Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

so sánh chỉ tiêu sinh sản của cá lóc đầu nhím bằng các phương pháp sinh sản khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
SO SÁNH CÁC CHỈ TIÊU SINH SẢN CỦA
CÁ LÓC ĐẦU NHÍM BẰNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP SINH SẢN KHÁC NHAU
Cần Thơ, 2014
Sinh viên thực hiện
Phan Hữu Nhân
MSSV: 1053040016
Lớp: NTTS K5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: D620301
SO SÁNH CÁ CHỈ TIÊU SINH SẢN CỦA
CÁ LÓC ĐẦU NHÍM BẰNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP SINH SẢN KHÁC NHAU
Cần Thơ, 2014
Cán bộ hướng dẫn
Ths. Trần Ngọc Tuyền
Sinh viên thực hiện
phan hữu nhân
MSSV: 1053040016
Lớp: NTTS K5
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sinh viên thực hiện: Phan Hữu Nhân


MSSV: 1053040016
Lớp: Nuôi trồng thủy sản K5
Tên đề tài: “So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc đầu nhím bằng các phương pháp sinh
sản khác nhau”.
Khóa luận đã được hoàn thành theo yêu cầu của cán bộ hướng dẫn và hội đồng bảo vệ khóa
luận tốt nghiệp của Khoa Sinh học ứng dụng - Trường đại học Tây Đô.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Th.s. Trần Ngọc Tuyền Phan Hữu Nhân
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết khóa luận này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi và
các kết quả của nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ khóa luận cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Phan Hữu Nhân
LỜI CẢM TẠ
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Sinh học
ứng dụng và phòng quản lý đào tạo trường Đại học Tây Đô đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
học tập và nâng cao kiến thức trong suốt thời gian học tại trường.
Xin gửi lời cảm tạ chân thành và biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô cùng tập thể cán bộ khoa
Sinh học ứng dụng đã tận tình truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm quý báu,
những tài liệu quý giá trong suốt thời gian học tập.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô hướng dẫn - thạc sĩ Trần Ngọc Tuyền đã tận tình
hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và viết
khóa luận.
Cuối cùng xin cảm ơn các bạn trong trại cá và tập thể lớp nuôi trồng thủy sản 5 đã gắn bó,
động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Chân thành cảm ơn!
TÓM TẮT
Thử nghiệm sản xuất giống cá lóc (channa sp.) được thực hiện từ tháng 9 năm 2013 đến

tháng 3 năm 2014, tại Khu Vực An Phú, phường Phú Thứ, quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ. Đề tài được thực hiện gồm 2 thí nghiệm: cho cá lóc sinh sản tự nhiên và sinh sản bán
nhân tạo với kích thích tố được sử dụng là HCG. Mục tiêu nhằm tìm ra biện pháp cho cá lóc
sinh sản hiệu quả để tạo ra nguồn cá bột có chất lượng và có thể chủ động theo mùa vụ.
Qua 2 phương pháp cho cá lóc đầu nhím sinh sản thì kết quả cá lóc sinh sản cuối vụ đều tốt
hơn ở đầu vụ. Cụ thể trong phương pháp cho cá sinh sản tự nhiên: ở cuối vụ có tỷ lệ trứng
thụ tinh và tỷ lệ trứng nở là 89,7% và 94,0%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với
ở đầu vụ là 78,8% và 79,5%. Tỷ lệ dị hình của cá bột ở đầu vụ là 0,93%, ở cuối vụ là 0,65%
khác biêt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Đối với thí nghiệm cho cá sinh sản bán nhân
tạo: ở cuối vụ có tỷ lệ trứng thụ tinh và tỷ lệ trứng nở là 80,0% và 81,2%; ở đầu vụ là 50,2%
và 46,8% khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ dị hình của cá bột ở đầu vụ là
1,40%, ở cuối vụ là 1,03% khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Trong cùng thời điểm nhưng khác phương pháp sinh sản thi kết quả cũng khác nhau. Ở đầu
vụ trong thí nghiệm 1 có tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ trứng nở và tỷ lệ dị hình của cá bột lần
lượt là 78,8%, 79,5% và 0,93%. Trong khi đó, ở thí nghiệm 2 đạt lần lượt là 50,2%, 46,8%
và 1,40%. Ở cuối vụ trong thí nghiệm 1 có tỷ lệ trứng thụ tinh, tỷ lệ trứng nở và tỷ lệ dị hình
của cá bột lần lượt là 89,7%, 94,0% và 0,65%; trong thí nghiệm 2 đạt lần lượt là 80,0%,
81,2% và 1,03%.
Kết quả sinh sản của phương pháp cho cá sinh sản tự nhiên cho thấy thời gian để cá bắt cặp
và đẻ kéo dài đến 34,24 giờ; tỷ lệ trứng thụ tinh và tỷ lệ nở tương đối cao đạt lần lượt là
84,8% và 87,5%, tỷ lệ dị hình của cá bột thấp là 0,77%. Trong phương pháp cho cá sinh sản
bán nhân tạo thì thời gian hiệu ứng diễn ra và tổng thời gian là 21,04 giờ; tỷ lệ trứng thụ tinh
và tỷ lệ nở lần lượt là 65,1% và 64%; tỷ lệ dị hình là 1,21%.
Từ khóa: cá lóc đầu nhím, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở, tỷ lệ dị hình.
MỤC LỤC
TRANG XÁC NHẬN i
CAM KẾT KẾT QUẢ ii
LỜI CẢM TẠ iii
TÓM TẮT iv
MỤC LỤC v

