản phẩm nhanh chóng bị lão hoá, vòng đời sản phẩm bị rút
ngắn lại dẫn đến việc các sản phẩm nhanh chóng bị đào thải trên thị trường. Do
vậy, để chiến thắng trong cạnh tranh thì doanh nghiệp phải luôn đổi mới trang
thiết bị , sử dụng các công nghệ hiện đại để tạo được lợi thế hơn so với các đối
thủ cạnh tranh.
D. Các nhân tố về văn hoá xã hội
Các yếu tố văn hoá luôn liên quan tới nhau nhưng sự tác động của
chúng lại khác nhau. Thực tế con người luôn sống trong môi trường văn hoá đặc
thù, tính đặc thù của mỗi nhóm người vận động theo hai khuynh hướng: Một
khuynh hướng là giữ lại các tinh hoa văn hoá của dân tộc, một khuynh hướng là
hoà nhập với các nền văn hoá khác. Điều này ảnh hưởng lớn tới việc các sản
phẩm xâm nhập vào các thị trường nước ngoài . Các doanh nghiệp cần phải
quan tâm tới các yếu tố văn hoá để tạo ra các sản phẩm phù hợp nhu cầu, phong
tục, tập quán người tiêu dùng nước ngoài để cho sản phẩm tạo ra phù hợp với
văn hóa và thị hiếu của đói tượng mà doanh nghiệp muốn hướng tới.

1.3.1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Môi trường hoạt động của doanh nghiệp ( hay còn gọi là môi trường đặc thù)
là những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh của riêng từng doanh nghiệp như:
khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh và các sản phẩm thay thế.
Chúng chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
A. Khách hàng.
Khchs hàng là yếu tố giải quyết đầu ra cho doanh nghiệp .Khách hàng tác
động đến doanh nghiệp thông qua việc đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải
giảm giá bán sản phẩm , nâng cao chất lượng của hàng hoá và nâng cao chất

lượng phục vụ. Tuy nhiên sản phẩm của doanh nghiệp có tiêu thụ được hay
không phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp muốn có
năng lực cạnh tranh cao trong kinh doanh thì phải tìm cách lôi kéo khách hàng
không những khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng mà còn cả các khách
hàng của đối thủ cạnh tranh. Nói cách khác, khách hàng là ân nhân của doanh
nghiệp nhưng đôi khi khách hàng có thể trở thành các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
của doanh nghiệp trong tương lai khi họ nắm được công nghệ, phương thức sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
B. Nhà cung ứng
Nhà cung ứng là người cung cấp các yếu tố đầu vào cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp .Nếu nhà cung ứng đầu vào tốt thì quá trình
sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn,
thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Ngược lại nếu nguồn cung ứng đầu vào không
đảm bảo về số lượng , tính liên tục… sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đầu ra.
Chính vì vậy mà việc lựa chọn nhà cung cấp là rất quan trọng . Việc chọn
nhiều nhà cung cấp hay một nhà cung cấp duy nhất là tuỳ thuộc vào mục tiêu,
khả năng, loại hình kinh doanh của doanh nghiệp . Nhưng đảm bảo tối ưu nhất
cho việc cung ứng đầu vào, làm giảm chi phí đầu vào và hạn chế tối đa các rủi
ro để nâng cao được năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
C. Các đối thủ cạnh tranh
Là các yếu tố tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp . Các đối thủ cạnh tranh, kể cả các đối thủ tiềm ẩn luôn tìm ra mọi
cách, đề ra mọi phương pháp đối phó và cạnh tranh với doanh nghiệp làm cho
lợi nhuận của doanh nghiệp giảm xuống, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
bị lung lay, bị tác động mạnh. Thông thường người ta có cảm tưởng rằng việc
phát hiện các đối thủ cạnh tranh là việc đơn giản nhưng thực tế các đối thủ cạnh
tranh hiện tại và tiềm ẩn rộng hơn nhiều. Vì vậy mà doanh nghiệp phải luôn tìm
cách phát hiện ra các đối tượng, phân tích kỹ để đánh giá chính xác năng lực
cạnh tranh thích hợp, chủ động trong cạnh tranh tránh mắc phải " chứng bệnh
cận thị về đối thủ cạnh tranh". Đặc biệt là khả năng của các đối thủ tiềm ẩn.

D. Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế
Là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các
doanh nghiệp trong ngành. sản phẩm thay thế ra đời là một tất yếu nó nhằm đáp
ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng phong
phú, cao cấp hơn. Khi giá của một sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển
sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sản phẩm thay thế thông thường làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp bởi vì nếu khách hàng mua sản phẩm thay thế sản phẩm
của doanh nghiệp thì một phần lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị phân phối cho
những sản phẩm đó. Sản phẩm thay thế là mối đe doạ trực tiếp tới năng lực cạnh
tranh và mức lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3.2.Môi trường bên trong
1.3.2.1. Vốn, tài chính của doanh nghiệp.
Vốn là một nhân tố vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp . Bất kỳ ở
khâu hoạt động nào của doanh nghiệp dù là đầu tư, mua sắm, sản xuất đều cần
phải có vốn. Có thể nói vốn, tài chính là huyết mạch của cơ chế doanh nghiệp ,
mạch máu tài chính mà yếu sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của doanh nghiệp . Một
doanh nghiệp có tiềm năng về tài chính lớn sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi
mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị đảm bảo nâng cao chất lượng sản
phẩm , hạ giá thành để duy trì, nâng cao năng lực cạnh tranh và củng cố vị trí
của mình trên thị trường . Qua đó chứng tỏ vốn, tài chính ngày càng có vị trí
then chốt quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp như người ta nói " buôn
tài không bằng dài vốn".
Nhân tố máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp . Nó là nhân tố vật chất quan trọng bậc
nhất thể hiện năng lực sản phẩm của doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất
lượng sản phẩm . Ngoài ra, công nghệ sản xuất , máy móc thiết bị cũng ảnh
hưởng tới giá thành và giá bán sản phẩm . Một doanh nghiệp có trang thiết bị
máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại,
không một doanh nghiệp nào có năng lực cạnh tranh cao khi mà trong tay họ là
cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.

1.3.2.2. Nguồn nhân lực
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Ban giám đốc doanh nghiệp
- Các cán bộ quản lý các cấp trung gian và đội ngũ công nhân viên.
Ban giám đốc là những cán bộ cấp quản lý cao nhất trong doanh nghiệp,
những người trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đồng thời hoạch định chiến lược phát triển và chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp.
Các thành viên trong ban giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp . Nếu các thành viên có khả năng, kinh nghiệm, trình
độ, năng lực… thì họ sẽ đem lại cho các doanh nghiệp những lợi ích trước mắt
như tăng doanh thu , tăng lợi nhuận mà còn cả uy tín, lợi ích lâu dài của doanh
nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Thực tế đã chứng minh có nhiều doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả đi
đến thua lỗ phá sản là do trình độ quản lý yếu kém. Như vậy vai trò của nhà
quản trị cấp cao là rất quan trọng đối với doanh nghiệp , nhà quản trị cấp cao
phải biết tổ chức phối hợp để các bộ phận trong doanh nghiệp hoạt động một
cách nhịp nhàng hiệu quả, phải biết biến sức mạnh của cá nhân thành sức mạnh
chung của cả tập thể như vậy sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động , nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp . Đội ngũ cán bộ quản lý cấp trung gian và đội
ngũ nhân viên cũng giữ vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp . Trình độ tay
nghề của công nhân và tinh thần làm việc của họ ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng sản phẩm , tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . Khi tay nghề lao
động cao cộng thêm ý thức và lòng hăng say nhiệt tình lao động thì việc tăng
năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
Kết hợp và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là yếu tố cần thiết cho
mỗi doanh nghiệp tạo điều kiện cho sản xuất , hoạt động của doanh nghiệp hoạt
động nhịp nhàng trôi chảy, nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.

