Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tư tưởng HCM với việc giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.45 KB, 33 trang )

BỘ MÔN MÁC-LÊNIN

CHUYÊN ĐỀ THI SINH VIÊN GIỎI
MÔN ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề Tài:
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
HIỆN NAY

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 3 Năm 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới-Người là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường của
một dân tộc anh hùng dã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Khi nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chung ta là đang nói đến một
thiên tài trên nhiều lĩnh vực. Tuy bây giờ Người không còn nữa nhưng Người
đã để lại cho dân tộc ta nhiều di sản vô giá, trong đó tư tưởng của Người là
một di sản vô cùng quý giá và được Đảng và nhân dân ta vận dụng trong công
việc học tập, công tác hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam từ đại hội đại biểu
toàn quốc lần II (2/1951) trở lại đây đã luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác
dụng của đường lối chính trị tư tưởng, đạo đức, phong cách lối sống của Hồ
Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến đại hội đại biểu lần VII (6/1991)
Đảng ta đã ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình là: “Đảng lấy chủ nghĩa
Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động ’’. [Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.127]
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và quá trình tu
dưỡng đạo đức của người cách mạng. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là


một bộ phận quan trọng trong hệ thống di sản tư tưởng của Người. Có thể
nói, toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với sự phát triển và xây
dựng tư tưởng đạo đức cách mạng mà Người là một biểu tượng vĩ đại và sáng
ngời nhất. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những tư tưởng đạo
đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta với những tinh hoa văn hóa đạo đức
nhân loại, được sử dụng và phát triển trên nền tảng biện chứng của chủ nghĩa
Mac-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò của đạo đức, lấy đạo đức
làm cái gốc của người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng thì phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy đi chăng nữa cũng không lãnh đạo được nhân dân’’. [Hồ Chí Minh Toàn
tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292-293]
Nghiên cứu sự hình thành tư tưởng đạo đức cộng sản ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh qua cuộc đời hoạt động và qua các tác phẩm còn để lại của Người
chúng ta thấy rõ đặc trưng cơ bản của tư tưởng nhân đạo cộng sản ở Người là
lòng yêu nước, thương người. Chính tình yêu đối với quê hương đất nước và
lòng thương người, thương dân là động cơ lớn chi phối mọi mặt hoạt động
cách mạng của Người.
Con người ai cũng có những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho mình,
cho gia đình mình để sống và làm việc. Nhưng nếu để cho những yêu cầu hợp
lý kia trở thành đòi hỏi phi lý và những nhu cầu vật chất chính đáng trở thành
những ham muốn quá đáng thì con người sẽ thoái hóa, hư hỏng, biến chất rất
nhanh. Quả thật đúng vậy, hiện nay trong xã hội ta do sự du nhập văn hóa
ngoại lai, do cách giáo dục của chúng ta, do công tác tuyên truyền, do áp lực
đồng tiền mà nhiều người đã thoái hóa đạo đức của mình, làm những việc phi
pháp hại nước hại dân, trái với lương tâm đạo đức của một con người. Mà đặc
biệt là lớp trẻ hiện nay đang có dấu hiệu của sự đi xuống trầm trọng về đạo
đức. Vì vậy, việc nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực
tiễn giáo dục đạo đức, nâng cao lối sống văn hóa, văn minh cho thanh niên
hiện nay và biểu dương những gương mặt tiêu biểu học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Từ những vấn đề trên có thể khẳng định rằng nghiên cứu: “Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên
hiện nay’’là hết sức quan trọng và cần thiết, đáp ứng nhu cầu bức thiết cả về
lí luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả mạnh dạng lựa chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh .
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm vận dụng đúng đắn, hiệu quả quan
điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức.
- Vấn đề giáo dục đạo đức lối sống cho thanh niên hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu thu thập tài liệu.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp….
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn
được chia làm hai chương:
Chương I : Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Chương II: Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo
đức cho thanh niên hiện nay.
Chương I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1. Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Từ thời vua Hùng dựng nước đến nay dân tộc ta đã trải qua biết bao

thâm trầm, biến cố với nhiều cuộc đấu tranh chống lại bọn giặc ngoại xâm
cướp nước và bè lũ tay sai bán nước cầu vinh bảo vệ non sông gấm vóc hùng
vĩ này. Cuộc chiến đấu của cha ông ta đã giành được nhiều chiến công vang
dội lẫy lừng chấn động địa cầu đẩy lùi bọn giặc cướp nước ra khỏi lãnh thổ
với những tên tuổi lừng danh đã ghi vào sổ sách như: Hai Bà Trưng, Ngô
Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Toản…mang lại sự hạnh phúc, ấm no,
yên bình cho dân tộc ta ngày nay. Đó là một quá trình rèn luyện, hun đúc, tôi
luyện nên những thế hệ người Việt Nam anh hùng giàu lòng yêu nước, sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, giàu lòng nhân ái, yêu thương con người, có
tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn, lá lành đùm lá rách…. Những đức
tính đó đã trở thành truyền thống tốt đẹp mà hàng ngàn đời nay những thế hệ
con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ, phát huy, truyền bá ra bên ngoài
cho các bạn bè quốc tế năm châu và các thế hệ con cháu sau này hiểu rõ về
con người Việt Nam anh hùng buất khuất. Những giá trị tốt đẹp đó có tác
dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, đồng thời tạo ra sức mạnh cho con
người Việt Nam vượt qua những khó khăn, vất vả trong cuộc sống để hoàn
thiện nhân cách và đóng góp cho xã hội một lối sống lành mạnh, văn minh
lịch sự.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống đạo đức từ hàng nghìn
năm nay, đó là một truyền thống rất nhân văn và đáng tự hào, điều đó thể hiện
bản chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Tuy con người Việt Nam đã trải qua
biết bao biến cố thâm trầm nhưng vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống
đạo đức cho dân tộc mình. Và những nét đẹp truyền thống ấy được kết tinh
trong hình ảnh của một con người vĩ đại, một danh nhân văn hóa thế giới, một
anh hùng giải phóng dân tộc, một biểu tượng và là một vị cha già kính yêu
của cả một dân tộc anh hùng – lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời học
tập, chiến đấu, hoạt động cách mạng của mình Bác luôn nêu lên một tấm
gương sáng trong việc nâng niu, gìn giữ, phát huy những gì mà ông cha ta đã
để lại. Bác Hồ luôn biết cách chọn lọc những gì tốt cho dân tộc mình, Bác gạt
bỏ mọi thứ xấu, mọi nhân tố tiêu cực của quá khứ mà ông cha ta đã phạm

