Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN: Rèn kĩ năng nghe và nói tiếng Anh cho học sinh lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.63 MB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I- Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, đối với học sinh bậc trung học cơ sở (THCS), tiếng Anh đã
trở nên phổ biến và thầy cô giáo cũng đã cung cấp cho học sinh một lượng
lớn kiến thức mới, biết được các phương pháp học, các thủ thuật, các kỹ
năng trong học tập. Để các em đạt được các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết,
giáo viên phải liên tục đổi mới phương pháp dạy học trong tình hình mới
hiện nay.
Trong nhiều năm học qua, giá o viên dạy Tiếng An h THCS thự c hiện
theo phân phối chương trình do Bộ Giáo dục – Đào tạo phát hành, giáo
viên dạy cho học sinh mỗi kỹ năng (nghe, nói, đọc và viết) trong từng tiết
học riêng biệt. Thế nhưng kể từ năm học 2008-2009 đến nay, tất cả giáo
viên giảng dạy Tiếng Anh phải soạn giáo án th eo phân phối chương trình
do tổ chuyên môn, Hội đồn g b ộ môn thảo luận và đề xuất lãnh đạo cấp có
thẩm quyền ngành giáo dục phê duy ệt và đưa vào thực hiện thống nhấ t cho
tất cả giáo viên dạy tiếng Anh trong toàn trường, toàn cụm sinh hoạt Hội
đồng bộ môn. Theo Phân phối chương trình mới này, giáo viên giảng dạy ở
khối lớp 8, 9 phải dạy cả hai kỹ năng trên cùng một tiết dạy, chẳng hạn
như cả hai kỹ năng nói và nghe, đọc và nghe, nghe và viết trong một tiết
dạy chỉ có trọn vẹn 45 phút. Điều này đã tạo nên sự quá tải về nội dung
bài học lẫn các hoạt động của thầy và trò trong mỗi tiết học. Sự quá tải
này dẫn đến tình trạng giáo viên đứng lớp không thực hiện tiết dạy theo
đúng thời gian qui định của một tiết học (thường bị cháy giáo án). Để giả i
quyết tình trạng này, giáo viên thường đối phó bằng cách đốt cháy giai
đoạn: dạy lướt hoặc chỉ hướng dẫn học sinh cách thực hiện rồi cho học
sinh về nhà thực hành. Những cách làm trên dẫn đến hậu quả là học sinh
không nắm được đầy đủ kiến thức,nhất là học sinh yếu, kém không có cơ
hội rèn luyện kỹ năng, giáo viên không phát hiện được những hạn chế,
những lỗi sai sót mà h ọc sinh vướng phải để kịp thời chỉnh sửa cho học
sinh.
Là giáo viên dạy tiếng Anh ở trường THCS, tôi thường xuyên tự hỏi


là phải làm gì và làm như thế nào để học sinh lớp mình dạy tiếp thu được
trọn vẹn các kiến thức trọn g tâm và có cơ hội rèn luyện đủ cả hai kỹ năng
trong một tiết học. Đó chính là vấn đề đặt ra cho bản thân, cũng như
Tra ng 1
những giáo viên đang giảng dạy tiếng Anh ở trừờng THCS, đặ c biệt là
những giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tiếng Anh lớp 8.
II- Mục đích nghiên cứu đề tài:
Là giáo viên giảng dạy bộ môn Tiến g Anh ở trư ờn g THCS th ị trấn Tri
Tôn, trường được đặt ở vùng khó khăn có đông học sinh dân tộc Khơme
tham gia học tập, nên chất lượng giảng không đạt được hiệu quả cao như
các trường ở địa bàn thuận lợi khác. Muốn nâng cao chất lượng tiết dạy
môn tiếng Anh nói riêng và nâng cao chấ t lượng giáo dục nói chung nên
những vấn đề nêu trên đã đặt ra cho tôi là làm thế nào để nâng cao chất
lượng bộ môn: nâng tỉ lệ học sinh khá giỏi và hạn chế học sinh yếu kém.
Và điều đó chính là lý do mà tôi không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, đúc kết
kinh n giệm nhằm tìm ra những giải pháp tối ưu để vận dụng vào thực tế
giảng dạy, nhằm mang lại hiệu quả ca o nhất trong việc giảng dạy cả hai kỹ
năng Nghe và Nói tiếng Anh trong một tiết lên lớp.
III- Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
1. Khách thể nghiên cứu:
Phương pháp giảng dạy bộ môn tiếng Anh rất phong phú, đa dạng.
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về phương pháp giảng dạy hai
kỹ năng Nghe và Nói tiếng Anh. Do điều kiện không cho phép nên tôi chỉ
tiến hành thực nghiệm với học sinh ở khối 8 của trường THCS thị trấn Tri
Tôn.
Đơn vị bài h ọc mà tôi chọn để kiểm nghiệm kết quả là: Unit 3, 4, 5, 11,
12- Enghlish 8.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Các giải pháp dạy cả hai
kỹ năng Nghe-Nói tiếng Anh trong cùng một tiết dạy ở lớp 8” nhằm