1.3.2.3. Chất lượng và giá cả sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm được thể hiện ở ba mặt: kỹ thuật , kinh tế và thẩm
mĩ. Chất lượng về mặt kỹ thuật là chất lượng về chức năng, công dụng hay giá trị
sử dụng của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm mang tính kinh tế là việc xem xét giá
bán có phù hợp với sức mua của người tiêu dùng hay không và có cung ứng đúng
lúc cho họ hay không? Chất lượng về mặt thẩm mỹ thể hiện ở mặt kiểu dáng, màu
sắc, bao bì có phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hay không.
Giá cả là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Nó bao gồm cả giá mua, giá nhập nguyên phụ liệu và giá bán sản
phẩm . Nếu doanh nghiệp có lợi thế về giá nhập nguyên phụ liệu thấp tức là chi
phí cho sản phẩm thấp và giá bán sản phẩm sẽ thấp hơn đối thủ cạnh tranh dẫn
đến doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao hơn.
1.3.2.4. Uy tín và bản sắc doanh nghiệp
Đây là những tài sản vô hình của doanh nghiệp nhưng nó không kém
phần quan trọng so với các nguồn lực khác, chúng có ý nghĩa rất lớn đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Bản sắc doanh nghiệp tạo ra những nét văn
hoá đặc trưng cho doanh nghiệp, khi một doanh nghiệp có văn hoá bản sắc riêng
nó sẽ làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp coi lợi ích của doanh
nghiệp như lợi ích của họ và như vậy sẽ khuyến khích người lao động hăng say
làm việc, phát huy được tinh thần sáng tạo làm việc của họ. Đó chính là tiền đề
để nâng cao năng suất lao động , nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cao thì sẽ nâng cao uy tín của doanh nghiệp và ngược lại thì sẽ làm giảm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.2.5. Tính đa dạng và khác biệt của sản phẩm
Đa dạng hoá sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro, san xẻ rủi ro
vào các mặt hàng khác nhau, lợi nhuận của mặt hàng này có thể bù đắp cho mặt
hàng khác. Đồng thời đa dạng hoá sản phẩm nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của
các khách hàng khác nhau. Bởi vì nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, phong
phú theo các lứa tuổi nghề nghiệp, giới tính khác nhau do vậy các sản phẩm của

doanh nghiệp cũng phải tương ứng với các nhu cầu đó.
Sự khác biệt về sản phẩm là một công cụ để cạnh tranh hữu hiệu. Nếu doanh
nghiệp có các sản phẩm ưu thế so với các sản phẩm cùng loại thì năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là rất cao, doanh nghiệp có ít đối thủ cạnh tranh.
1.3.2.6. Mạng lưới phân phối và xúc tiến thương mại
Việc tổ chức mạng lưới phối có ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp . Nếu doanh nghiệp tổ chức mạng lưới phân phối hợp lý
và quản lý tốt chúng thì sẽ cung cấp hàng hoá tới khách hàng đúng mặt
hàng,đúng số lượng và chất lượng , đúng nơi đúng lúc với chi phí tối thiểu. Như
vậy doanh nghiệp sẽ thoả mãn được tối đa nhu cầu khách hàng đồng thời tiết kiệm
được chi phí lưu thông, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tăng lên.
Các nhân tố trên đây có khả năng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp . Điều quan trọng là doanh nghiệp phải
nghiên cứu được tác động nào là lợi thế để phát huy, tác động nào có hại để có
các biện pháp đối phó.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN QUA

2.1.KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG EU
2.1.1.Đặc điểm thị trường EU
2.1.1.1.Tập quán tiêu dùng
Người tiêu dùng EU có sở thích, thói quen sử dụng các sản phẩm có
thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng nhãn hiệu này gắn
với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, những sản phẩm này sẽ an tâm về
chất lượng hơn, an toàn với người sử dụng hơn. Có khi sản phẩm này giá rất đắt
nhưng họ vẫn mua và không thích đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác
cho dù giá rẻ hơn nhiều. Với EU, sản phẩm mang tính môi trường dễ thâm nhập
hơn các sản phẩm khác. Người tiêu dùng ở thị trường này ngày càng đòi hỏi
những sản phẩm dễ dàng được nhận diện và được gắn nhãn theo sự khuyến

khích của luật pháp.
2.1.1.2. Kênh phân phối
Tại thị trường EU, hệ thống kênh phân phối bao gồm mạng lưới bán buôn
và bán lẻ cụ thể như các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị,
các công ty bán lẻ độc lập.
Hai hình thức tổ chức kênh phân phối phổ biến nhất của thị trường EU là
hình thức theo tập đoàn và hình thức không theo tập đoàn. Mối quan hệ giữa các
nhà bán buôn và bán lẻ trên thị trường EU được đánh giá là tương đối chặt chẽ.
Các nhà bán buôn và bán lẻ liên doanh với nhau một cách chặt chẽ thành một
chuỗi mắt xích trong kinh doanh thông qua các hợp đồng kinh tế. Những cam
kết trong hợp đồng được kiểm soát chặt chẽ, nghiêm ngặt thông qua các chế tài
của luật kinh tế.
Thực tế thì hệ thống phân phối hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam
qua EU cũng như nhiều thị trường khác chủ yếu là qua trung gian.