phải, đồng thời giữ lại và phát huy những tinh hoa của dân tộc và nhân loại
trong mọi lĩnh vực đời sống. Vì vậy mà những tư tưởng đạo đức của Người đã
gắn liền với thực tiễn chiến đấu, lao động, tu dưỡng học tập của nhân dân ta,
trở thành nền tảng đạo đức của xã hội. Ngày nay, tư tưởng đạo đức của Người
là di sản vô cùng quý giá đã và đang trở thành động lực tinh thần cho toàn
Đảng, toàn dân trong sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) tên thật là Nguyễn Sinh Cung sau đổi thành
Nguyễn Tất Thành. Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống
yêu nước. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929), cụ Sắc là con của một
gia đình nông dân nghèo chất phác. Từ nhỏ cụ Sắc đã mồ côi cha mẹ nên phải
chịu vất vả lao động kiếm sống và có ý thức học hành. Cụ Sắc từng tham dự
kỳ thi Hương và đã đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An (1894), ông cử Sắc đã
tiếp tục tham dự các kỳ thi Hội của triều đình nhưng không đỗ, đến kỳ thi Hội
lần thứ ba ông mới đỗ Phó Bảng (1901). Sau khi đỗ Phó Bảng, bị triều đình
phong kiến thúc ép nhiều lần buộc Cụ phải ra làm quan, nhưng Cụ đã bất hợp
tác với bọn tay sai đế quốc. Cụ Sắc thường nói: “Quan trường thị nô lệ trung
chi thị nô lệ, hựu nô lệ’’ (nghĩa là: Quan trường là nô lệ trong trong những
người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Vốn có lòng yêu nước, thương người, khẳng
khái, Cụ thường chống lại bọn quan trường và thực dân Pháp xâm lược. Vì
vậy, sau một thời gian rất ngắn làm quan Cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam
Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua
đời (1929). Với phẩm chất liêm khiết của một nhà nho, trong cuộc sống cụ
Sắc luôn dạy dỗ con cái của mình phải luôn có ý thức lao động, học tập để
hiểu rõ “đạo lý làm người’’. Thân mẫu của Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị
Loan (1868 – 1901), là một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, yêu chồng
thương con hết mực, chịu khó lao động, bà làm ruộng và dệt vải để nuôi dạy
con cái. Bằng cả tấm lòng yêu chồng thương con bà Hoàng Thị Loan đã hy
sinh cả cuộc đời mình vì chồng, vì con và chính bà đã vun đắp cuộc đời và sự
nghiệp đẹp đẽ cho cả một gia đình anh hùng. Nhưng vì cuộc sống khó khăn,

nghèo khổ, lao động vất vả, quá sức nên bà đã qua đời vào ngày 10/2/1901 tại
Kinh thành Huế ở tuổi 33. Chị cả của Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh
(1884 – 1954 )còn gọi là Bạch Liên và anh trai của Người là Nguyễn Sinh
Khiêm tức Nguyễn Tất Đạt (1888 – 1950). Cả hai người đều có chí hướng
tiến bộ, yêu nước, thương người và tích cực tham gia các phong trào chống
thực dân Pháp, đã nhiều lần bị thực dân Pháp kết án tù đày. Nhờ sự giáo dục
của gia đình cả bà Thanh và ông Khiêm đều không màng danh lợi, hy sinh cả
cuộc đời cho sự nghiệp cứu dân phục quốc trở thành tấm gương sáng đáng
kính cho nhân dân về sự cao cả, nghĩa khí và lòng vị tha.
Gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một gia đình nhà nho yêu nước,
thương người, cả cuộc đời đều hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, phát huy
những tinh hoa văn hóa, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Góp một
phần không nhỏ hun đúc nên một con người vĩ đại như Hồ Chí Minh.
Nghệ An là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử – văn hóa gắn liền với những
tên tuổi chiến công của các bậc anh hùng dân tộc, nêu cao chí khí chống giặc
ngoại xâm từ bao đời nay. Cũng chính nơi đây đã sinh ra người anh hùng dân
tộc vĩ đại như Hồ Chí Minh. Tuy quê hương của Người thường xuyên phải
chèo chống với thiên tai khắc nghiệt, quanh năm khô cằn, mưa lũ, mất mùa
thường xuyên, cuộc sống vất vả, lam lũ đã in sâu trong tiềm thức người dân.
Nhưng đây vẫn là một miền quê giàu cảnh sắc, với một nền văn hóa dân gian
đa dạng và phong phú. Trải qua biết bao biến cố, thâm trầm của lịch sử,
truyền thống văn hóa đặc sắc ở nơi đây vẫn không ngừng tỏa sáng, tự hào.
Nơi đây Bác đã sống những năm tháng tuổi thơ và chứng kiến những buổi
bình văn hay luận thời cuộc giữa thân phụ Người với bạn bè như nhà ái quốc
Phan Bội Châu, nhà nho Vương Thúc Quý. Quê hương Nghệ An đã tạo ra
những tiền đề cho một tư tưởng lớn trong Hồ Chí Minh.
1.1.2. Tinh hoa đạo đức nhân loại
“Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những
hiểu biết quý của các đời trước để lại’’ [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.46], đó là câu nói của V.I.Lênin – một nhà cộng

