BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
[\
NGUYỄN VĂN TOÀN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP SỐNG
CHO SINH VIÊN NỘI TRÚ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI 3
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC VĂN HÓA GIÁO DỤC
Mã số: 5.07.03
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. HOÀNG TÂM SƠN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2004
Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban quản
lý kí túc xá trường Cao đẳng GTVT3 cùng toàn thể anh
em, bạn bè trong trường đã tạo những điều kiện về vật
chất và tinh thần thuận lợi, giúp tôi hoàn thành Luận văn
tốt nghiệp và nhiệm vụ học tập của mình.
Xin chân thành cảm ơn Phòng Khoa học công nghệ –
Sau đại học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh và các thầy cô đã hết lòng giảng dạy, truyền thụ
những kiến thức rất cần thiết, bổ ích cho công việc và cho
cuộc sống của những người học viên lớp Cao học Quản lý
Văn hóa – Giáo dục, khóa 11 chúng tôi.
Đặc biệt là những lời biết ơn sâu sắc về công lao dìu
dắt, sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo, người
hướng dẫn khoa học – Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nhà giáo Ưu
Tú Hoàng Tâm Sơn đã giúp tôi hoàn thành bản luận văn
tốt nghiệp này.
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
CĐ : Cao đẳng
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá – hiện đại hoá
ĐH : Đại học
GD : Giáo dục
QL : Quản lý
GTVT : Giao thông Vận tải
HS-SV : Học sinh-sinh viên
KTX : Kí túc xá
QLGD : Quản lý giáo dục
SV : Sinh viên
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
7
1.1. Sơ lược về lòch sử của vấn đề nghiên cứu 7
1.2. Quan niệm của Đảng và nhà nước về ngành GTVT 10
1.3. Quan niệm của Đảng và nhà nước về GD-ĐT 11
1.4. Những khái niệm công cụ 13
1.4.1. Khái niệm về quản lý 13
1.4.2. Khái niệm về quản lý giáo dục 14
1.4.3. Khái niệm về lối sống 15
1.4.4. Khái niệm về nếp sống 19
1.5. Sự hình thành nếp sống cho sinh viên ngành GTVT 25
1.5.1. Vài nét về tâm lý lứa tuổi sinh viên 25
1.5.2. Sự hình thành nếp sống thích hợp cho sinh viên ngành GTVT 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ GIÁO DỤC CHO SINH VIÊN NỘI TRÚ
TRƯỜNG CAO ĐẲNG GTVT3
35
2.1. Sơ lược tình hình chung về kí túc xá 35
2.1.1. Điều kiện cơ sở vật chất 35
2.1.2. Tình hình sinh viên 36
2.1.3. Bộ máy quản lý kí túc xá 37
2.1.4. Nội dung quản lý giáo dục nếp sống của sinh viên ở KTX 37
2.2. Thực trạng nếp sống sinh viên trong KTX trường CĐ GTVT3 38
2.2.1. Biểu hiện của nếp sống SV trong hoạt động học tập 41
2.2.2. Biểu hiện của nếp sống SV trong sinh hoạt tập thể, cá nhân và
lao động
45
2.2.3. Biểu hiện của nếp sống SV trong quan hệ và ứng xử 52
2.3. Thực trạng về công tác quản lý giáo dục nếp sống cho SV 54
2.3.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến nếp sống của SV 54
2.3.2. Ảnh hưởng của chủ thể giáo dục đối với nếp sống SV 59
2.3.3. Tác dụng của hoạt động Đoàn trong việc GD nếp sống SV 61
2.3.4. Hiệu quả của công tác quản lý giáo dục nếp sống SV hiện nay 66
2.3.5. Đánh giá về nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong nếp
sống của SV hiện nay
72
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM
CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ GIÁO DỤC NẾP SỐNG CHO SINH VIÊN NỘI
TRÚ TRƯỜNG CĐ GTVT3
78
3.1. Một số căn cứ để đề xuất 78
3.1.1. Quan niệm của Đảng về chiến lược con người trong sự nghiệp
đổi mới đất nước
78
3.1.2. Mục tiêu giáo dục nếp sống mới cho SV trường CĐ GTVT3 79
3.1.3. Đònh hướng nội dung giáo dục nếp sống cho SV trường CĐ
GTVT3
83
3.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao công tác
quản lý giáo dục nếp sống cho SV nội trú trường CĐ GTVT3
86
3.2.1. Tạo sự phong phú về nội dung giáo dục nếp sống SV trong các
hoạt động ở kí túc xá
86
3.2.2. Tổ chức SV tự quản trong hoạt động 92
3.2.3. Củng cố tổ chức quản lý kí túc xá, có sự phối hợp chặt chẽ giữa
kí túc xá và các bộ phận đoàn thể trong trường và gia đình
93
3.2.4. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện thực hiện cho các
hoạt động của SV ở kí túc xá
94
3.2.5. Quy đònh cụ thể về việc thực hiện các hoạt động trong KTX 95
3.2.6. Kế hoạch hoá mọi hoạt động, thực hiện chế độ kiểm tra, thi
đua khen thưởng
96
3.2.7. Bảo đảm trật tự an ninh trong kí túc xá 97
3.3. Đánh giá về sự cần thiết của các biện pháp nâng cao hiệu quả
công tác quản lý giáo dục nếp sống SV nội trú trường CĐ
GTVT3
98
Kiến luận và kiến nghò
102
Tài liệu tham khảo
106
Phụ lục
108
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay nếu kỹ thuật năm trước là hiện đại nhất thì năm
sau đã lạc hậu mất rồi. Ý tưởng đào tạo ra những con người có kiến thức cơ
bản vững chắc và biết sử dụng chúng với phương pháp suy luận đúng đắn
để giải quyết những vấn đề những tình huống mới, cần được khuyến khích.