DANH SÁCH HÌNH vii
DANH SÁCH BẢNG viii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ix
CHƯƠNG I GIỚI THIỆU 1
1.1 Đặt vấn đề 1
1.2 Mục tiêu đề tài 1
1.3 Nội dung đề tài 1
CHƯƠNG II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc 2
2.1.1 Phân loại 2
2.1.2 Đặc điểm hình thái 2
2.1.3 Đặc điểm phân bố và sự thích nghi 3
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng 3
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng 4
2.1.6 Đặc điểm sinh sản 4
2.2 Kỹ thuật sinh sản 5
2.2.1 Phân biệt đực cái 5
2.2.2 Phương pháp cho cá đẻ tự nhiên 5
2.2.3 Phương pháp cho cá đẻ bằng kích thích tố 6
2.2.3.1 Hormone kích thích cá sinh sản nhân tạo 6
2.2.3.2 Phương pháp cho cá đẻ 6
2.2.4 Kỹ thuật ấp trứng 7
CHƯƠNG III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài 8
3.2 Vật liệu nghiên cứu 8
3.2.1 Dụng cụ 8
3.2.2 Đối tượng nghiên cứu 8
3.2.3 Thức ăn 8
3.3 Phương pháp bố trí thí nghiệm 8
3.3.1 Chuẩn bị ao đất và nguồn nước 8

3.3.2 Tiêu chuẩn chọn cá bố mẹ 9
3.3.3 Bố trí thí nghiệm 9
3.3.3.1 Thí nghiệm 1: Cho cá đẻ sinh thái 9
3.3.3.2 Thí nghiệm 2: Cho cá sinh sản bán nhân tạo 9
3.3.4 Ghi nhận các chỉ tiêu 10
3.3.4.1 Chỉ tiêu môi trường 10
3.3.4.2 Chỉ tiêu sinh sản của cá lóc 10
3.3.5 Phương pháp xử lý số liệu 11
CHƯƠNG IV KẾT QUẢ THẢO LUẬN 12
4.1 Thí nghiệm 1: Cho cá lóc sinh sản tự nhiên 12
4.1.1 Các chỉ tiêu môi trường trong thí nghiệm 12
4.1.2 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN1 ở cuối vụ (9 - 10/2013) 12
4.1.3 So sánh Các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN1 ở đầu vụ (2 - 3/2014) 13
4.1.4 So sánh kết quả sinh sản tự nhiên của cá lóc ở đầu vụ và cuối vụ 14
4.2 Thí nghiệm 2: Cho cá sinh sản bán nhân tạo 16
4.2.1 Các chỉ tiêu môi trường trong thí nghiệm 16
4.2.2 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN2 ở cuối vụ (9 - 10/2013) 16
4.2.3 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN2 ở đầu vụ (02 - 3/2014) 17
4.2.4 So sánh kết quả sinh sản bán nhân tạo của cá lóc ở đầu vụ và cuối vụ 18
4.3 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc sinh sản tự nhiên và bán nhân tạo 19
4.3.1 So sánh kết quả cho cá sinh sản trong TN1 và TN2 ở cuối vụ (9 - 10/2013) 19
4.3.2 So sánh kết quả cho cá sinh sản đầu vụ (02 - 3/2014) 20
4.3.3 So sánh kết quả cho cá sinh sản tự nhiên và sinh sản bán nhân tạo 21
CHƯƠNG V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 23
5.1 Kết luận 23
5.2 Đề xuất 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
PHỤ LỤC A 26
PHỤ LỤC B 29
PHỤ LỤC C 32

PHỤ LỤC D 34
DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1 Hình thái bên ngoài của cá lóc đầu nhím 2
Hình 3.1 Ao bố trí thí nghiệm 8
Hình 3.2 Tổ cá lóc đẻ 8
Hình 3.3 Hình thái bên ngoài cá đực và cá cái 9
Hình 3.4 Tổ trứng cá lóc và cá bột 11
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.1 Chỉ tiêu nhiệt độ và pH trong thí nghiệm cho cá sinh sản ở cuối vụ…………….12
Bảng 4.2 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở cuối vụ (TN1)……………………… 13
Bảng 4.3 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở đầu vụ (TN1)……………………… 14
Bảng 4.4 So sánh kết quả sinh sản tự nhiên của cá lóc đầu vụ và cuối vụ……………… 15
Bảng 4.5 Chỉ tiêu nhiệt độ và pH trong thí nghiệm cho cá sinh sản ở đầu vụ…………… 16
Bảng 4.6 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở cuối vụ (TN2) 16
Bảng 4.7 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở đầu vụ (TN2) 17
Bảng 4.8 So sánh kết quả sinh sản bán nhân tạo của cá lóc đầu vụ và cuối vụ 18
Bảng 4.9 Kết quả cho cá sinh sản cuối vụ (TN1 và TN2)……… 19
Bảng 4.10 Kết quả cho cá sinh sản đầu vụ (TN1 và TN2)… 20
Bảng 4.11 So sánh kết quả sinh sản tự nhiên và bán nhân tạo 21
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
TGHU: Thời gian hiệu ứng
SSSTD: Sức sinh sản tương đối
TLCD: Tỷ lệ cá đẻ
TLTT: Tỷ lệ thụ tinh
TLN: Tỷ lệ nở
TLDH: Tỷ lệ dị hình
SSTN: Sinh sản tự nhiên
SSBNT: Sinh sản bán nhân tạo
TN1: Thí nghiệm 1

TN2: Thí nghiệm 2
1
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Nghề nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã phát triển từ rất sớm,
với những đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực như: cá tra, cá basa. Bên cạnh đó, những đối
tượng nuôi để tiêu thụ nội địa như: cá điêu hồng, cá thát lát, cá lóc, cá trê… cũng được nhiều
hộ nuôi lựa chọn. Trong đó, cá lóc là đối tượng nuôi đang phát triển mạnh và được nhiều
người quan tâm. Trong thời gian qua, hiệu quả lợi nhuận thu được từ hoạt động nuôi đối
tượng này đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhiều hộ nuôi ở ĐBSCL.
Cá lóc là một trong những loài cá đặc trưng ở nước ta, đang được nuôi nhiều ở ĐBSCL.
Ngoài một số loài cá lóc được nuôi phổ biến như lóc đen, lóc bông, lóc môi trề, thì cá lóc
đầu nhím được người nuôi ưa chuộng bởi thịt ngon, bán được giá, ít bị bệnh và dị tật, phân
bố rộng, tăng trưởng nhanh, có thể sống trong môi trường chật hẹp hay điều kiện nước bẩn,
nước tù, thiếu ôxy.
Trong những năm gần đây, phong trào nuôi cá lóc ở Đồng bằng sông Cửu Long phát triển
ngày càng nhanh nhất là ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, với quy
mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, việc sản xuất giống hiện nay chủ yếu là cho cá đẻ tự nhiên,
nguồn cá giống tạo ra tập trung chủ yếu vào mùa vụ sinh sản, mà nhu cầu nguồn cá giống là
quanh năm, nên chưa đáp ứng được nhu cầu về con giống của người nuôi. Để khắc phục
được những nhược điểm trên, cần phải có những biện pháp sản xuất giống cá lóc phù hợp
theo từng thời điểm trong năm và đạt được hiệu quả trong sản xuất là điều rất cần thiết trong
tình trạng thực tế hiện nay. Xuất phát từ vấn đề thực tế trên, đề tài “So sánh các chỉ tiêu
sinh sản của cá lóc đầu nhím bằng các phương pháp sinh sản khác nhau” được thực
hiện.
1.2 Mục tiêu đề tài
Đánh giá tính hiệu quả kích thích cá lóc sinh sản tự nhiên và bán nhân tạo.
1.3 Nội dung đề tài
So sánh sinh sản cá lóc đầu nhím bằng 2 phương pháp: sinh sản tự nhiên và sinh sản bán