sản vĩ đại của nhân loại, nói về những người cách mạng chân chính thực sự,
mà Hồ Chí Minh là một trong những người cách mạng chân chính đó. Hồ Chí
Minh mang trong mình dòng máu và văn hóa phương Đông nhưng Người còn
tiếp thu, gạn gọc, tìm tòi những cái hay, cái đẹp của văn hóa phương Tây để
phục vụ cho sự nghiệp cứu nước của mình. Ba mươi năm bôn ba tìm đường
cứu nước Người đã trải qua biết bao sống gió, cực khổ để tìm ra một con
đường cứu nước đúng đắn và xác thực nhất cho dân tộc ta. Khi ra nước ngoài
Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng những tinh hoa văn hóa
của nhân loại. Lúc đấu tranh Hồ Chí Minh có thể viết văn Anh, văn Pháp sắc
sảo như một nhà báo người Anh, Pháp và các nhà báo phương Tây thực thụ,
nhưng khi có nhu cầu “tự bạch’’ thì Người lại làm thơ chữ Hán. Chính điều đó
làm nên nét đặc sắc ở con người Hồ Chí Minh, một con người tượng trưng
cho sự kết hợp hài hòa, nhuần nhiễn giữa hai nền văn hóa lớn của thế giới –
nền văn hóa Đông – Tây.
Ở phương Đông, Người đã tiếp thu những tư tưởng của Nho giáo, Phật
giáo và một số tư tưởng tiến bộ khác. Đầu tiên về Nho giáo, trong các tác
phẩm của mình Hồ Chí Minh sử dụng khá nhiều mệnh đề của Nho giáo và
đưa vào đó những nội dung và ý nghĩa mới. Nho giáo nói chung, Khổng giáo
nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động,
tư tưởng nhập thế hành đạo, gúp đời đó là tư tưởng về một xã hội bình trị tức
là ước vọng về một xã hội an ninh, hòa mục, một “thế giới đại đồng’’; là triết
lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính, chủ trương từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng
phải lấy tu thân làm gốc. Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra
truyền thống hiếu học trong nhân dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với
học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Nho giáo cũng có những mặt tiêu cực như: bảo
vệ chế độ phong kiến, tư tưởng đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam
khinh nữ, khinh lao động chân tay chỉ đề cao nghề đọc sách, khinh thường sự
nghiệp danh lợi…mà Hồ Chí Minh đã phê phán, bác bỏ. Hồ Chí Minh đã khai
thác những yếu tố tích cực, đồng thời phê phán, bác bỏ những yếu tố tiêu cực
để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng của mình. Phật giáo vào Việt Nam từ rất

sớm. Ngay khi Nho giáo đã trở thành quốc giáo, Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng
rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt Nam từ tư
tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục tập quán, lối sống,…. Phật giáo có
tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, bình đẳng, dân chủ hơn so với Nho giáo. Phật
giáo cũng đề cao nếp sống đạo đức trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng
lao động. Nói Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống của dân
tộc ta là đã bao hàm trong đó có ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo. Phật giáo
là một tôn giáo nên không tránh khỏi những mặt tiêu cực trong đời sống nhân
dân. Nhưng những mặt tích cực đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc trong tâm
thức, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam. Phật giáo vào Việt
Nam gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm
của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, chủ trương
không xa rời đời sống gắn bó với nhân dân, với đất nước tham gia vào cộng
đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kể thù xâm lược. Gia đình Hồ
Chí Minh là gia đình nhà nho yêu nước, thương dân, gần gũi với nhân dân lao
động, cũng đã thấm nhuần tinh thần đó và đã để lại những dấu ấn sây sắc
trong tư tưởng của Người. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn tìm hiểu về tư tưởng
dân chủ tiến bộ như “Chủ nghĩa Tam dân’’ của Tôn Trung Sơn và tìm thấy
trong đó những điều thích hợp cho điều kiện của cách mạng nước ta. Hồ Chí
Minh là nhà mácxit tỉnh táo và sáng suốt, Người đã biết khai thác những yếu
tố tích cực và gạt bỏ đi những nhân tố tiêu cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đông nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Những
tinh hoa văn hóa phương Đông đã hội tụ lại thành tri thức quý báu cho sự phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và có ý nghĩa quan trọng với con đường cách
mạng Việt Nam.
Những năm tháng bôn ba, hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí
Minh chủ yếu sống ở châu Âu nên người cũng chịu nhiều ảnh hưởng rất nhiều
của nền văn hóa và cách mạng của phương Tây như: tư tưởng tự do, bình
đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp
năm 1791, tư tưởng dân chủ về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh

phúc trong tuyên ngôn đọc lập của Mỹ năm 1776. Hồ Chí Minh đã đến với
quê hương của những lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái Người được tiếp xúc
trực tiếp với những tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng như: Tinh thần
pháp luật của Môngtétxkiơ, Khế ước xã hội của Rutsxô, v.v tư tưởng dân chủ
của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngoài ra, ước
mơ vương tới xã hội cao đẹp, con nguời hoàn thiện với cuộc sống hạnh phúc
như Chúa Giêsu mong muốn, chúng ta cũng thường thấy trong tâm tư, nguyện
vọng và hành vi của Hồ Chí Minh, Người còn tiếp thu lòng nhân ái của thiên
chúa giáo. Nhưng theo Người, chả lẽ con người thực hiện được ước mơ hòa
bình, hạnh phúc đó bằng những lời cầu nguyện.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu
dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và tri thức tiến bộ Pháp như M. Casanh,
P.V. Cutuyariê, G. Môngmútxô… Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành.
Con người ấy, trên hành trình cứu nước, đã biết làm giàu trí tuệ của mình
bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thu hái vừa gạn lọc để có thể
từ tầm của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát huy.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đạo đức
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không những bắt nguồn từ truyền thống
đạo đức của dân tộc Việt Nam, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức phương
Đông, những tinh hoa đạo đức của nhân loại; mà đặc biệt quan trọng là những
tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như những tấm gương đạo
đức trong sáng của các ông ấy đã làm tiền đề trong tư tưởng của Người. Điều
này đã được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người sau khi
Lênin mất: Lênin là người “đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự
giản dị vĩ đại và sự khiêm tốn cao độ”. “Không phải chỉ sự thiên tài của
Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người
thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim họ
hướng về Người, không gì ngăn cản nổi” [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.295]. Đây không phải chỉ là tình cảm của Hồ
Chí Minh và dân tộc Việt Nam, mà còn là tình cảm của tất cả các dân tộc
thuộc địa đối với Lênin vĩ đại.
Việc gặp và thấy ở “Luận cương về những vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” của Lênin con đường giải phóng dân tộc, giải phóng những người
lao động bị áp bức bóc lột là bước ngoặt quyết định trong sự phát triển tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó chuẩn bị tiền đề cho bước nhảy vọt về
chất trong tư tưởng của Người tại Đại hội Tua. Chính trong Đại hội Tua,
ngoài việc tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp, Hồ Chí Minh còn đề cập tới
nhiệm vụ của Đảng Xã hội Pháp đối với các thuộc địa của Pháp, đòi phải
tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa,đòi Đảng Xã hội
phải đánh giá đúng tầm quan trọng của các nước thuộc địa. Người bỏ phiếu
tán thành gia nhập Quốc tế III, và chính thức trở thành người đảng viên cộng
sản. Sự kiện trọng đại này đã đánh dấu bước nhảy vọt quyết định về chất
trong tư tưởng Chủ tịch Hồ chí Minh, đó là từ tư tưởng nhân đạo truyền thống
trở thành một nhà nhân đạo cộng sản và chính thức bước theo con đường của
Lênin. Bước nhảy vọt đó cũng là bước nhảy vọt tất yếu vì như đồng chí Lê
Duẩn đã chỉ rõ: “nếu có tư tưởng dân tộc chân chính thì lúc đó phải đi theo
con đường vô sản để giải phóng dân tộc, và người tiêu biểu nhất của tư tưởng
đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Theo Mác và Ăngghen, con người khi sống phải có “quan hệ song
trùng”. Một mặt con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để
thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của mình. Mặt khác khi tác động vào tự nhiên
con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người để tác
động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người với người là hệ quả của
hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và
hoạt động nhận thức. Như vậy, đạo đức không phải là sự biểu hiện của một
sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người, không
phải là sự biểu hiện của những năng lực “siêu nhiên”, nhất thành bất biến của
con người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của