nâng cao hiệu quả của tiết dạy và chất lượng của bộ môn tiếng Anh ngày
càng cao hơn, nâng dần tỷ lệ học sinh khá gi ỏi, giảm thiểu tỷ lệ học sinh
yếu kém.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được sử dụng trong để tài này là:
- Phương pháp tra cứu tài liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích và đánh giá kết quả hoạt động của học sinh.
Tra ng 2
- Phương pháp tổng hợp các kinh nghiệm thu được.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY HAI KỸ NĂNG
NGHE-NÓI TIẾNG ANH Ở BẬC THCS
I- Tiến trình giảng dạy hai kỹ năng nghe và nói tiếng Anh.
Kỹ năng Nghe và Nói là hai tron g bốn kỹ năng mà người học tiếng
Anh cần phải rèn luyện. Do đó, khi tiến hành dạy kỹ năng nghe hoặc nói,
giáo viên cần phải thực hiện đảm bảo tiến trình theo ba bước cơ bản là
Pre-stage, while-stage và post-stage (production)
1. Tiến trình giảng dạy kỹ năng nói.
1.1. Pre-speaking:
- Giới thiệu từ vựng (nếu có), bài/câu nói mẫu.
- Yêu cầu học sinh đọc hiểu nhằm nắm bắt những thông tin về nội
dung bài nói.
- Giáo viên đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh rút ra cách sử
dụng từ và cấu trúc câu.
- Giáo viên đưa ra yêu cầu bài nói.
Ở bước này giáo viên điều khiển toàn bộ các hoạt động của học sinh.
1.2. While-speaking:
- Học sinh dựa vào tình huống gợi ý để luyện nói theo nội dung yêu

cầu.
- Học sinh luyện nói theo cá nhân/ cặp/ nhóm dưới sự kiểm soát và hướng
dẫn của giáo viên. Giáo viên giảm dần sự điều khiển của mình đối với học sinh.
- Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày lại bài thực hành nói.
1.3. Post-speaking:
Học sinh liên hệ thực tế để nói về bản thân, bạn bè, ngư ời thân trong
gia đình hoặ c về quê hương, đất nước, địa phương nơi ở hay về một chủ đề
tương tự với bài thực hành ở phần while.
Ở phần này, giáo viên để học sinh hoạt độn g nói tự do, học sinh có
thể tự trình bày theo khả năng của mình. Giáo viên hạn chế sự xen vào để
sửa lỗi ch o học sinh điều đo sẽ làm làm cho các em mất hứng, thiếu tự tin
nói. Có như thế dần dần sẽ tạo được kỹ năng nói cho các em.
2. Tiến trình giảng dạy kỹ năng nghe.
2.1. Pre- listening:
Tra ng 3
- Giới thiệu nội dung chính hay tình huống về những thông tin mà
học sinh sắp sửa nghe.
- Giáo viên đưa ra hệ thống các câu hỏi đoán về nội dung sắp nghe;
- Giáo viên đưa ra các yêu cầu về bài nghe.
2.2. While-listenning:
- Giáo viên cung cấp cho học sinh các câu hỏi hướng dẫn, yêu cầu
mục đích khi nghe;
- Hướng dẫn học sinh phương pháp hay kỹ năng nắm bắt thông tin. Ví
dụ: Lần thứ nhất: nghe để nắm ý chính của bài khóa, có thể trả l ời các câu
hỏi đại ý; Lần th ứ hai: nghe ch i tiết nội du ng bài khóa; Lần thứ ba : kiểm
tra lại kết quả, điều chỉnh đá p án hay tự sửa lỗi trước khi giáo viên chữa
lỗi và cho đáp án chính xác.
- Ở bước này, giáo viên nên cho học sinh nghe cả nội dung bà i,
không dừng ở từng câu một (trừ trường hợp câu khó muốn cho học sinh tìm
thông tin chi tiết chính xác).