2.1.1.3. Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng
EU đã tiến hành thực hiện rất nhiều biện pháp để bảo vệ người tiêu
dùng, trong đó có kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và đặt các hệ
thống báo động giữa các thành viên. Ngoài ra, EU cũng bãi bỏ việc kiểm tra các
sản phẩm ở biên giới. Đồng thời, thông qua các quy định về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm bán ra, các hợp đồng
quảng cáo, bán hàng tận nhà và nhãn hiệu…

2.1.1.4. Chính sách thương mại
Chính sách thương mại của EU gồm chính sách thương mại nội khối và
chính sách ngoại thương. Trong đó, chính sách ngoại thương có ảnh hưởng rất
lớn đến hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.
Các thành viên thuộc khối EU sẽ cùng áp dụng chung một chính sách ngoại
thương đối với các nước nằm ngoài khối EU. Chính sách ngoại thương EU áp
dụng bao gồm: chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên

cơ sở Hiệp định. Những biện pháp được áo dụng chủ yếu trong chính sách này
là hạn ngạch, thuế quan, chống bán phá giá, các rào cản kỹ thuật.

2.1.2. Quy định của EU với nhập khẩu cà phê
Thứ nhất, bao bì và phê thải bao bì :
EU ban hành Chỉ thị 94/62/EEC về đóng gói, phế thải bao bì quy định tỷ
lệ kim loại nặng tối đa trong bao bì, đưa ra yêu cầu đối với quá trình sản xuất,
thành phần của bao bì. Mỗi quốc gia đều có quy định cụ thể và hệ thống riêng về
bao bì, phế thải bao bì cho sản phẩm trên thị trường nhất là sản phẩm nhập khẩu.
Ngoài ra, môi trường cũng là vấn đề đặt ra trong việc sử dụng bao bì. Luật
môi trường về tái sử dụng, tái chế vật liệu đóng gói hay quy định về việc sử
dụng bao bì có thể sử dụng lại nhằm giảm độ độc hại với môi trường được đưa
ra. Bao bì sẽ được sản xuất theo cách có thể hạn chế tối đa sự có mặt của nguyên
liệu, chất độc hại do sự phát xạ, tro tàn khi đốt cháy hay chôn bao bì.
Thứ hai, quy định bảo vệ người tiêu dùng :
Mục tiêu của nhãn hiệu CE là áp đặt một quy định chung với nhà sản xuất để
chỉ cho phép các sản phẩm an toàn vào thị trường EU. CE chỉ ra rằng một sản
phẩm đáp ứng đúng yêu cầu pháp luật và thị trường của Châu Âu về an toàn sức
khỏe, môi trường, bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, cần chú ý rằng mác CE
không phải là sự đảm bảo về chất lượng.
Thứ ba, quy định về bảo vệ môi trường :
Ở EU, nhiều thỏa thuận mang tính tự nguyền và pháp lý về vấn đề bảo vệ
môi trường được thông qua giữa chính phủ và nhà sản xuất. Các thỏa thuận áp
dụng cho sản phẩm và cả bao bì sản phẩm. Để hàng hóa của mình có thể thâm
nhập vào EU, các nhà xuất khẩu Việt Nam phải tuân thủ những quy định về môi
trường của EU.
Thứ tư, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm :
Với thị trường EU, quy định của HACCP rất quan trọng với những nhà xuất
khẩu ở các nước đang phát triển. Các công ty nhập khẩu thực phẩm đã được chế
biến hay các thành phẩm thức ăn sẽ yêu cầu các nhà cung cấp phải thực hiện

HACCP. Theo quy định của pháp luật, tất cả các nhà chế biến thực phẩm của
EU phải áp dụng hệ thống HACCP hoặc là họ sẽ phải phối hợp thực hiện một hệ
thống HACCP
Thứ năm, quản lý chất lượng :
Tiêu chuẩn liên quan đến quản lý chất lượng không bắt buộc đối với các
sản phẩm thâm nhập thị trường EU, đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng là
quá trình tự nguyện. Tuy vậy, tiêu chuẩn này sẽ giúp cải thiện cách nhìn nhận về
doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt khi doanh nghiệp được cấp chứng chỉ theo
tiêu chuẩn quản lý được quốc tế công nhận. Những tiêu chuẩn quản lý chất
lượng quan trọng nhất thuộc nhóm tiêu chuẩn ISO 9000. Hiện nay, có hơn
200.000 tổ chức trên toàn thế giới được cấp chứng chỉ ISO 9000.
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU

2.2.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Hiện nay, nước ta có trên 140 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Các doanh
nghiệp này chủ yếu tổ chức thu mua từ các trang trại hay hộ nông dân và xuất
khẩu cà phê, đồng thời bán lại cho khoảng 20 doanh nghiệp nước ngoài có nhà
máy hoặc cơ quan đại diện tại Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam không sản
xuất mà chỉ thu mua xuất khẩu. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong điều kiện hiện nay. Khó khăn của
các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước bắt nguồn từ thực trạng yếu về tài
chính và thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như liên kết giữa
doanh nghiệp với người trồng cà phê. Do sự yếu về tài chính nên trong thời
điểm đáo hạn ngân hàng, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều phải chấp
nhận bán hàng để có cơ sở vay tiền. Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu chọn
phương thức bán cà phê giao sau hoặc bán trừ lùi. Khoản trừ lùi trong hợp đồng
mua bán với các nhà nhập khẩu vô tình khiến chính các doanh nghiệp xuất khẩu
trong nước cạnh tranh và hạ giá bán của nhau. Chẳng hạn, nếu công ty A trừ lùi
50 USD/tấn, lập tức công ty B trừ lùi 60 USD/tấn. Cứ thế mức trừ lùi tăng dần

gây thiệt hại không chỉ cho doanh nghiệp, nông dân mà cả hoạt động xuất khẩu
cà phê của Việt Nam. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, do thói quen làm ăn độc
lập nên các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ít “thỏa thuận với nhau” để tạo được
mặt bằng giá ổn định mà thường vẫn kinh doanh chủ yếu theo kiểu mạnh ai nấy
làm.
Đồng thời, việc liên kết với người trồng cà phê vẫn chưa được chặt chẽ.
Hiện nay trong số gần 150 doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê chỉ có
một số doanh nghiệp lớn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu còn đa phần vẫn chỉ
làm thương mại thuần túy. Do vậy, các nhà nhập khẩu nước ngoài nắm được sản
lượng cà phê của các doanh nghiệp trong nước và lại biết doanh nghiệp trong
nước cần bán được hàng để có vốn xoay vòng nên việc ép giá diễn ra thường
xuyên, gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
2.2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu cà
phê Việt Nam sang thị trường EU
2.2.2.1.Về thị phần của cà phê của Việt Nam tại thị trường EU
Việt Nam đang được đánh giá là quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới,
sau Brazil.
Bảng 2.1. Thị phần một số nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới năm 2011
Tiêu thụ thế giới Nước
Sản lượng
(nghìn tấn)
Thị phần (%)
Nguồn cung Brazil 1975 32
Việt Nam 1200 19
Colombia 630 10
Indonesia 475 7,5
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Ngân hàng thế giới
EU là một thị trường quan trọng nhất của xuất khẩu cà phê Việt Nam.95%
cà phê Việt Nam sản xuất ra là để xuất khẩu, trong đó thị trường EU chiếm đến
46% lượng cà phê xuất khẩu.(hình 2.1).

Hình 2.1. Tỷ lệ xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các thị trường năm 2011
Nguồn: Bộ Nông Nghiệp, phát triển Nông Thôn
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần
chiếm 17% trong tổng giá trị xuất. Tiếp theo là một số thị trường thuộc khối EU như
Đức (thị phần 10,1%), Bỉ (thị phần 8,2%), Italia (thị phần 6,6%), Tây Ban Nha (thị phần
5%), đặc biệt là thị trường Bỉ với mức nhập khẩu tăng gần gấp đôi về lượng và gấp 3 về
giá trị.
Đối với thị trường EU, Việt Nam cũng là một nhà xuất khẩu cà phê tương đối lớn.
Năm 2011, Việt Nam là quốc gia lớn thứ hai xuất khẩu vào thị trường EU với thị phần
là 17%, chỉ đứng sau Brazil với thị phần khoảng 32% (hình 2.2). Theo dõi hình 2.2 ta
thấy, Colombia là quốc gia xuất khẩu cà phê vào EU có thị phần tương đối lớn (16%),
và là đối thủ cạnh tranh trực tiếp số một hiện nay của Việt Nam trong việc cạnh tranh vị
trí trong bảng xếp hạng thị phần. Ngoài ra, các đối thủ khác cũng đang có những bước
đi tích cực trong “cuộc chiến” giành giật thị phần, Việt Nam cần tỉnh táo nhận ra còn
đường đi cho riêng mình trong cuộc chiến này.
Hình 2.2. Thị phần của các nước xuất khẩu cà phê vào EU năm 2009