nhân tạo sử dụng kích thích tố HCG. Xác định chỉ tiêu môi trường: nhiệt độ và pH trong thời
gian cho cá lóc sinh sản tự nhiên và bán nhân tạo.
2
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá lóc
2.1.1 Phân loại
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá lóc có hệ thống phân loại như
sau:
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Channidae
Giống: channa sp.
Tên tiếng việt: cá lóc đầu nhím (con lai giữa cá lóc đen Channa striata và cá lóc môi trề
Channa sp.).
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993) cá lóc có đầu lớn, đỉnh đầu rất rộng
và dẹp bằng, mõm ngắn, miệng to hướng lên, rạch miệng xiên và kéo dài qua dường thẳng
đứng kể từ bờ sau của mắt. Răng bén nhọn, cá không có râu, mắt lớn, lỗ mang lớn. Thân dài,
hình trụ, tròn ở phần trước và dẹp bên ở phần sau. Vảy lược lớn, phủ khắp thân và đầu.
Đường bên hoàn toàn gãy khúc ở hai nơi khoàn vảy 15 - 20 và thụt xuống hai hàng vảy,
phần sau của đường bên chạy liên tục khoảng giữa thân.
Hình 2.1 Hình thái bên ngoài của cá lóc đầu nhím
3
Trong quá trình sống cá có màu xanh đen, nâu đen đến đen ở phần lưng và nhạt dần xuống
bụng, bụng cá có màu trắng sữa. Đối với cá nhỏ ở hai bên hông có từ 10 - 14 sọc đen lợt vắt
xéo ngang thân, các sọc này nhạt dần và mất hẳn ở cá lớn. Vi lưng, vi hậu môn, vi đuôi có
các đốm đen vắt ngang qua các tia vi (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
2.1.3 Đặc điểm phân bố và sự thích nghi

Cá lóc sống ở nước ngọt, có thể sống ở nước lợ có độ mặn dưới 15‰, chúng sống ở sông
suối, ao đìa và đồng ruộng. Vùng phân bố của cá lóc khá rộng từ Trung Quốc đến Việt Nam,
Campuchia, Lào, Thái Lan, Ấn Độ, Philippin (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương,
1993).
Cá lóc thích nghi với điều kiện xung quanh rất tốt, nhờ có cơ quan hô hấp phụ nên ở vùng
nước có hàm lượng ôxy thấp cá vẫn sống được và chúng có thể sống rất lâu trên cạn, với
điều kiện chỉ cần ẩm ướt toàn thân. Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ, đám bèo, vì ở nơi
đây cá dể ẩn mình rình mồi. Vào mùa hè cá thường hoạt động và bắt mồi ở tầng nước mặt.
Mùa đông cá hoạt động ở tầng nước sâu hơn (Dương Nhựt Long, 2005).
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá lóc là loài cá dữ có kích thước tròn dài. Lược mang dạng hình núm. Thực quản ngắn,
vách dầy, bên trong thực quản có nhiều nếp nhăn. Dạ dày to hình chữ Y. Cá là loài cá dữ, ăn
động vật điển hình.
Theo Dương Nhựt Long (2005), khi giải phẩu ống tiêu hóa của cá lóc cho thấy cá chiếm
63,01%; tép 35,94%; ếch nhái 1,03% và 0,02% là bọ gạo; côn trùng và mùn bã hữu cơ.
Chúng ăn mạnh vào mùa hè, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 12
o
C cá ngừng kiếm ăn.
Theo Phạm Văn Khánh (2003), giai đoạn cá mới nở, cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng trong 3
- 5 ngày. Sau khi hết noãn hoàng, cá chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài có kích cỡ nhỏ như
các loài động vật phù du (luân trùng, giáp xác chân chèo,…) vừa cỡ miệng. Khi chiều dài cá
khoảng 5 - 6 cm, cá thường săn mồi và bắt mồi chủ động, chúng có thể bắt các loài cá, tép
nhỏ. Khi cơ thể dài trên 10 cm, cá có tập tính ăn như cá trưởng thành. Ngoài ra cá còn có thể
ăn được thức ăn chế biến (Huỳnh Thu Hòa, 2004).
Cá lóc có tính ăn lẫn nhau và được dựa trên kích thước, hình thái của độ rộng miệng, độ
rộng đầu và chiều dài cơ thể. Sự khác nhau về kích cỡ làm tăng tỷ lệ ăn nhau. Để giảm sự ăn
nhau của chúng bằng cách phân cỡ và cho ăn thỏa mãn nhu cầu của cá (Quin Jian Guang và
ctv, 1996; trích bởi Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004).
Theo Phan Phương Loan (2000), thời gian tiêu hóa thức ăn cá lóc phụ thuộc vào loại thức ăn,
mỗi loại thức ăn khác nhau có thành phần dinh dưỡng khác nhau và độ tiêu hóa cũng sẽ khác