2.3. Post-listening:
- Tóm tắt bài nghe (Summarize the text)
- Sắp xếp các sự kiện cho bài nghe (Arrange the events in order).
- Trình bày lại nội dung bài nghe. (Retelling story)
- Đặt tiêu đề cho bài nghe (Give the tittle of the listenin g text). Đối
với học sinh khá giỏi giáo viên có thể yêu cầu các em bình luận, cho ý
kiến về các nhân vật trong bài nghe. (Give comment)
- Viết lại câu truyện dùng các gợi ý (Writing) hay đóng vai (role-
play).
II- Sự cần thiết phải dạy cả hai kỹ năng Nghe-Nói tiếng Anh trong
cùng một tiết dạy.
Đối với giáo viên, việc soạn giảng theo đúng phân phối chương trình
là một việc làm bắt buộc bởi vì phân phối ch ương trình mang tính pháp
lệnh. Soạn giảng không đúng phân phối chương trình đồng nghĩa với việc
vi phạm quy chế chuyên môn. Vì thế, dạy cùng lú c hai kỹ năng Nghe-Nói
trong một tiết lên lớp phải được thực hiện đúng tiến độ chương trình và
thời gian quy định, nội dung bài giảng, phương pháp của tiết dạy.
Mặt khác, tiến trình giảng dạy đòi hỏi giáo viên và học sinh phải
thực hiện khá nhiều hoạt động trong một tiết học. Để các hoạt động
này có hiệu quả cao, giáo viên cần phải vận dụng các phương pháp
giảng dạy một cách linh hoạt và sáng tạo. Có như thế thì hiệu quả của
việc rèn luyện kỹ năng Nghe-Nói tiếng Anh nói riêng và chất lượng bộ
môn tiếng Anh nói chung sẽ ngày càng được nâng cao.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC DẠY CẢ HAI KỸ NĂNG
Tra ng 4
NGHE-NÓI TIẾNG ANH TRONG CÙNG MỘT TIẾT DẠY
Ở TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN TRI TÔN
I- Giới thiệu khái quát về trường THCS thị trấn Tri Tôn.
Trường THCS thị trấn Tri Tôn đư ợc đặt trên địa bàn khóm 4, thị trấn

Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tổn g số học sinh của trường là
1255, nữ 632 được biên chế với tổn g số lớp học là 33 lớp: khối 6: 9 lớp –
352 h ọc sinh, khối 7: 8 lớp – 302 học sinh, khối 8: 8 lớp – 295 học sinh,
khối 9: 8 lớp – 306 học sinh . Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 79
người, nữ 50 người; Trường có cho bộ Đảng sinh hoạt độc lập với tổng số
đảng viên là 36. Tổ Anh văn gồm có 6 thành viên trong đó giáo viên dạy
giỏi cấp huyện 5/6 giáo viên Hiện nay trường đang xây dựng hoàn chỉnh
các hạn mục còn lại đạt tiêu chuẩn trường đạt chuẩn Quốc gia. Nhiều năm
qua, trường luôn có học sinh đạt học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh; trường
luôn đạt danh hiệu lao động tiên tiến, tiên tiến xuất sắc.
II- Thuận lợi, khó khăn:
1. Thuận lợi:
Trang thiết bị giảng dạy và đồ dùng dạy h ọc nói chung, môn tiếng
Anh bậc THCS nói riêng luôn được quan tâm vì th ế tran g th iết bị khá đầy
đủ gồm 01 bộ tranh tiếng Anh 6, 7, 8, 9 và một số máy cassette cho học
sinh rèn luyện kỹ năng nghe đá p ứng được yêu cầu tối thiểu cho hoạt động
dạy học. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm quyết với nghề và có kinh
nghiệm giảng dạy.
2. Khó khăn:
Học sinh ở trường THCS thị trấn Tri Tôn là đối tượng học sinh
vùng khó khăn, tỷ lệ học sinh dân tộc Khơmer khoảng 30%, phần đông
thuộc h oàn cảnh gia đình khó khăn. Có những học sinh vừa học vừa lo làm
kinh tế để phụ giúp gia đình h oặ c kiếm tiền chi cho việc học. Một số phụ
huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mìmh mà phó thác cho nhà
trường, giáo viên.Trường chưa có phòng nghe nhìn để luyện nghe cho học
sinh.
III- Thực trạng việc giảng dạy cả hai kỹ năng Nghe-Nói tiếng Anh
8 trong cùng một tiết học ở trường THCS thị trấn Tri Tôn.
Tra ng 5
Trong những năm học qua , hầu hết các kỹ năng nghe, n ói, đọc, viết

được dạy tách ra từng tiết riêng biệt. Việc áp dụng phân phối chương trình
mới, dạy ghép hai kỹ năng Ngh e-Nói trong một tiết lên lớp đã tạo ra hai
khó khăn lớn cho giáo viên khi lên lớp. Kh ó khăn thứ nhất là sự quá tải về
nội dung kiến thức cần truyền đạt. Khó khăn thứ hai là giáo viên và học
sinh phải thực hiện quá nhiều hoạt động trong khoảng thời gian nhất định.
Những khó khăn trên dẫn đến kết quả là giá o viên và học sinh không hoàn
thành nội dung bài học theo thời gian qui định.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ DẠYCÙNG LÚC HAI KỸ NĂNG
NGHE-NÓI TIẾNG ANH TRONG MỘT TIẾT LÊN LỚP CÓ HIỆU
QUẢ HƠN
Nhằm hạn chế sự quá tải về nội dung kiến thức và tổ chức tốt hoạt
động trong một tiết dạy bao gồm hai kỹ năng Nghe- Nói, trong thời gian
vừa qua tôi đã thực hiện những giải pháp cụ thể như sau:
1. Tận dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học:
Giáo viên phải tận dụng triệt để các trang thiết bị và đồ dùng dạy học
như máy cassette, visuals, posters, flashcards, tranh ảnh, bảng phụ … để
giảng dạy nhằm khắc phục việc tiết dạy bị hạn chế về thời gian.
Ví dụ:
Ở tiết dạy nói (SPEAK-Unit 3-trang 29-Sách giáo khoa 8) giáo viên
phải sử dụng các tranh để dạy từ mới, giới thiệu bài và cũng để cho học sinh
quan sát vị trí các đồ vật khi nói.
Tra ng 6
Ở tiết dạy nói (SPEAK-Unit 4-trang 40-Sách giáo khoa 8) giáo viên
phải sử dụng các tranh để giới thiệu bài ngữ cảnh và để cho học sinh sao
sánh giữa quá khứ và hiện tại.
Còn ở tiết Language Focus-Unit 11/trang 108, sách giáo khoa 8 giáo
viên dùng tranh để học sinh xác định nhân vật:
Tra ng 7
Hay để giới thiệu cho học sinh xác định đồ vật:

Giáo viên sử dụng các tranh về các kỳ quan thế giới để học sinh nhận
biết giúp các em có thêm kiến thức về thế giới.