Bên cạnh đó, xu hướng thực tế hơn do nhòp độ phát triển kinh tế của Việt
Nam yêu cầu nhân lực cho công nghệ mới.
Chúng ta đang bước vào những năm đầu tiên của thế kỉ mới, với vai
trò trí tuệ con người luôn được nhắc đến. Để tiếp tục phấn đấu đến năm
2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì điều kiện
tiên quyết mà Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là sự cần thiết phải khai
thác nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người – những lớp
người được giáo dục và đào tạo, có tầm trí tuệ cao, tay nghề thành thạo và
phẩm chất tốt đẹp là vốn quý nhất quyết đònh sự thành công. Cương lónh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ
trương là xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Các dân tộc phát triển bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có
quan hệ hữu nghò, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
2
Để xây dựng mô hình chủ nghóa xã hội theo các tiêu chí trên, vấn đề
nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, Đảng Cộng Sản Việt
Nam luôn coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp
của nhà nước và của toàn dân” Nghò quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững” (Tr.108, 109)[6]
Việt Nam đang ở trong quá trình thực hiện CNH-HĐH. GTVT là một
trong những ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện CNH
nền kinh tế quốc dân, trước hết phải xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại đáp
ứng nhu cầu phát triển. Nói cách khác, CNH-HĐH ngành GTVT đi trước
một bước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư CNH-HĐH các ngành nghề
khác. Tiền đề của CNH-HĐH GTVT trước hết phải đầu tư cho đào tạo
nhân lực.
Trường Cao đẳng GTVT3 là một trong những cơ sở đào tạo nhân lực
cho ngành GTVT với nhiệm vụ cụ thể: đào tạo cán bộ kỹ thuật bậc trung
học và cử nhân cao đẳng về GTVT cung cấp cho các sở GTVT các tỉnh và
các công ty xây dựng công trình, đơn vò tư vấn thiết kế, quản lý GTVT…
thuộc trung ương và đòa phương nằm trên đòa bàn khu vực Nam Trung bộ và
Nam bộ. Trong những năm gần đây, số lượng học sinh được tuyển vào
trường ngày càng tăng, phần lớn các em đều ở xa lên thành phố học nên
nhu cầu được ở trong KTX của trường cũng gia tăng. Trước tình hình này,
nhà trường đã đầu tư mở rộng nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng để tạo nhiều
3
chỗ ở hơn cho các em, song vì diện tích sân bãi còn hạn hẹp nên vẫn không
giải quyết được tất cả các nhu cầu xin ở kí túc tại KTX nhà trường. Với số
lượng lưu học sinh nội trú tăng lên đột biến đã đặt ra cho công tác quản lý
giáo dục nếp sống ăn ở, học tập, sinh hoạt… cho số lượng học sinh trên là
rất lớn. Điều này đòi hỏi Ban quản lý KTX, Phòng quản lý sinh viên và nhà
trường phải xem xét lại thực trạng về công tác quản lý KTX nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên.
Từ những thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp
quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao
thông Vận tải 3” làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp. Hy vọng
và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một phần nhỏ cho việc cải tiến
và nâng cao chất lượng quản lý nếp sống sinh viên nội trú trong nhà trường
mà chúng tôi đang công tác.