nhau. Kết quả phân tích sau 8 giờ cho cá ăn, đối với nghiệm thức cá được cho ăn là trùn chỉ
độ tiêu hóa là 35,42%, cá nục là 30,01% và thấp nhất là thức ăn công nghiệp chỉ đạt 18,22%.
4
Thức ăn có hàm lượng đạm càng cao trong giới hạn cho phép thì tốc độ sinh trưởng về chiều
dài và khối lượng của cá diễn ra càng nhanh, nhanh nhất ở thức ăn có hàm lượng đạm 50%
và thấp nhất ở thức ăn có hàm lượng đạm 30% (Ngô Thị Hạnh, 2001; trích bởi Nguyễn Hữu
Nhẹ, 2010).
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng là sự gia tăng về kích thước và khối lượng của cơ thể trong đời sống. Một trong
những điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cá là thức ăn. Cùng một loài
cá nhưng sống trong các thủy vực và chế độ dinh dưỡng khác nhau thì tốc độ sinh trưởng
khác nhau.
Cá lóc là loài có tốc độ tăng trưởng nhanh. Giai đoạn nhỏ, cá tăng chủ yếu về chiều dài. Cá
càng lớn thì sự gia tăng về khối lượng diễn ra nhanh hơn. Theo Dương Nhựt Long (2005), cá
lóc 1 năm tuổi có chiều dài và cân nặng lần lượt là 19 - 39 cm; nặng 0,1 - 0,75 kg. Cá 2 năm
tuổi có chiều dài 38 - 45 cm, nặng 1,2 - 2 kg. Cá có thể sống trên 10 năm tuổi có chiều dài và
cân nặng đạt từ 67 - 85 cm và nặng 7 - 8 kg.
Trong tự nhiên, tốc độ tăng trưởng của cá không đều và phụ thuộc vào điều kiện thức ăn nếu
thức ăn đầy đủ cá có thể đạt từ 0,5 - 0,8 kg/năm (Phạm Văn Khánh, 2003).
Trong điều kiện nuôi tốt, sau 6 tháng nuôi cá có thể đạt khối lượng từ 0,8 - 1,2 kg/con, tỷ lệ
sống 75 - 85% và năng suất có thể đạt từ 30 - 60 tấn/ha. Cá ăn nhiều, hoạt động mạnh và lớn
nhanh vào mùa xuân - hè. Trong cùng giai đoạn phát triển thì cá đực có chiều dài dài hơn cá
cái nhưng ngược lại cá cái lại có khối lượng nặng hơn so với cá đực (Dương Nhựt Long,
2005).
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục: cùng một loài cá nhưng sống trong các thủy vực và chế độ dinh dưỡng khác
nhau thì tuổi thành thục cũng khac nhau. Ngoài ra, tuổi thành thục của cá còn phụ thuộc vào
điều kiện môi trường sống (nhiệt độ, pH, độ mặn, ).
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, trong điều kiện tự nhiên, cá lóc thành thục sinh dục sớm
khoảng 8 - 12 tháng tuổi. Sức sinh sản phụ thuộc vào khối lượng cá cái, bình quân giao động

từ 5.000 - 10.000 trứng/tổ đối với cá có khối lượng 0,5 - 0,8kg và 10.000 - 15.000 trứng/tổ
đối với cá có khối lượng từ 1 - 1,5kg (Nguyễn Văn Kiểm, 2005; trích bởi Nguyễn Hữu Nhẹ,
2010).
Trong quá trình nuôi vỗ cá đực thành thục sớm hơn cá cái, cá đực thành thục sớm nhất là
tháng 4 - 5, trong khi sự thành thục sinh dục tốt nhất ở cá cái là tháng 5 - 6 (Nguyễn Văn
Triều, 1999)
Theo Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ (2005), mùa sinh sản của cá từ tháng 4 - 8, tập trung vào
tháng 4 - 5, cá có thể đẻ khoảng 5 lần/năm. Cá thường đẻ nơi yên tĩnh có cây cỏ thủy sinh,
5
đẻ vào sáng sớm, sau những trận mưa rào 1 - 2 ngày. Trước khi đẻ, cá làm tổ hình tròn,
đường kính khoảng 40 - 50 cm.
Mùa vụ sinh sản trong tự nhiên của cá lóc từ tháng 3 - 4 và kéo dài tới tháng 9 - 10, tập trung
nhất vào tháng 5 - 7. Hệ số thành thục trung bình từ 0,5 - 1,5%. Trong tự nhiên đến mùa vụ
sinh sản của cá lóc, cá đực và cá cái tự bắt cặp khi tham gia sinh sản. Cá thường chọn nơi
cây cỏ thủy sinh kín đáo nhưng thoáng để đẻ trứng và thụ tinh. Trứng cá lóc màu vàng sậm,
có chứa hạt dầu nên nổi được trên mặt nước (Phạm Văn Khánh, 2003). Theo Nguyễn Văn
Hải (1997), sau mỗi lần đẻ cá bố mẹ bảo vệ con khoảng 1 tháng rồi mới tiếp tục đẻ lần khác.
Thời gian phát triển phôi của cá lóc từ sau khi thụ tinh đến khi cá nở là 26 giờ 10 phút, nhiệt
độ từ 26 - 30
o
C (Nguyễn Hữu Nhẹ, 2010).
2.2 Kỹ thuật sinh sản
2.2.1 Phân biệt đực cái
Đối với cá đực thành thục, cá có các vạch màu sậm trên thân từ vây ngực đến lổ sinh dục,
thể hiện rõ hơn cá cái. Thân cá đực thon, dài, bụng nhỏ và cứng, lổ sinh dục hẹp nhỏ và hơi
lõm vào, tách xa lổ hậu môn. Cá đực có khối lượng lớn hơn 1kg vuốt lườn bụng để kiểm tra
mức độ thành thục có thể có tinh dịch chảy ra nhưng có rất ít (Phạm Văn Khánh, 2003).
Đối với cá cái thành thục, cá có thân ngắn mập và bụng lớn, mềm. Các vần đen không hiện
rõ từ vây ngực đến lổ sinh dục như cá đực. Lổ sinh dục tròn và hơi hồng, nằm sát với lổ hậu
môn. Trứng cá thành thục có đường kính 1,4 - 1,8 mm, màu vàng sậm và nổi trên mặt nước