Tra ng 8

2. Giới thiệu từ mới một lần:
Giáo viên không giới thiệu từ mới riêng biệt trong từng nội dung Nghe
hoặc Nói như trước đây đã từng thực hiện. Từ mới trong cả hai phần Nói và
Nghe sẽ được tổng hợp và giới thiệu trong bước pre- của kỹ năng được chọn
giảng dạy trước nghe hoặc nói. Ví dụ, nếu ta dạy kỹ năng Nói trước thì từ
vựng sẽ được giới thiệu trong bước pre-speaking.
3. Xác định kiến thức trọng tâm cần truyền đạt :
Kỹ năng n ói trong Tiếng Anh giúp học sinh vận dụng những kiến
thức về từ vựng, cấu trúc đã được học để diễn đạt các ch ức năng ngôn ngữ
theo các chủ đề hay tình huống tương tự với bà i học. Do đó kh i dạy kỹ
năng nói giáo viên cần chú ý:
- Việc xác định đúng, chính xác kiến thức trọng tâm cần truyền đạt
giúp giáo viên không bị “lạc đề” trong quá trình soạn giảng.
- Đối với kỹ năng nói giáo viên cần xác định kiến thức trọn g tâm cần
cho học sinh luyện tập. Đó là những kiến thức ngữ pháp hay những từ
vựng giú p học sinh diễn đạt những chứ c năng ngôn ngữ theo đúng như chủ
đề và tình huống của bài giảng. Giáo viên cầ n nhấn mạnh cấu trúc ngữ
pháp trọng tâm được sử dụng để rèn luyện cả hai kỹ năng nghe-nói. Giáo
viên có thể lướt qua những cấu trúc có liên quan với nhau nhưng không
phải là cấu trúc trọng tâm để thực hành.
Chẳng hạn , khi dạy điểm ngữ pháp “Used to và didn’t use to.” giáo
viên chỉ cần dạy cấu trúc, cách dùng và n ghĩa của cấu trúc Used to và
hướng dẫn học sinh thực hành. Giáo viên không cần mất thời gian để giải
thích lại cách dùng thì quá khứ đơn hay thì hiện tại đơn.

Affirmative: S + used to + V
0
+ …
Negative: S + didn’t use to + V
0
+ …
Tra ng 9
Examples:
1/ People used to live in the cottages. Now they live in the buildíng.
2/ There didn’t use to be electricity. Now there is electricity
everywhere.
4. Xác định từ vựng cần giới thiệu:
Thông thường trong mỗi đơn vị bài học đều có xuất hiện từ mới,
nhưng đối với đặ c thù của tiết dạy cả ha i kỹ năn g Nghe - Nói thì việc giới
thiệu từ vựng đòi hỏi phải được thực hiện nhanh chóng và không mất nhiều
thời gian. Do đó không phả i từ mới nào giáo viên cũng đưa vào giảng dạy
như nhau. Giáo viên cần phải chọn lọc từ vựng để dạ y, chủ yếu chỉ dạy
cho học sinh những từ chủ độn g, còn các từ bị động thì chỉ lướt qua bằng
cách cho nghĩa khi học sinh không biết thậm chí không cần giới thiệu cho
học sinh. Giáo viên cũng cần xác định rõ những từ mới cần dạy, tránh giới
thiệu những từ không cần thiết đồng th ời phải chọn lọc phương pháp giới
thiệu từ vựng cà ng đơn giản càng tốt. Giáo viên nên sử dụng các hình ảnh
trực quan, vật thật để dạy từ vựng sẽ hạn chế được thời gian và tạo được
không khí lớp học sinh động hơn.
Các từ chủ động thường xuất hiện trong các câu mẫu hoặc bài đàm
thoại mẫu. Do vậy kh i giới thiệu cấ u trúc câu hoặc bài nói mẫu giáo viên
có thể kết hợp giới thiệu từ mới. Đối với các gợi ý từ (cues) cho học sinh
thực hành, nếu có từ mới giáo viên có thể dùng nhiều phương pháp như
phương pháp ra cử chỉ, điệu bộ (mine), phương pháp dịch nghĩa
(translation) sang tiếng Việt, hoặc cho học sinh đoán nghĩa từ qua ngữ