2. Đối tượng và khách thể của đề tài nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: là thực trạng một số biện pháp quản lý giáo
dục nếp sống sinh viên nội trú
b. Khách thể nghiên cứu: là sinh viên đang nội trú trong KTX trường
Cao đẳng Giao thông Vận tải 3.
3. Giới hạn của đề tài
Do thời gian nghiên cứu không nhiều và khả năng của tác giả còn có
những hạn chế nhất đònh, vì thế luận văn chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu
thực trạng về hoạt động quản lý giáo dục nếp sống sinh viên lưu trú tại
KTX trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và biểu hiện nếp sống của sinh
4
viên qua những hoạt động chủ yếu diễn ra trong phạm vi KTX. Những hoạt
động ngoài KTX trường, đề tài không có điều kiện nghiên cứu.
4. Mục đích của đề tài nghiên cứu
Làm rõ thực trạng một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho
sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3 và trên cơ sở đó đề
xuất một số biện pháp tăng cường quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục nếp sống cho sinh viên.
5. Giả thiết nghiên cứu
Nếp sống của sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận tải3
phụ thuộc vào các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên của
trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6.2. Khảo sát đánh giá thực trạng nếp sống sinh viên và thực trạng công tác
quản lý giáo dục nếp sống sinh viên trong kí túc xá thông qua các hoạt
động học tập, sinh hoạt, lao động và giao tiếp ứng xử.
6.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Nghiên cứu tài liệu, sách báo, tư liệu lưu trữ, báo cáo, tổng kết liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
5
Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoạt động
của của sinh viên ở kí túc xá cũng như hoạt động quản lý giáo dục của các
cán bộ quản lý nhằm thu thập các tư liệu bổ sung.
Phương pháp phỏng vấn: tiến hành trao đổi trực tiếp với các sinh viên
ở kí túc xá, các cán bộ quản lý kí túc xá và cán bộ các phòng ban, các tổ
chức có liên quan đến công tác học sinh sinh viên ở kí túc xá.
Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu câu hỏi với 300 sinh viên
nội trú, 20 cán bộ, giáo viên bao gồm các cán bộ quản lý kí túc xá, cán bộ
phòng quản lý học sinh sinh viên, Đoàn thanh niên trường và các giáo viên
liên quan đến công tác học sinh, sinh viên ở kí túc xá.
7.3. Phương pháp ứng dụng toán thống kê.
Sử dụng để xử lý các kết quả điều tra trong quá trình nghiên cứu.
8. Đòa điểm nghiên cứu
Kí túc xá trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3.
9. Đóng góp mới của đề tài
- Góp phần làm phong phú lý luận và thực tiễn về nếp sống của sinh
viên trong kí túc xá.
- Đề xuất được một số biện pháp quản lý giáo dục nếp sống sinh viên
nội trú có cơ sở khoa học, phù hợp với đặc điểm của trường Cao đẳng giao
thông vận tải 3 nói riêng, sự nghiệp trồng người nói chung.
- Đề tài còn là một tư liệu tham khảo cho các trường.
10. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần:
6
Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát đề tài, đối tượng – khách thể, mục đích,
nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu…
Phần nội dung: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng về các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống
cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông vận tải 3
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm củng cố và nâng cao hiệu
quả công tác quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao
đẳng Giao thông Vận tải 3
Phần kết luận chung và kiến nghò
Tài liệu tham khảo và phụ lục
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. SƠ LƯC VỀ LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu lối sống, nếp sống đã được đề cập đến từ lâu qua
nhiều công trình nghiên cứu công phu như công trình “Việt Nam Phong tục”
của cụ Phan Kế Bính (1875-1921). Ông đã nghiên cứu công phu về các
phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam qua bao thăng trầm của bề dầy
lòch sử 4000 năm. Tất cả những thói quen, nếp sống của con người Việt
Nam từ xưa đến đầu thế kỉ XX được tác giả phản ánh một cách khách quan,
từ đó ca ngợi những phẩm chất, cái đẹp của con người Việt Nam đồng thời
cũng mạnh dạn đánh giá, phê phán các yếu tố lạc hậu, trì trệ trong lối sống,
nếp sống đi ngược lại thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hoá dân tộc. Tư
tưởng của cụ rất gần gũi với tư tưởng các thế hệ con cháu ngày nay. Ngoài
ra, tác giả Toan Ánh, trong cuốn “Phong tục Việt Nam” đã phân tích nguồn
gốc, sự biến đổi nhiều thói quen, tập quán. Một số ý kiến phê phán của cụ
Phan Kế Bính và tác giả Toan Ánh như phê phán thói cờ bạc, khóc mướn,
đa thê, hút thuốc, mê tín trong lễ hội, lãng phí trong đám cưới… đã được
nghò quyết Trung Ương V khoá 8 quán triệt, đổi mới nhằm xây dựng nền
văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong tài liệu “Sửa đổi lề lối làm việc” Chủ tòch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh việc xây dựng lối sống, nếp sống mới, cách làm việc mới.