những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế xã hội.
Ăngghen đã nhận xét: “Xét cho tới cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế lúc bấy giờ”. Sự phát
triển từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý thức đạo đức của xã
hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt đọng thực
tiễn và hoạt động nhận thức của con người.
Những hình thái kinh tế xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những cơ sở
kinh tế – xã hội và tinh thần cho sự phát triển của ý thức đạo đức. Những hệ
thống đạo đức của giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy: “những
quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho
vị trí giai cấp của mình”. Những hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh
những quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp. Trong xã hội phân chia
thành giai cấp, đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình thái ý thức xã hội,
là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Hình thái kinh tế xã hội có giai cấp
là một bước tiến của lịch sử nhân loại, làm cho đạo đức cũng phát triển so với
xã hội nguyên thủy. Tuy nhiên, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những
cái ác, tham lam, ích kỷ, lừa dối… mà loài người sau này phải đấu tranh hàng
ngàn năm nay để chống lại nó.
Về mặt hình thức, đạo đức của xã hội văn minh đã phát triển vượt bậc do
nhận thức của con người vượt khác tư duy cụ thể, chuyển sang xây dựng lý
luận…. Nội dung đạo đức được thể hiển dưới hình thức kinh nghiệm, khái
niệm, lý tưởng, chuẩn mực và đánh giá đạo đức, do đó đạo đức càng ngày
càng phát triển về cấu trúc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là
từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu
tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển.
Cùng các quan hệ xã hội, hệ thống các luân hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành
vi đạo đức cũng theo đó mà càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú
đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là

sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ
giữa người – người, cá nhân – xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa, và hiệu
quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người
càng có đạo đức. Đạo đức cũng như ý thức đã là một sản phẩm xã hội và vẫn
là như vậy chừng nào con người còn tồn tại.
Mác và Ăngghen đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức mang
tính chất tôn giáo. Trong luận án tiến sĩ, ở phần Đạo đức học của Epiquya,
Mác ca ngợi chủ nghĩa vô thần ở nhà triết học cổ đại này. Công lao ở Epiquya
là ở chỗ ông khẳng định cái thiện không phải bắt nguồn từ thế giới bên kia mà
là sản phẩm của trái đất, của xã hội loài người. Tuy nhiên, Mác cũng đã phê
phán khuyết điểm của Epiquya là đã tuyên truyền cho một thứ đạo đức thoát
ly hiện thực xã hội.
Lênin đặc biệt phê phán thứ đạo đức tôn giáo: “đối với những ai suốt đời
vẫn lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo
tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian bằng cách
làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đàng. Còn đối với những kẻ
sống bằng lao động của người khác, tôn giáo dạy họ hãy làm điều thiện ở thế
gian, biện hộ một cách rất rẻ tiền cho toàn bộ cuộc đời bóc lột quần chúng và
bán rẻ cho chúng những tấm thẻ lên thiên đàng của những người hạnh phúc.
Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân làm cho những người nô lệ tư bản mất
hết phẩm cách con người và quên mất những điều họ đòi hỏi để sống một
cuộc đời đôi chút xứng đáng với con người”. Lênin cũng phê phán mọi thứ
đạo đức duy tâm khác, những thứ đạo đức không xuất phát từ lợi ích cách
mạng của giai cấp công nhân , không phản ánh được nhu cầu phát triển của
lịch sử. Đó là những thứ đạo đức chủ quan được ghán ghép một cách tùy tiện
vào đời sống xã hội. Ông đã đấu tranh chống lại các quan điểm phản động
duy tâm và những quan điểm hư vô chủ nghĩa từ bỏ việc kế thừa di sản đạo
đức của quá khứ hoặc duy vật tầm thường phủ nhận vai trò của đạo đức chỉ đề
cao vai trò của kinh tế. Ông luôn nhấn mạnh rằng giá trị đạo đức là ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội, cho hạnh phúc con người.

Đạo đức học Mác – Lênin đã khẳng định rằng đạo đức là sản phẩm của
tồn tai xã hội, nẩy sinh từ thực tiễn cuộc sống, từ lao động và đấu tranh của xã
hội loài người. Bằng chức năng riêng của nó, đạo đức giúp con người hoàn
thành những nhiệm vụ cụ thể mà lịch sử đã giao phó, góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển của xã hội. Lênin đã nói: “đạo đức giúp xã hội loài người tiến
xa hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động”. Đó là cái mục đích thực sự và tối
cao của đạo đức. Ý kiến của Lênin đã bác bỏ hoàn toàn mọi thứ đạo đức của
giai cấp bóc lột, thứ đạo đức chỉ nhằm ru ngủ các tầng lớp nhân dân lao động,
duy trì ách áp bức bóc lột đối với họ vì quyền lợi ích kỷ chung. Đồng thời
Lênin cũng chỉ rõ tính chất các mạng tiến bộ, tích cực của một nền đạo đức
mới, đạo đức vô sản. Người nói: “động chung quanh giai cấp vô sản đang
sáng tạo ra xã hội mới của Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội
cũ của bọn bóc lọt và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động những
người cộng sản”.
Chính cũng với quan điểm đó của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu
của chúng ta đã khẳng định cái mục đích thực sự của nền đạo đức mà chúng
ta đang ra sức xây dựng: “Nó không phải là vì danh vọng của cá nhân mà là
vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. [Hồ Chí Minh Về
đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.35]
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin như là ánh sáng kỳ diệu cho tư tưởng và
hành động nhằm thực hiện chủ nghĩa nhân đạo của mình, Hồ Chí Minh không
bắt chước nguyên xi, lệ thuộc. Cái cốt lõi của thế giới quan duy vật, phương
pháp luận khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa mácxit – lêninnit
thâm nhập vào Hồ Chí Minh, chúng trở thành một tổ hợp tư tưởng Mác –
Lênin – Hồ Chí Minh và không dừng lại ở đó, chúng được thăng hoa, biến
hóa tài tình thành một loại tư tưởng riêng, hòa quyện sinh khí lý luận với cuộc
sống – tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, sức mạnh của đạo đức
Đạo đức nẩy sinh từ hoạt động thực tiễn của con người, là điều kiện