(Phạm Văn Khánh, 2003).
2.2.2 Phương pháp cho cá đẻ tự nhiên
Theo Phạm Văn Khánh (2003), trong điều kiện cho cá lóc sinh sản tự nhiên thì ao đất cho cá
đẻ có diện tích từ 50 - 100 m
2
, hoặc ao lót bạt cao su diện tích 30 - 50 m
2
hoặc bể xây xi
măng. Độ sâu của ao đất từ 0,3m (chỗ nông) đến 1m (chỗ sâu). Trên mặt ao, bể có thiết kế
các khung tre ở một góc ao, bể và thả lục bình hoặc rong (chiếm 40 - 50% diện tích). Mật độ
thả 1 cặp/2m
2
với cỡ cá từ 0,5 - 0,8 kg. Sau đó tạo dòng nước chảy nhẹ hoặc phun mưa nhân
tạo để kích thích cá đẻ. Cá bắt đầu đẻ trứng sau khi kích thích từ 10 - 20 giờ, tùy thuộc vào
mức độ thành thục của cá. Trong khi cá đẻ thì ngưng phun nước để không làm hỏng tổ trứng.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), thời gian cá đẻ phụ thuộc vào mức độ thành thục của cá,
nếu thành thục tốt, tạo dòng nước chảy nhẹ hoặc phun mưa nhân tạo để kích thích cá đẻ thì
sau khoảng 20 - 26 giờ cá sẽ đẻ, ở nhiệt độ 28 - 29
o
C.
Theo Nguyễn Thành Nghĩa (2011), cho sinh sản cá lóc trong mùa vụ sinh sản, thì thời gian
sau khi ghép cặp tự nhiên từ 36 - 44 giờ thì cá bắt đầu đẻ, tỷ lệ đẻ là 100%, tỷ lệ thụ tinh và
tỷ lệ nở cao từ 92 - 96%,
6
2.2.3 Phương pháp cho cá đẻ bằng kích thích tố
2.2.3.1 Hormone kích thích cá sinh sản nhân tạo
Nguyên tắc cơ bản của vấn đề kích thích cá sinh sản là phải sử dụng đúng loại hormone,
đúng liều lượng và theo một trình tự hợp lý phù hợp với bản chất tác dụng của hormone.
Trong sinh sản nhân tạo tùy theo từng trường hợp cụ thể mà số lần tiêm hormone khác nhau,
tuy nhiên nguyên tắc chung của kích thích sinh sản cá là tiêm nhiều lần với liều lượng thấp

phù hợp với từng giai đoạn phát triển của buồng trứng và tế bào trứng.
HCG (Human Chorionic Gonadotropin)
HCG là kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau thai được Zondec và Aschaein phát
hiện năm 1927 trong nước tiểu của phụ nữ có thai.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), HCG là hoạt chất chiết xuất từ nước tiểu phụ nữ có thai (2 -
3 tháng). HCG chỉ chứa yếu tố rụng trứng là LH (Lutenezing hormone) Thuốc được sử dụng
rất tốt cho: cá, động vật và cho cả con người. Thuốc được đóng gói trong lọ thủy tinh với
lượng chứa 5.000 UI hoặc 10.000 UI (UI viết tắt của chữ đơn vị quốc tế - Unit International)
khi sử dụng cần pha vói nước cất hoặc nước muối sinh lý (tốt nhất là nước muối sinh lý).
Hormone HCG có tác dụng chính là kích thích quá trình rụng trứng của cá cái nhanh hơn.
2.2.3.2 Phương pháp cho cá đẻ
Biện pháp này nhằm làm cho đàn cá có thể đẻ đồng loạt để thu được một lượng cá bột lớn.
Nhưng cũng tùy thuộc vào mức độ thành thục của cá bố mẹ và kinh nghiệm lựa chọn của các
nhà kỹ thuật. Cá chọn cho đẻ phải có buồng trứng phát triển ở giai đoạn IV thành thục thì
thuốc kích dục tố mới phát huy tác dụng và đẻ có hiệu quả (Phạm Văn Khánh, 2003).
Theo Nguyễn Thành Nghĩa (2011), đã cho cá lóc sinh sản bằng kích thích tố HCG tiêm một
lần duy nhất với liều lượng: ở con đực 3.000 UI/kg, ở con cái 1.000 UI/kg đã thụ được các
chỉ tiêu như: thời gian hiệu ứng thuốc là 19 giờ; tỷ lệ đẻ là 100%; tỷ lệ thụ tinh 76% và tỷ lệ
nở là 92%.
Mặt khác, theo Vũ Thị Ngọc Hân (2011), đã cho cá lóc đồng sinh sản bằng kích thích tố với
2 nghiệm thức là HCG và não thùy cá và mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Khoảng cách giữa 2
lần tiêm là 24 giờ. Nghiệm thức 1 là HCG, cá cái chỉ tiêm liều quyết định 2.000 UI/kg. Ở cá
đực tiêm liều sơ bộ 1.000 UI/kg và liều quyết định 3.000 UI/kg, kết quả thời gian hiệu ứng là
14,5 giờ, tỷ lệ cá đẻ là 100%, tỷ lệ thụ tinh là 63,0% và tỷ lệ nở là 20%. Nghiệm thức 2 sử
dụng não thùy, cá đực được tiêm liều sơ bộ 1 mg/kg và liều quyết định 4 mg/kg. Đối với cá
cái chỉ tiêm 1 liều quyết định cùng với liều quyết định của cá đực với liều 2 mg/kg, có thời
gian hiệu ứng là 19,875 giờ, tỷ lệ cá đẻ là 100%, tỷ lệ thụ tinh là 89,0% và tỷ lệ nở là 28,7%.
7
2.2.4 Kỹ thuật ấp trứng
Sau khi cá đẻ xong, tiến hành vớt trứng cá đưa vào các dụng cụ ấp như thau nhựa, thau