Nguồn: Tổng hợp số liệu từ ICO
Hình 2.3 : Thị phần của các nước xuất khẩu cà phê vào EU năm 2011
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ ICO
Bảng 2.2. Thị phần của một số đối thủ cạnh tranh xuất khẩu cà phê sang
EU của Việt Nam qua các năm
Đơn vị: %
Năm
Thị phần một số đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên EU
Việt Nam Brazil Colombia Indonesia
2003 15 30 15 8
2005 18 31 17 7
2007 16 31,5 17,5 7,5

2009 17 32 16 9
2011 19 32 15 10

Nguồn : Tổng hợp từ ICO
Thị phần của mặt hàng cà phê xuất khẩu Việt Nam ở thị trường EU kém ổn
định, liên tục thay đổi qua các năm (bảng 2.2). Xét một cách tương đối thì có thể
nói năng lực cạnh tranh của cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU về
mặt thị phần đang tỏ ra yếu kém so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường này như Brazil, Colombia, Indonesia,… Trong khi thị phần của các đối
thủ cạnh tranh này tăng trưởng một cách ổn định và có chiều hướng gia tăng thì
thị phần cà phê xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường EU lại bất ổn định, xu
hướng tăng trưởng, mở rộng thị phần thấp.

2.2.2.2. Về giá cả của cà phê Việt Nam tại thị trường EU
Giá cà phê xuất khẩu Việt Nam luôn biến động theo giá cả cà phê thế giới và có xu
hướng giảm sút trong nhiều năm qua. Trong những tháng đầu niên vụ (tháng 10, 11 và
12/2005), giá bình quân của cả nước khá thấp (bình quân tháng 10/2005 chỉ đạt 813.32
USD/tấn. Những tháng đầu năm 2006, giá cà phê xuất khẩu liên tục tăng cao từ 1.169
USD/tấn và đến tháng 6 năm 2006 đạt trên 1.570 USD/tấn. Giá cà phê bình quân đầu
năm 2006 đạt khoảng 1.142 USD/tấn.
Năm 2007, giá cà phê Việt Nam đã tăng so với năm 2006, điển hình là vào tháng
11/2007 giá cà phê xuất khẩu Việt Nam đạt 1.731 USD/tấn giảm 20 USD/tấn so với
tháng 10/2007. Năm 2008, đã có sự tăng đột biến về mức giá cà phê xuất khẩu Việt
Nam khi mức giá trung bình cả năm đạt 2.041 USD/tấn (bảng 2.3), tăng 31,4% so với
năm 2007 và đây cũng là mức giá cao nhất trong những năm 2005-2009. Năm 2009
mức giá trung bình của cà phê xuất khẩu Việt Nam chỉ đạt 1800 USD/tấn. Chính điều
này đã góp phần làm cho kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam nói chung đã giảm 9,6
% , (năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 1.954.368.230 USD trong khi năm 2009
chỉ đạt 1.764.231.865 USD).
Bảng 2.3. Giá trung bình của mặt hàng cà phê xuất khẩu Việt Nam 2005 – 2011

Đơn vị: USD/tấn
Năm Giá trung bình Thay đổi
2005 886 0%
2006 1.241 40,06%
2007 1.553 25,14%
2008 2.041 31,42%
2009 1.800 -11,07%
2010 1.746 -3%
2011 2204 49%


Bước sang năm 2010, giá cả cà phê thế giới đã có nhiều biến động nên đã
ảnh hưởng đến giá cả cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU. Theo hiệp
hội cà phê ca cao Việt Nam, mức giá cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường
LonDon ngày 9/03/2010 là 1.221 USD/tấn nhưng đến ngày 06/08/2010 đã tăng
lên mức 1.718 USD/tấn và đến ngày 08/11/2010 thì đạt mức 2.046 USD/tấn.
Tuy mức giá cà phê xuất khẩu Việt Nam những tháng cuối năm 2010 cao nhưng
theo dự đoán của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam mức giá trung bình của cả
năm 2010 đạt khoảng 1.746 USD/tấn, giảm 3% so với năm 2009.

×