không thể thiếu được của hoạt động đó. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tới
đạo đức là nói tới những phẩm chất của hoạt động, của con người trong hoạt
động, coi đó như những điều kiện tinh thần cần thiết để đưa hoạt động đến kết
quả cuối cùng. Trong mỗi con người, Bác cũng huy động cả sức mạnh vật
chất lẫn sức mạnh tinh thần cho sự nghiệp cách mạng. Lênni nói: Đạo đức
cộng sản, “đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp
phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang
sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [V.I.Lênin toàn tập,Nxb
Tiến bộ, Matxcơva, 1977, t.41, tr.369]. Khẳng định sức mạnh của đạo đức Bác
nói: “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải
có đạo đức làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang” .[Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11,
tr.601]. “Hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng” đó là cái đích mà đạo đức
mới phải hướng tới, thông qua hoạt động thực tiễn của mỗi con người.
Đạo đức cách mạng là một động lực tinh thần không thể thiếu được của
người cách mạng. Trong những hoàn cảnh nhất định, người cộng sản, người
cách mạng chiến đấu chủ yếu bằng động lực tinh thần ấy. Nhờ có đạo đức
cách mạng “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” mà nhân dân ta với vũ khí thô sơ và
thiếu thốn dám quyết chiến và đã chiến thắng những tên đế quốc hùng mạnh
giàu có hơn ta gấp nhiều lần. Đạo đức cách mạng có sức mạnh cảm hóa, lôi
cuốn lòng người, từ đó mà lôi cuốn được quần chúng nhân dân hăng hái góp
phần vào sự nghiệp cách mạng. Đạo đức cách mạng còn thể hiện sức mạnh
trong cải tạo con người, đó là vũ khí để chiến thắng những thói hư tật xấu,
những tiêu cực, những “kẻ nội xâm” trong mỗi con người. Như Bác nói: “có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước…”. Bác lại nói: “có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận
lợi và thành công cũng giữ vững được tinh thần gian khổ, chất phác khiêm
tốn “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không
kiêu ngạo, không hủ hóa”. [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2011, t.11, tr.602-603]
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cương vị một nhà lãnh đạo cách mạng, bàn
nhiều tới đạo đức và thường xuyên quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cho
mọi người cũng là để với những phẩm chất đạo đức cách mạng tạo nên một
sức mạnh, một động lực trong lao động sản xuất, trong đấu tranh cách mạng,
hoàn thành được nhiệm vụ mà lịch sử đã trao cho dân tộc ta. Trong khi giáo
dục cho chúng ta Người luôn xác định được những chuẩn mực đạo đức cụ thể,
thiết thực, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, với từng loại hoạt động, với
từng nghành, từng giới, từng lứa tuổi. Tuy nhiên, những điều cụ thể, thiết
thực, tưởng chừng như đơn giản ấy lại thể hiện những nguyên tắc đạo đức cơ
bản của nền đạo đức mới. Bởi vậy trong lao động sản xuất cũng như trong
chiến đấu chống kẻ thù, từ các cụ phụ lão đến các cháu thiếu niên nhi đồng, từ
những người nông dân, công nhân, cho đến những nhà trí thức, nam cũng như
nữ, ai ai cũng nhận được ở Người những lời dạy bảo sát với nhiệm vụ của
mình.
Hồ Chí Minh coi đạo đức như là cái gốc của người cách mạng, cũng như
cây phải có gốc, nước phải có nguồn. Người viết: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đức thì dù giỏi
đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân
tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?”[Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5,
tr.292-293]. Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ
Chí Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm về
đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng
cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên
của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách mạng thì mặt trái của quyền lực có
thể làm tha hóa con người. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo
đức, là văn minh”. Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng Sản

phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm cho dân tộc mình và của thời
đại. Nếu xét đến cùng thì văn minh là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết
đúng đắn về chủ nghĩa Mác – Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại,
thực tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Còn đạo
đức chính là những phẩm chất đòi con người cần phải có để tham gia vào
cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến nhiều
nhất có thể cho cuộc đấu tranh đó.
Vai trò đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ là thước đo lòng cao
thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi con người có
công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạnh đều là người cao thượng. Đạo đức
cũng là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là lý tưởng cao xa, ở mức sống
vật chất dồi dào, ở tư tưởng tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị
đạo đức tốt đẹp, ở phẩm chất của người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống
và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng trở thành hiện thực.
Không chỉ vì quá đề cao tính đạo đức mà Hồ Chí Minh đã quên mất đi
cái tài của một con người. Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau,
cũng như phẩm chất và năng lực phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này
thiếu mặt kia. Như Người đã từng phân tích, người nào có đức mà không có
tài thì cũng chẵng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng
cũng không giúp ích được gì cho đời. Ngược lại, nếu có tài mà không có đức,
thì cũng chẳng gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng
phí, tham ô, ăn cấp của công, thì như vậy chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự
nghiệp thì sớm muộn cũng sẽ đổ vỡ. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng
cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức không vươn lên thì đối với những ai có
tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên
trước. Ý nghĩa của “đức là gốc” là ở chỗ đó.