nhôm, bể xi măng, bể lót bạt, bể vòng. Mực nước ấp từ 0,2 - 0,3m. Mật độ ấp trứng/m
2
mặt
nước bể ấp. Thau nhựa có đường kính 0,5m có thể ấp được 7.000 - 8.000 trứng. Trong quá
trình ấp, thay nước 4 - 6 lần một ngày đêm, hoặc có dòng nước chảy nhẹ liên tục. Trong quá
trình ấp trứng loại bỏ ngay những trứng bị ung (màu trắng đục). Ở nhiệt độ 28 -30
o
C, sau 20
- 26 giờ trứng sẽ nở thành cá bột. Lúc này cá bột còn rất yếu và nổi trên mặt nước và dinh
dưỡng bằng noãn hoàng cho đến ngày thứ 3 - 4 (Phạm Văn Khánh, 2003).
8
CHƯƠNG III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
Đề tài được thực hiện từ tháng 9/2013 - 6/2014, tại Khu Vực An Phú, Phường Phú Thứ,
Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Dụng cụ
Cân điện tử, nhiệt kế, test pH.
Thước, vợt vớt cá, thau, xô.
Hóa chất và một số dụng cụ khác cho nghiên cứu.
Kích thích tố HCG
3.2.2 Đối tượng nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện trên đối tượng là cá lóc đầu nhím (Channa sp.). Nguồn cá bố mẹ
được bắt từ hộ nuôi ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
3.2.3 Thức ăn
Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm cho sinh sản cá lóc là cá tạp.
3.3 Phương pháp bố trí thí nghiệm
3.3.1 Chuẩn bị ao đất và nguồn nước
Hình 3.1 Ao bố trí thí nghiệm Hình 3.2 Tổ cá lóc đẻ

Ao chuẩn bị cho sinh sản gồm 6 ao đất, mỗi ao có diện tích 9m
2
(3 x 3m) với độ sâu 1m. Bờ
ao được đắp chắc chắn và cao, có rào quanh ao bằng lưới cao 60 - 80 cm để tránh cá nhảy ra
ngoài và xung quanh bờ ao để cỏ mọc tự nhiên. Trước khi thả cá phải tát cạn ao, vét bùn đáy,
rải vôi bột 8 - 10 kg/100 m
2
để diệt cá tạp. Sau đó phơi đáy khoảng 1 ngày thì cho nước từ từ
vào ao khoảng 0,8m. Trên mặt ao có thể thiết kế khung che mát (khoảng 50 cm
2
) ở một góc
9
ao và thả rau muống để cá làm tổ đẻ. Có lưới chắn quanh tổ (lưới chắn đặt sâu khoảng 20cm
sao cho khi cá đẻ trứng không bị trôi ra ngoài).
Nước được cấp từ hệ thống kênh rạch Ngã Bát và được lọc qua lưới lọc khi cấp nước vào bể
đẻ nhằm hạn chế sinh vật gây hại cho cá bột sau khi nở.
3.3.2 Tiêu chuẩn chọn cá bố mẹ
Chọn những cá lóc bố mẹ khỏe mạnh, không xay xát, không bị dị tật, không có dấu hiệu bị
bệnh. Chọn cá cái có bụng to mềm, lổ sinh dục lõm và có màu hồng. Cá đực chọn cá thể có
thân mình thon dài, màu sắc sáng, lổ sinh dục hơi lồi và có màu hồng.
Hình 3.3 Hình thái bên ngoài cá đực và cá cái
3.3.3 Bố trí thí nghiệm
3.3.3.1 Thí nghiệm 1: Cho cá đẻ sinh thái
Thí nghiệm được thực hiện cho cá sinh sản 2 đợt vào lúc đầu vụ từ tháng 2 - 3/2014 và cuối
vụ sinh sản từ tháng 9 - 10/2013, mỗi đợt cho cá sinh sản 2 lần và mỗi lần 3 cặp cá.
Chọn cá bố mẹ đã thành thục tốt. Khi cá bố mẹ được chọn xong, bố trí cá vào 3 ao đã chuẩn
bị sẵn mỗi ao một cặp. Trong thời gian cho cá đẻ, có bổ sung thức ăn cho cá bằng cá tạp,
mỗi ngày một lần vào buổi sáng đến khi cá đẻ.
3.3.3.2 Thí nghiệm 2: Cho cá sinh sản bán nhân tạo
Thí nghiệm được thực hiện cho cá sinh sản 2 đợt vào lúc đầu vụ từ tháng 2 - 3/2014 và cuối

vụ sinh sản từ 9 - 10/2013, mỗi đợt 2 lần và mỗi lần 3 cặp cá. Sau khi chọn cá xong thì tiến
hành tiêm thuốc cho cá bằng HCG với liều 3.000 UI/kg đối với cá đực và 500 UI/kg đối với
cá cái, khi tiêm xong bố trí cá vào ao đã chuẩn bị sẵn mỗi ao một cặp.
10
3.3.4 Ghi nhận các chỉ tiêu
3.3.4.1 Chỉ tiêu môi trường
Theo dõi các chỉ tiêu như: nhiệt độ, pH được xác định 2 lần/ngày vào lúc 7h30 và 14h. Đối
với nhiệt độ nước dùng nhiệt kế để đo, pH của nước dùng bộ test pH để xác định.
3.3.4.2 Chỉ tiêu sinh sản của cá lóc
Xác định thời gian hiệu ứng thuốc, tỷ lệ cá đẻ, sức sinh sản tương đối.
Thời gian hiệu ứng thuốc: là thời gian từ lúc tiêm liều quyết định đến khi cá đẻ.
Tỷ lệ cá đẻ: tỷ lệ cá đẻ được tính dựa vào tỷ lệ phần trăm số cá sinh sản trên tổng số cá cho
sinh sản.
Tỷ lệ cá đẻ (TLCD) (%) = x 100 (3.1)
Sức sinh sản tương đối: là tổng số trứng thu được trên 1kg cá cái cho tham gia sinh sản.
Sức sinh sản tương đối (SSSTD) (trứng/kg) = (3.2)
Lấy 3 khay nhựa để chứa trứng (100 trứng/khay), đồng thời theo dõi các chỉ tiêu tỷ lệ thụ
tinh, tỷ lệ nở và tỷ lệ dị hình của cá bột.
Tỷ lệ thụ tinh: được tính theo tỷ lệ phần trăm số trứng thụ tinh trên tổng số trứng quan sát.
Tỷ lệ thụ tinh (TLTT) (%) = x 100 (3.3)
Tỷ lệ nở: được tính dựa trên tỷ lệ phần trăm tổng số cá nở trên tổng số trứng cá thụ tinh.
Tỷ lệ nở (TLN) (%) = x 100 (3.4)
Tỷ lệ dị hình: được tính theo tỷ lệ phần trăm số cá dị hình trên tổng số cá quan sát.
Tỷ lệ dị hình (TLDH) (%) = x 100 (3.5)
Số cá sinh sản
Tổng số cá cho sinh sản
Số trứng thụ tinh
Số trứng quan sát
Số cá nở
Số trứng cá thụ tinh