cảnh (situation) qua thí vụ (example), đồng nghĩa hay phản nghĩa
(synonym/antonym) hoặc bằng cách tra tự điển…
Ví dụ, trong phần Speak & Listen bài 4 trang 40-41 sách giáo khoa
Tiếng Anh 8, các từ mới xuất hiện tron g bài gồm các từ chủ động như:
cottage, building, electricity, foolish, greedy, to lay và các từ bị động:
dead, unfortunately, cut open, look for, các từ này có thể cho học sinh biết
nghĩa thậm chí không cần giới thiệu.
5. Thiết kế bài hội thoại mẫu và tổ chức cho học sinh thực hành:
Giáo viên không nhất thiết cứ phải dùng bài hội thoại mẫu hoặc tất
cả các gợi ý câu , từ trong sách giáo khoa giáo viên có thể thiết lập bài hội
thoại mẫu đơn giản nhưng nổi bậc được kiến thức ngôn ngữ trọng tâm.
Tra ng 1 0
Đối với đơn vị bà i 5, giáo viên có thể thiết kế bài hội thoại để học
sinh thực hành để tiết kiệm thời gian chứ không nhất thiết phải dạy như
yêu cầu trong sách giáo khoa (phần Speak trang 47-48 Tiếng Anh 8):
A: When do you do your homework?
B: After school

/ after breakfast/ lunch/ dinner ; late at night; early in the
morning
A: Who helps you with your homework?
B: My parents

/ my brother/ my sister/ a friend/
A: How much time do you spend on these subjects: Math

/ Vietnamese/
History/ English/?
B: H


alf an hour

/ 2 hours/ more than an hour/ less an hour.
A: Which subject do you need to improve?
B: Biology

/ Physics/ Chemistry/ Geography/
A: What do you do to improve your English

?
B: I do grammar exercise

/ read English stories/
Sau khi thiết lập bài hội thoại mẫu, giáo viên tổ chức cho học sinh
luyện nói theo tiến trình như sau:
*Repeatation:
- GV giới thiệu câu mẫu/ bài nói mẫu.
- Học sinh luyện nói câu mẫu, bài nói mẫu cá nhân hoặc theo cặp,
nhóm.
- Giáo viên dùng câu hỏi gợi ý để học sinh tự rút ra cách sử dụng từ
và cấu trúc câu.
*Control practice:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụn g những gợi ý (từ, tranh ảnh,
cấu trúc) để luyện nói.
- Học sinh luyện nói theo cá nhân/ cặp/ nhóm dưới sự điều khiển của
giáo viên (sửa lỗi phát âm, ngữ pháp …)
- Giáo viên quan sát để hỗ trợ cho học sinh hoặc tham gia nói tiếng
Anh với học sinh để tạo mối quan hệ thân thiện, tự tin cho học sinh.
- Giáo viên gọi cá nhân, cặp học sinh, nhóm trình bày lại phần vừa
mới thực hành.

*Free practice:
- Học sinh vận dụng những kiến thứ c ngôn ngữ của bản thân vào tình
huống, ngữ cảnh bài nói để liên hệ thực tế. Ở bước này giáo viên nên để
cho học sinh tự do trình bày theo khả năn g của các em không cần xen vào
để sửa lỗi sai.
Tra ng 1 1
- Giáo viên cùng học sinh cho lời nhận xét và tuyên dương.
6. Môt số lưu ý khi dạy kỹ năng nói:
- Giáo viên cần thực hiện bước pre-speaking một cách đơn giản
nhưng rõ ràng đề khắc phục vấn đế thời gian. Thông thường các cấu trúc
câu cho học sinh thực hành đã xuất hiện hoặc được giới thiệu tron g phần
ngữ liệu (Listen and Read). Vì thế tron g bước này giáo viên chỉ cần gợi ý
cho h ọc sinh nhắc lại cấu trúc và giới thiệu thêm một số kiến thức cần
thiết khác.
Ví dụ ở đơn vị bài 11 tiếng Anh 8 trang 100 - 101:
*Nội dung trong sách giáo khoa:
Request
Rely
√ ×
- Do y ou mind clos in g the
door?
- Would you mind
opening the windown?
- Do you mind if I take a
photo?
- Would you mind if I
took a photo?
- No, I don’t mind.
- No, of couse not.
- Not at all