1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức
cách mạng cơ bản
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sáng rực, cao đẹp, hoàn thiện nhất của
đạo đức cách mạng. Chúng ta quan niệm đạo đức cách mạng theo ý nghĩa và
nội dung sâu rộng nhất, bao hàm cả tâm hồn, trí tuệ và hoạt động thực tiễn,
nghị lực chiến đấu và tinh thần hy sinh của một vĩ nhân thiên tài hiến dâng cả
cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại, là phẩm chất,
bản lĩnh, là tinh hoa, là tổng thể của tư duy khoa học cao siêu, cộng với một
tâm hồn nồng nhiệt và một sức mạnh xung thiên, vào sinh ra tử, vượt qua biết
bao bão tác phong ba trên hai lục địa Á – Âu suốt trong nửa thế kỉ XX, kết
tinh ở Người những giá trị ưu việt, tiên tiến của mấy nghìn năm đấu tranh
buất khuất của nhân nghĩa chống bạo tàn, chống áp bức, bóc lột và bất công
của văn minh chống dã man.
Người đã phân biệt những mặt tốt với những mặt xấu, những mặt thiện
với những mặt ác trong động cơ cũng như trong hành vi của con người, trong
mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp và đa dạng, để làm rõ những phẩm chất
đạo đức cần phải xây dựng. Người làm công việc ấy rất thường xuyên, gần
như một người làm vườn cần mẫn, hằng ngày bắt sâu, nhổ cỏ, tỉa cành, vun
xới cho những mầm cây. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm
chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn
mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm
vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành
những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại
mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức mới,
đạo đức cách mạng Việt Nam.
•Trung với nước, hiếu với dân
Trước tiên ta nói về lòng trung thành với Tổ quốc, cái chữ “hiếu” đối với
nhân dân của một con người. Về quan hệ đạo đức thì mối quan hệ của mỗi
người đối với đất nước, với nhân dân, dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất.
Cái đó được thể hiện trong phẩm chất đạo đức “trung với nước, hiếu với dân”

mà Hồ Chí Minh đã đề cập tới.
Theo quan niệm của đạo đức cũ “chữ trung”, “chữ hiếu” chỉ được hiểu
trong một giới hạn hẹp: trung có nghĩa là trung quân, là trung thành với vua;
trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua là nước,
nước là nước của vua. Còn chữ hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là
con thì phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ, vì cha mẹ là những người đã sinh
ra ta. Nhưng trong đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm đạo đức
cũ một nội dung mới mang tính chất cách mạng, đó là “trung với nước, hiếu
với dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trong
tư tưởng đạo đức mới này, Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ
nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc ta, mà còn vượt qua những hạn chế
của những giá trị truyền thống đó.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
Nước ở đây là nước của dân, còn dân là chủ nhân của đất nước. Khi Hồ Chí
Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều
vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Nhà
nước là “đày tớ của nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu
cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với
trước. Người từng nói: “Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy
sinh về độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [Hồ
Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.619]. Câu
nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị -
đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Hiếu với dân là thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Muốn
vậy phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân
làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Người yêu cầu phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí,
để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người làm chủ đất nước,
quyền thì hưởng trách nhiệm thì phải làm tròn. Người cách mạng muốn có

được sức mạnh to lớn của đông đảo quần chúng nhân dân lao động thì nhất
thiết phải có phẩm chất đạo đức này, lúc đó thì dân mới tin, mới yêu, mới
kính trọng.
•Yêu thương con người
Con người ai ai cũng có một tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người
tiềm ẩn trong sâu thẩm của mỗi người. Tình yêu thương ấy được Hồ Chí
Minh xem là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của con người
Việt Nam. Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho
những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu
thương đó đã được thể hiện Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc là làm cho
nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành. Như người đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học
hành” [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15,
tr.627]. Theo Người, tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung
chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết
trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp
bức, đau khổ.
Tình yêu thương con người thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí,
và mọi người trong sinh hoạt thường ngày. Tình cảm này đòi hỏi mỗi người
phải luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi độ lượng với người khác,
phải có thấy độ tôn trọng con người, phải biết nâng con người lên, chứ không
phải hạ thấp con người, càng không phải vùi dập con người. Theo Hồ Chí
Minh, tình yêu thương con người còn được thể hiện đối với những người có
khuyết điểm, sai phạm nhưng họ biết nhận ra rõ những khuyết điểm sai phạm
ấy và cố gắng sửa chữa; đối với những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể
cả đối với kẻ thù đã bị bắt và chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã
đánh thức những gì tốt đẹp nhất mà mỗi người đều có, tuy nhiều ít khác nhau.
Đối với những người đảng viên, cán bộ Người căn dặn Đảng phải có tình

đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đây chính là điều nhắc nhở đảng viên, cán bộ
phải luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Tình yêu thương ấy
phải dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành nhất,
nghiêm túc với những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự
nghiệp chung. Nó hoàn toàn xa lạ với những thái độ dĩ hòa vi quý, bao che sai
lầm khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu,
bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho Đảng, cho Nhà nước và cho
nhân dân.
Tư tưởng yêu thương con người của Hồ Chí Minh nêu lên và vận động
mọi người cùng thực hiện suốt cả cuộc đời. Cho tới lúc khi đi xa, trong lời
Duy chúc khi để lại: “muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho
toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”, và “gửi lời chào thân
ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”
[Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.613].
Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng phải tiếp tục chăm lo cho con người.
Trước hết là những người hy sinh một phần xương máu cho công cuộc kháng
chiến, là cha mẹ vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông dân, là thanh niên,
phụ nữ lo cho hiện tại, lo đào tạo cho tương lai. Ngay cả “với những nạn
nhân của chế độ cũ như: trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu thì Nhà nước
phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở thành người
lương thiện”.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la
rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người.
•Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh từng nói: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có
bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm,
Chính. Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành
đất, thiếu một đức thì không thành người” [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.6, tr.117]. Câu nói đó của Người nói lên
một con người khi sống trên cõi đời này thì nhất thiết phải có những đức tính

này, nếu như một người mà không có hoặc thiếu một trong những đức tính
trên thì không phải là một người chân chính, họ sẽ trở thành những người xấu,
gây hại cho xã hội, cho nhân dân.
Hồ Chí Minh đã dùng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã
giữ lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ và lọc bỏ đi những gì không còn
phù hợp, đồng thời đưa vào những nội dung mới, do sự nghiệp giải phóng dân
tộc thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi chữ cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư được Người giải thích rất rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu
đối với tất cả mọi người.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất lao động cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ kại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không
hoang phí, không phô trương hình thức ”. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn,
nhưng phải kiên quyết chống xa xỉ.
Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân,
“không xâm phạm đến một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân’’.
Không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc
mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa.
Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối
trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, đối với việc thì
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ thì quyết
làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dùnhỏ mấy cũng
tránh”. Mỗi ngày cố gắng làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ
quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết.

Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Người nói: “Đem lòng chí công
vô tư mà đối với nguời, với việc” [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.217]. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”. “Phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ” (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạ). [Hồ Chí
Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.67]
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Hồ
Chí Minh coi cần kiệm như hai chân của con người, hai đức tính này phải đi
đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”,
“như nước đổ vào một cái thùng không đáy”. “Làm chừng nào xào chừng
đấy” ruốt cuộc “không lại hoàn không”. Còn kiệm mà không cần thì sản xuất
được ít , không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng
vì nước, vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính và có được nhiều tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm
sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm.
Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”.
[sđd, tr.251]
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, liệm, liêm, chín
là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm
việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân
dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Nhưng đây lại là một vấn đề rất phức tạp, nói dễ làm khó, và trong cuộc
sống vẫn thường hay vi phạm. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá
nhân, tập trung nhất là chức, quyền, danh, lợi, mà nếu không vượt qua được
chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức
làm hại nước hại dân.
•Tinh thần quốc tế trong sáng

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân và của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả
các dân tộc, nhân dân các nước, chống lại sự hận thù, bất bình đẳng dân tộc và
sự phân biệt chủng tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: bốn phương vô sản đều là
anh em, giúp bạn là giúp mình, thắng lợi của mình là thắng lợi của nhân dân
thế giới.
Theo Hồ chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế
không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa hẹp hòi, sôvanh, biệt lập, kỳ thị
chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bằng trướng bá quyền, như thế giới thường nói
hiện nay. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến chỗ phá vỡ
cả một quốc gia dân tộc hay một liên bang da quốc gia dân tộc, phá vỡ tinh
đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình
trạng đối đầu, đối địch.
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vao mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Không
phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có
hay không, trong sáng hay không trong sáng, nhưng việc giáo dục của Đảng
và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi
nhẹ. Trong những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý nghĩa
định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế cho mỗi người.
Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn, có hiệu quả sây đắp tình đoàn kết quốc
tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo
một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.
1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc xây dựng đạo đức
Trong cuộc sống đời thường chắc chắn ai ai cũng không thể tránh khỏi
những sai lầm, mà đặc biệt là những sai lầm của người cách mạng có thể sẽ
làm cho nhiều người mất mạng, làm cho gia đình phải tan nát, và cũng có thể

khiến cho một quốc gia, một dân tộc bị đỗ vỡ. Biết được điều đó Hồ Chí Minh
đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để xây dựng và thực hành nền đạo đức
mới trong xã hội để mỗi người học tập và rèn luyện.
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản
thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất. Hơn
nữa, chúng ta còn thấy Người nói ít nhưng làm nhiều, có khi Người làm
nhưng không nói. Người là một tấm gương đạo đức sáng cho mỗi người noi
theo.
Đối với mỗi người , lời nói phải đi dôi với việc làm thì mới đem lại hiệu
quả thiết thực nhất cho mình và cho người khác. Nếu nói nhiều làm ít, nói mà
không làm, hơn nữa là nói một dằng làm một nẻo thì chỉ đem lại những hậu
quả phản tác dụng. “Hãy làm theo tôi nói đừng làm theo tôi làm”, thứ đạo đức
giả ấy là đặc trưng của một giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của
xã hội loài người, trong mỗi dân tộc; nó hoàn toàn xa lạ với đạo đức cách
mạng, nền đạo đức mới mà chúng ta cần xây dựng. Chúng ta phải phấn đấu để
làm sao trong xã hội không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép
những kẻ đạo đức giả ấy đi dạy dỗ người khác về đạo đức.
Nêu gương đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương
Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí
Minh đã có lần chỉ rõ: “Nói rõ chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu
tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn và tuyên truyền” [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, t.1, tr.284]. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã tạo các thế hệ cán bộ
cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong, mà còn
bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
Trong xã hội , tấm gương đạo đức của thế hệ trước đối với thế hệ sau là
đặc biệt quan trọng. Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ
trước bao giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề đối với thế hệ sau trong việc
giáo dục, dồi dưỡng đạo đức trong gia đình, cha mẹ là tấm gương của con cái,

anh chị đối với em; trong nhà trường là tấm gương của thầy cô đối với học
sinh; còn trong tổ chức, tập thể, Đảng và Nhà nước là tấm gương của những
người phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; của người này đối
với người khác, những gương “người tốt việc tốt” mà Hồ Chí Minh đã phát
hiện để mọi người noi theo.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái
nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo
đức hàng ngày của toàn xã hội, mà những tấm gương đạo đức của những
người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.
Thứ hai, xây đi đôi với chống.
Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt – xấu, đúng – sai, đạo
đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi
của những con người khác nhau, thậm chí còn ở bên trong mỗi con người. Vì
vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản, xây
phải đi dôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành
bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc
giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,
phù hợp với từng lứa tuổi, nghành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi
trường khác nhau; phải khơi dậy được đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng. Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nấy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất đi, đó là thái độ của người cách mạng” [Hồ Chí Minh Toàn tập,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.672]. Bản thân tự giác cũng là
một phẩm chất cao quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức mà trước hết là
Đảng.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái ác, cái xấu, cái vô đạo đức
trong đời sống hằng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến
bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể xây dựng thành công trên cở sở kiên

trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc
hậu, loại bỏ chủ nghĩa cá nhân. Để dành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu
này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình
thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch
về đạo đức.
Thứ ba, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người.
Hồ Chí Minh nhắc đến luận điểm của Khổng Tử “chính tâm, tu thân ”
và chỉ rõ “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian
khổ, vì đó là cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng
mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con
người mới không phải là một công việc dễ dàng Dù khó khăn gian khổ
nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công”. [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.300]
Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua
hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải
nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cải thiện
của mình để phát huy và thấy rõ cái dỡ, cái xấu, cái ác của mình để khắc
phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng
ngày. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “đạo đức cách mạng
không phải sống trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển vè củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”. [Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, t.11, tr.612]
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi
lĩnh vực thực tiễn, trong đời tư cũng như đời công – sinh hoạt, học tập, lao
động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến
lớn – gia đình, nhà trường, xã hội; từ mối quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em
đến quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân, và cả