Tổng số trứng cá thu được
1 kg cá cái
Số cá dị hình
T

ng
s

c
á
quan
s
á
t
11
Hình 3.4 Tổ trứng cá lóc và cá bột
3.3.5 Phương pháp xử lý số liệu
CáC giá trị trung bình, độ lệch chuẩn được tính bằng cách sử dụng phần mềm Microsofe
Excel để tính. Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
12
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm 1: Cho cá lóc sinh sản tự nhiên
4.1.1 Các chỉ tiêu môi trường trong thí nghiệm
Sự biến động của các yếu tố nhiệt độ và pH trong suốt quá trình thí nghiệm cho cá sinh sản
tự nhiên được trình bày ở bảng 4.1.
Bảng 4.1 Chỉ tiêu nhiệt độ và pH trong thí nghiệm cho cá đẻ ở cuối vụ và đầu vụ (TN1)
Chỉ tiêu theo dõi Cuối vụ Đầu vụ
Lần 1 Lần 2 Lần 1 Lần 2
Nhiệt độ (

0
C) Sáng 26,7 ± 1,04 25,7 ± 0,76 26,3 ± 1,04 27,8 ± 1,06
Chiều 28,3 ± 1,26 27,5 ± 0,50 27,8 ± 0,76 29,8 ± 0,35
pH Sáng 7,4 ± 0,12 7,3 ± 0,06 7,4 ± 0,06 7,7 ± 0,14
Chiều 7,4 ± 0,10 7,4 ± 0,06 7,5 ± 0,06 7,8 ± 0,21
Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn.
Nhiệt độ môi trường có tác động trực tiếp đến đời sống của cá, ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng, phát triển và sinh sản của cá. Bên cạnh đó, pH cũng là một yếu tố môi trường quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cá. Qua hai đợt cho cá lóc sinh sản tự nhiên ở
đầu vụ và cuối vụ, nhiêt độ nước trong ao dao động từ 25,7 - 29,8
0
C và pH từ 7,3 - 7,8.
Theo Trương Quốc Phú (2004), thì nhiệt độ thích hợp cho tôm cá phát triển là từ 25 - 32
0
C
và pH thích hợp trong khoảng 6,5 - 9,0. Với kết quả trên thì nhiệt độ và pH phù hợp cho cá
sinh sản.
4.1.2 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN1 ở cuối vụ (9 - 10/2013)
Từ kết quả ở bảng 4.2 cho thấy, thời gian trung bình để cá bắt đầu bắt cặp giữa hai lần sinh
sản có sự chênh lệch không nhiều. Thời gian cá bắt đầu bắt cặp sinh sản trong sinh sản lần 1
là 33,97 giờ, lần 2 là 37,23 giờ khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Có thể là do
mức độ thành thục của cá khác nhau, nhiệt độ lúc cho cá sinh sản lần 1 cao hơn lần 2, nhiệt
độ lần 1 dao động từ 26,7 - 28,3
0
C và lần 2 từ 25,7 - 27,5
0
C, do đó thời gian hiệu ứng trong
sinh sản lần 1 ngắn hơn lần 2. Theo Nguyễn Thành Nghĩa (2011), cho cá lóc sinh sản tự
nhiên có thời gian hiệu ứng từ 36 - 44 giờ so với kết quả trên là hoàn toàn phù hợp.
Tỷ lệ cá đẻ ở lần 1 cao hơn lần 2: cụ thể lần 1 là 100%; lần 2 là 66,7%. Sức sinh sản tương

đối trung bình ở lần 1 là 12.971 trứng/kg cá cái cao hơn sức sinh sản tương đối trung bình ở
lần 2 là 9.983 trứng/kg cá cái. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ khối lượng của cá cái cho
sinh sản, cá cho sinh sản lần 1 có khối lượng lớn hơn lần 2: cá cái cho sinh sản lần 1 có khối
lượng đạt 0,7 - 0,95 kg, lần 2 là 0,5 - 0,75kg. Bên cạnh đó, thời gian cho cá sinh sản lần 2 so
13
với mùa vụ sinh sản của cá là quá trễ (khoảng cách giữa 2 lần sinh sản là 40 ngày) nên
không phù hợp cho cá sinh sản và mức độ thành thục của cá đã giảm.
Bảng 4.2 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở cuối vụ (TN1)
Chỉ tiêu theo dõi Sinh sản lần 1 (4/9/2013) Sinh sản lần 2 (15/10/2013)
TGHU (giờ) 33,97 ± 3,17
a
37,23 ± 4,14
a
TLCD (%) 100 66,7
SSSTD
(tr