- Please do.
- Please do ahead
- I’m sorry, I can’t.
- I’m sorry, that is not
possible.
- I’d prefer you didn’t
- I’d rather you didn’t
*Nôi dung giáo viên thực hiện:
Giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại cấu trú c đã được giới thiệu trong
phần Listen and Read.
- Giới thiệu một số lời đáp lại lời yêu cầu (request):
+ No, I don’t mind/ Not at all / Please do.
+ I’m sorry, I can’t./ I’d prefer you didn’t
- Trong phần while-speaking GV cần hướng dẫn HS cá ch tiến hành,
làm rõ yêu cầu bài tập. Tranh ảnh, từ gợi ý phải mang tính thực tế gần gũi
với đời sống thường ngày, không nhất thiết chỉ bám sát vào sách giáo
khoa.
Ví dụ: Các gợi ý trong sách giáo khoa 8 ở tiết nói (SPEAK)-Unit 11,
trang 101:
Thai Bình Market
Ben Thanh Market
Stamps and Coins Market
Giáo viên có thể thay thế Stamps and Coints Market bằng Flowers Market
cho phù hợp với thực tế ở Việt Nam, và Thái Bình Market, Bến Thành Market
thay bằng tên của các chợ gần gủi hơn như Long Xuyen Market, Tri Tôn Market
Tra ng 1 2
sẽ giợ được sự hiểu biết và tạo sự gần gủi hơn đối với các em, còn các như Thái
Bình Market, Bến Thành Market các em không hề biết gì đến các chợ này.
- Phần post-speaking giáo viên không nên hạn chế về ý tưởng cũng
như ngôn ngữ, nên để h ọc sinh tự do nói, phát huy khả năng sáng tạo của

học sinh. Ở bước này giáo viên nên đánh giá mang tính động viên, khích
lệ.
7. Môt số lưu ý khi dạy kỹ năng nghe:
Không giống với dạy kỹ năng nói, dạy kỹ năng n ghe là giúp học sinh
rèn luyện kỹ năng chọn lọc thông tin , nhận biết kiến thức ngôn ngữ trong
quá trình rèn luyện kỹ năng. Do đó giáo viên có thể dành thời gian rèn
luyện kỹ năng nghe ít hơn thời gia n rèn luyện kỹ năng nói vì học sinh có
thể tự luyện tập nghe ở nhà một mình.
Là kỹ năng nhận biết vì thế các từ vựng cần cung cấp đa số là các từ
bị động do vậy giáo viên không phải mất thời gian ch o việc giới thiệu từ
vựng. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự tìm hiểu nghĩa của các từ mới
trước ở nhà (homework).
- Đối với bước pre-listening, ngoài việc cung cấp từ vựn g và đưa ra
những gợi ý về chủ đề để học sinh suy nghĩ, suy đoán về nội dung bài
nghe, Giáo viên cần chú trọng việc hướng dẫn học sinh nắm những th ông
tin mà bài tâp yêu cầu .
- Nếu bước pre-listening được chuẩn bị tốt thì bước while-listening
sẽ là một hoạt động hết sức nhẹ nhàn g đối với giáo viên và học sinh. Th ầy
và trò cùng lắng nghe bài text và chọn thông tin phù hợp để hoàn thành
yêu cầu đề ra.
- Trong phần post-listening , theo tôi gíao viên phải tổ chức các hoạt
động để kiểm tra xem học sin h của mình nắm được nội dung bà i nghe ở
mức độ nào bằng nhữn g bài tập đơn giản để không mất nhiều thời gian.
Và các dạng bà i tậ p phù hợp trong trường hợp này là arrange the events in
order, summarize or retell the text.
8. Kết quả đạt được
Áp dụn g những giải pháp nêu trên vào thực nghiệm ở khối l ớp 8
trường THCS thị trấn Tri Tôn (Unit 4. OUR PAST- Enghlish 8) đồng th ời
đối ch iếu với tiến trình giảng dạ y bình thườn g (dạy trình tự các nội dung
sách giáo khoa) thời gian lên lớp được ghi nhận như sau:

*Về thời gian:
Tra ng 1 3
Thời gian
Dạy bình thường Dạy thực nghiệm
58 phút 48 phút
Số liệu trên minh chứng rằng những giải pháp đưa ra đã phần nào
mang lại hiệu quả thiết thực. Tiết dạy diễn ra trong giới hạn th ời gian cho
phép đồng thời đảm bảo đúng mụ c tiêu và yêu cầu về nội dung lẫn phương
pháp.
*Về chất lượng bộ môn:
Năm học 2007 – 2008:
Giỏi: 26/246 = 10.57% Khá: 29/246 = 11.79%
TB: 102/246 = 41.46% Yếu: 76/246 = 30.89%
Kém: 13/246 = 5.28%
Năm học 2008 – 2009:
Giỏi: 33/229 = 14,4% Khá: 33/229 = 14,4%
TB: 133/229 = 58,1% Yếu: 30/229 = 13,1% Kém: 0%
Năm học 2009 – 2010:
Giỏi: 45/230 = 19,6% Khá: 39/230 = 16,96%
TB: 119/230 = 51,7% Yếu: 27/230 = 11,74% Kém: 0%
Qua số liệu trên đã chứng minh rằng sau khi tôi áp dụng phương pháp
dạy hai kỹ năng nghe, nói trên cùng một tiết dạy, thì chất lượng bộ môn
Anh văn trong vài năm gần đây có nhiều tiến bộ không ngừng tăng lên, tỷ
lệ học yếu, kém giảm rõ rệt, tỷ lệ h ọc sinh khá giỏi tăng lên theo từng năm
học. Ngày càng có nhiều học sinh ham thích học tiếng Anh và phụ huynh
học sinh cũn g nhận thấy được sự cần thiết của việc học ngoạ i ngữ, nhất là
tiếng Anh.
KẾT LUẬN
Dạy học là một nghệ thuật, phương pháp và thủ thuật mà giáo viên cho
học sinh hoạt động và thực hành tiếng Anh chỉ có thể đạt kết quả khi nó

được tiến hành dưới sự điều khiển cĩ nghệ thuật và khéo léo của giáo viên.
Kết hợp với sự đổi mới của ngành giáo dục về mục tiêu giáo dục thì
mục tiêu môn học là vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Vì thế việc dạy ngoại ngữ nói chung và tiếng anh nói riêng cần đổi mới
phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo. Xác định rỏ mục tiêu của việc học
ngoại ngữ là để làm gì.
Qua nhiều năm dạy tiếng Anh, tơi cĩ nhận định rằng. Để dạy cho học
sinh cĩ kỹ năng nói là vô cùng khó khăn, đặc biệt là học sinh ở vùng sâu xa
này. Tuy vậy, sau khi áp dụng được một số phương pháp tích cực trên phần
nào đã có sự chuyển biến về khả năng nói của học sinh.
Để việc dạy cùng lúc hai kỹ năng Nghe - Nói tiếng Anh trong một tiết
lên lớp đạt hiệu quả cao hơn, theo tôi giáo viên cần phải tận dụng và khai
thác triệt để các trang thiết bị đồ dùng dạy học, chọn lọc nội dung đáp ứng
mục tiêu đề ra, đồng thời phải biết uyển chuyển, linh hoạt và sáng tạo trong
Tra ng 1 4
việc vận dụng các phương pháp vào giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh, điều kiện thực tế của từng trường. Tuy nhiên, đây chỉ là
kinh nghiệm riêng của bản thân thu thập qua nhiều năm công tác. Vì thế
những giải pháp được trìn h bày ở trên chắc hẳn vẫn chưa phải là những
giải pháp hoàn hảo, tối ưu. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp, trao đổi của quý đồng nghiệp để chất lượng giảng dạy bộ môn tiếng
Anh nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung ngày càng đươc nâng cao
góp phần vào tiến trình hội nhập thế giới trên mọi lĩnh vực.
Tri Tôn, tháng 11/2010
Người thực hiện
Trần Thị Tầm
Tra ng 1 5

×