trong các mối quan hệ quốc tế. Trong cuộc sống, mỗi con người có nhiều
cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình,
và phẩm chất đạo đức của mỗi con người được thể hiện rất cụ thể, phong phú,
đa dạng. Có rèn luyện công phu như vậy, con người mới có được phẩm chất
đạo đức tốt đẹp, và những phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp nâng cao.
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SÔNG CHO THANH
NIÊN HIỆN NAY.
2.1. Thực trạng về đạo đức, lối sống của thanh niên hiện nay.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lưc của sự phát triển xã hội. Riêng thế
hệ trẻ luôn được coi là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc, là người chủ tương lai của đất nước và là niềm hạnh phúc của mỗi
gia đình. Hiện nay ở nước ta, thanh niên chiếm khoảng 35% dân số, mà bộ
phận chủ yếu trong thanh niên là học sinh và sinh viên. Thanh niên ngày nay
có điểm mạnh so với thế hệ trước như: giỏi chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính,
có bằng cấp học vị cao, làm chủ khoa học công nghệ, năng động thích ứng
nhanh với cơ chế mới. Đây là lực lượng xã hội hùng hậu đóng vai trò trụ cột,
có tiềm năng to lớn, xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng bên cạnh đó do thanh niên là
lứa tuổi mới lớn, mới bước vào đời nên còn non kinh nghiệm, và do sự tò mò
vốn có của họ nên họ cũng rất dễ xa vào vòng xoáy của tội lỗi.
Trong xã hội ta hiện nay, những hiện tượng vô đạo đức của thanh niên
ngày càng nhiều. Trong gia đình, là sự vô tình, thờ ơ và thậm chí là xem
thường cha mẹ mình, vì họ nghèo; còn với anh chị em thì đấu đá, tìm mọi
cách, mọi thủ đoạn hãm hại nhau để tranh giành tài sản mà gia tộc để lại.
Trong nhà trường thì xảy ra hiện tượng lừa dối thầy cô của học sinh như: quay
bài, bỏ học đi chơi, đánh nhau với bạn bè, và đặc biệt là hiện tượng chạy
điểm, đua theo một loại thành tích giả mang lại nhiều sự tổn hại về mặt con
người của nước ta; và một hiện tượng đang nẩy lên như sấm trong nhà trường

là những nữ sinh đánh nhau làm mất đi vẻ đẹp của người con gái thì mị nét na
vốn có của dân tộc ta. Còn trong xã hội, thì thanh niên thường tụ tập lại với
nhau để ăn nhậu bê tha, gây mất trật tự an ninh xã hội làm ảnh hưởng tới cuộc
sống của nhiều người khác. Thanh niên hiện nay có những hành vi ứng xử vô
đạo đức với những người lớn tuổi và trẻ nhỏ; không những vậy, họ còn tham
gia các tệ nạn xã hội như: bài bạc, ma túy, mại dâm, đâm thuê chém mướn,
cướp của giết người, đua xe trái phép mà đặc biệt là hiện tượng “sống thử”
của những cặp tình nhân chưa kết hôn đang ngày càng phổ biến, có những cặp
sống chung với nhau trước khi kết hôn nhầm mục đích tìm ra điểm chung của
nhau để sau này dễ sống cùng nhau, nhưng cũng có những cặp chỉ lợi dụng
nhau vì mục đích ham muốn của mình, và hậu quả để lại sau đó là về mặt tinh
thần và nỗi ám ảnh đối với gia đình họ. Không chỉ dừng lại ở đó, trong xã hội
còn đang nổi lên một phong trào mà cả xã hội phải xem xét lại cách giáo dục
con em mình, đó là hiện tượng “trò đánh thầy”, “con cái đánh cha mẹ, bỏ rơi
cha mẹ khi cha mẹ đau ốm hoặc sắp chết cho dù họ là người mang nặng đẻ
đau mình”, “anh em chém giết lẫn nhau không hề thương tiết”.
Hiện nay, công nghệ thông tin đang ngày càng phát tiển với tốc độ rất
nhanh, điện thoại di động ngày nay rất nhiều, Internet tốc độ cao ngày càng
được phổ biến. Nhưng công nghệ ngày càng cao thì đạo đức của con người
ngày càng bị thoái hóa, thanh niên hiện nay thường xuyên sử dụng thông tin
truyền thông để buông những lời thô tục, họ lợi dụng sức mạnh của công nghệ
mà lừa đảo, không những vậy thanh niên còn xem những bộ phim mang tính
đồ trị, phản động từ đó ảnh hưởng rất nhiều tới tư tưởng chính trị của họ;
những bọn phản động thường lợi dụng những điểm yếu này của thanh niên mà
khai thác nhằm lật đổ Nhà nước ta. Một số gia đình khá giả chiều chuộn con
cái nên dùng sức mạnh của đồng tiền để bao che, chạy tội khiến cho bao
người phải chết trong oan ức còn những thanh niên đó lại tiếp tục “ngựa quen
đường cũ”, mà đáng đau buồn hơn là những học sinh, sinh viên lợi dụng sống
xa nhà mà lừa tiền cha mẹ mình trong khi đó cha mẹ ở nhà thì dành dụm từng
đồng để gửi cho con. Còn về phía nhà trường là sự thờ ơ, thả lỏng học sinh

làm cho họ ỷ lại chỉ lo ăn chơi soa đọa không lo học hành. Ngoài xã hội là sự
cám dỗ về mặt vật chất đã tác động một phần không hề nhỏ đến sự hình thành
đạo đức của thanh niên hiện nay.
Từ những hiện tượng trên của thanh niên trong xã hội có khi nào mỗi
con người chúng ta tự đặt tay lên trán mình mà hỏi, tại sao thanh niên hiện
nay lại thoái hóa vì đạo đức như vậy? Có phải là do cách giáo dục, nuôi
dưỡng của cha mẹ, nhà trường, và xã hội đã tác động mạnh tới nhân cách của
thanh niên hiện nay không? Ta phải làm gì để giải quyết tình trạng này?
Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn một bộ phận thanh niên không hề nhỏ đã
và đang trở thành những công dân tốt, những người chủ tương lai của nước
nhà. Họ luôn nỗ lực hết mình cho công việc học tập và rèn luyện về nhân cách
lối sống. Nhiều bạn đã đem hết tài năng của mình để mang về vinh quang cho
Tổ quốc trong các cuộc thi mang tầm cỡ quốc tế như: rôbôcon Châu Á Thái
Bình Dương, cuộc thi Olympic toán và vật lý quốc tế. Đáng khen hơn là sự nỗ
lực vượt lên của những thanh niên có hoàn cảnh khó khăn như: nhà nghèo, bị
tật nguyền v.v, có những bạn tuy không học được ở trường lớp nhưng họ biết
lựa chọn cho mình những ngành nghề phù hợp với khả năng vốn có của mình.
Họ là những bông hoa đẹp trong vườn hoa của dân tộc Việt Nam – một tương
lai tươi sáng đang chờ đợi các bạn ở phía trước. Các bạn là những người tiếp
thu và thực hành tốt tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vì trong trái tim của
những người thanh niên ấy là sự hiện diện của dòng chữ “đừng hỏi Tổ quốc

×