ng/kg)
12.971
±
356
a
9.983
±
642
a
TLTT
(%)
92,4
±

1,21
a
85,5
±
2,55
b
TLN (%) 96,8 ± 0,95
a
89,9 ± 0,92
b
TLDH (%) 0,50 ± 0,21
a
0,87 ± 0,64
a
Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn.
Các giá trị trong cùng một dòng có các ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05).
Tỷ lệ trứng thụ tinh và tỷ lệ nở của trứng cá trong sinh sản lần 1 cao hơn lần 2, tỷ lệ trứng
thụ tinh và tỷ lệ nở của trứng cá trong sinh sản lần 1 là 92,4% và 96,8%; lần 2 là 85,5% và
89,9% (Bảng 4.2) và khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ lệ dị hình của cá bột
trong hai lần sinh sản thấp và không có sự chênh lệch nhiều, tỷ lệ dị hình lần 1 là 0,50%; lần
2 là 0,87% khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nguyên nhân do lúc cho cá sinh
sản lần 2 là thời gian sinh sản quá trễ so với mùa vụ sinh sản của cá lóc, nên không thích hợp
cho cá sinh sản, trứng và tinh trùng đã đi vào giai đoạn thoái hóa. Vì vậy, các chỉ tiêu sinh
sản của cá lóc lần 2 thấp hơn lần 1. Theo Nguyễn Thành Nghĩa (2011), cho cá lóc sinh sản
tự nhiên có tỷ lệ trứng thụ tinh và tỷ lệ nở dao động trong khoảng 92 - 96%. Như vậy, kết
quả thí nghiệm trên là phù hợp với kết quả thí nghiệm của Nguyễn Thành Nghĩa (2011).
4.1.3 So sánh các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc trong TN1 ở đầu vụ (2 - 3/2014)
Từ kết quả ở bảng 4.3 cho thấy, trong 2 lần cho cá lóc sinh sản tự nhiên đều có tỷ lệ cá đẻ là
66,7%. Thời gian của cá bắt cặp sinh sản lần 1 kéo dài đến 42,13 giờ, trong khi đó thời gian

của cá bắt cặp sinh sản lần 2 rút ngắn lại chỉ có 23,78 giờ. Do trong sinh sản lần 1 là thời
gian quá sớm ở đầu vụ nên mức độ thành thục của cá chưa tốt, trứng cá chưa tới giai đoạn
chín và rụng trứng. Bên cạnh đó, nhiệt độ nước lúc cho cá sinh sản lần 2 cao hơn lần 1, cụ
thể nhiệt độ lần dao động từ 26,3 - 27,8
0
C và lần 2 từ 27,8 -29,8
0
C (Bảng 4.1), nên thời
gian bắt đầu bắt cặp của cá sinh sản lần 2 ngắn hơn lần 1. Sức sinh sản tương đối trung bình
của cá giữa 2 lần sinh sản không chênh lệch nhiều, sinh sản lần 1 là 15.386 trứng/kg cá cái
và sinh sản lần 2 là 17.171 trứng/kg cá cái và khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p >
0,05). Do khối lượng cá cái không có sự chênh lệch nhiều: cụ thể khối lượng cá cái cho sinh
sản lần 1 dao động từ 0,9 - 1,05kg và lần 2 dao động từ 1,07 - 1,25kg.
14
Bảng 4.3 Kết quả các chỉ tiêu sinh sản của cá lóc ở đầu vụ (TN1)
Chỉ tiêu theo dõi Sinh sản lần 1 (20/02/2013) Sinh sản lần 2 (10/3/2013)
TGHU (giờ) 42,13 ± 0,18
a
23,78 ± 0,74
b
TLCD
(%)
66,7
66,7
SSSTD (trứng/kg) 15.386 ± 779
a
17.171 ± 506
a
TLTT (%) 78,2 ± 4,95
a

79,4 ± 3,75
a
TLN
(%)
77,9
±
2,33
b
82,0
±
0,42
a
TLDH (%) 1,10 ± 0,05
a
0,77 ± 0,33
a
Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn.
Các giá trị trong cùng một dòng có các ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05).
Qua bảng 4.3 cũng cho thấy, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ dị hình của cá bột trong sinh sản lần 1 là
78,2% và 1,10% khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với tỷ lệ thụ tinh và tỷ
lệ dị hình trong sinh sản lần 2 lần lượt là 79,4% và 0,77%. Do cá được chọn cho sinh sản đều
có mức độ thành thục tương tự nhau, đều cho sinh sản lần đầu, khoảng cách giữa 2 lần sinh
tương đối ngắn (20 ngày) nên không có sự chênh lệch lớn. Tỷ lệ nở trứng cá trong sinh sản
lần 1 là 77,9%, tỷ nở trong sinh sản lần 2 là 82,0% khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Do chất lượng tế bào trứng và tinh trùng không đều nhau, nên làm ảnh hưởng đến quá trình
phát triển phôi, nên tỷ lệ nở của trứng giữa lần sinh sản có sự khác biệt.
4.1.4 So sánh kết quả sinh sản tự nhiên của cá lóc ở đầu vụ và cuối vụ
Từ bảng 4.4 cho thấy, tỷ lệ cá đẻ có sự chênh lệch nhau, ở đầu vụ là 66,7%, trong khi đó tỷ
lệ cá đẻ ở cuối vụ lên đến 83,4%. Do thời gian sinh sản giữa hai đợt khác nhau, mức độ

thành thục của cá cũng khác nhau nên ảnh hưởng đến tỷ lệ cá đẻ. Bên cạnh đó, thời gian của
hai đợt sinh sản không phải là thời gian thích hợp cho sinh sản tự nhiên của cá lóc nên có tỷ
lệ cá đẻ thấp. Nguyên nhân dẫn đến độ lệch chuẩn của tỷ lệ cá đẻ ở cuối vụ lớn là do tỷ lệ cá
đẻ giữa 2 lần sinh sản ở cuối vụ có sự chênh lệch lớn: cụ thể, tỷ lệ cá đẻ lần 1 là 100%; lần 2
là 66,7%. Thời gian cá bắt đầu đẻ ở đầu vụ ngắn hơn ở cuối vụ: đầu vụ là 32,95 giờ, ở cuối
vụ là 35,27 giờ khác nhau không có ý nghĩa thống kê giữa 2 đợt sinh sản (p > 0,05). Do nhiệt
độ ảnh hưởng rất lớn đến thời gian rụng trứng mà nhiệt độ giữa hai đợt sinh sản tương
đương nhau: nhiệt độ trong đợt sinh sản đầu vụ từ 26,3 – 29,8
0
C; cuối vụ từ 25,7 - 28,3
0
C
(Bảng 4.1). Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), nhiệt độ càng cao (trong giới hạn cho phép) sẽ
cùng thúc đẩy quá trình sinh sản của cá và ngược lại. Nhìn chung qua hai đợt cho cá lóc sinh
sản tự nhiên thì cá đẻ không đồng loạt, thời gian chênh lệch nhau nhiều và tỷ lệ cá đẻ tương
đối thấp.

×