Đại hội IV và V của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng nếp sống mới.
Trong văn kiện đại hội IV có ghi khái niệm “nếp sống mới có văn hoá”,
8
“vận động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hoá
trong xã hội, đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản xuất”
(Tr. 25)[4] Trong Đại hội V, văn kiện dùng khái niệm lối sống: “Cuộc đấu
tranh giữa hai con đường, giữa cái mới và cái cũ, tiên tiến và lạc hậu, tiến
bộ với phản động, trên lónh vực văn hoá tư tưởng và lối sống đang diễn ra
hàng ngày rất phức tạp.” (Tr. 10)[5] Trong nghò quyết V ban chấp hành
Trung Ương khoá 8, Đảng ta dành riêng để bàn về lónh vực văn hoá. Nội
dung nghò quyết gồm 6 vấn đề quan trọng thì vấn đề giáo dục đạo đức, lối
sống, nếp sống được đặt lên đầu tiên. Trong toàn văn nghò quyết V có
nhiều lần thuật ngữ lối sống, nếp sống được nhắc đến như “tư tưởng đạo
đức và lối sống là những lónh vực then chốt của văn hoá” hay như “lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh” Như vậy, vấn đề nếp sống đã được quan
tâm rất sâu sắc không chỉ các nhà khoa học mà các nhà quản lý xã hội
cũng rất chú trọng tới việc quản lý giáo dục nếp sống.
Trong thời gian gần đây hàng loạt những công trình nghiên cứu về lối
sống, nếp sống đã được thực hiện theo tinh thần đổi mới của ban chấp hành
Trung Ương Đảng do những thay đổi rõ nét về kinh tế, xã hội đang diễn ra
sôi động đưa đến những biến đổi trong lối sống, nếp sống, đònh hướng giá
trò con người Việt Nam nói chung, giới sinh viên học sinh nói riêng. Có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu lối sống, nếp sống ở đối tượng sinh
viên đã được công bố như sau:
- “Tổ chức tốt cuộc sống sinh viên ở KTX nhằm giáo dục đạo đức,
lối sống cho họ” (Kỷ yếu hội thảo đònh hướng giá trò giáo dục đạo
đức trong các trường ĐH; Hà Nội 1996) của Nguyễn Thò Kỷ
9
- “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng,
biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” của PGS. PTS Mạc
Văn Trang làm chủ nhiệm đề tài (Năm 1998, mã số B94-38-32)
- “Các biện pháp quản lý giáo dục nếp sống cho sinh viên trường
Cao đẳng Sư Phạm Mẫu giáo Trung Ương 3” của Đặng Văn
Thuân (Luận văn thạc só khoa học giáo dục, năm 1999)
Ngoài ra một số chuyên đề bài báo viết về lối sống, nếp sống sinh
viên như:
- “Nếp sống xã hội của sinh viên” của PTS Vũ Dũng, viện tâm lý
trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Tạp chí Đại học
và Giáo dục chuyên nghiệp, 01/1997)
- “Sinh hoạt trong KTX sinh viên, sân chơi chưa lành mạnh” của
Hồ Thu (Báo Sài Gòn giải phóng, 24/11/2003)
Qua những công trình, tài liệu nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy
các tác giả đã tiếp cận với những góc độ khác nhau trên các đối tượng sinh
viên thuộc các ngành, các lónh vực khác nhau. Riêng mảng đề tài về sinh
viên giao thông vận tải thì chưa có tác giả nào đề cập. Từ những bức xúc
về công tác quản lý giáo dục nếp sống trong kí túc xá trường Cao đẳng
Giao thông Vận tải 3, chúng tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp quản lý
giáo dục nếp sống cho sinh viên nội trú trường Cao đẳng Giao thông Vận
tải 3”. Hy vọng và mong muốn của chúng tôi là đóng góp một phần nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục nếp sống sinh viên
nội trú trong kí túc xá của trường mà chúng tôi đang công tác.
10
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ NGÀNH GIAO
THÔNG VẬN TẢI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhận đònh: “Là một khâu
quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng, Giao thông vận tải đáng lẽ phải đi
trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân,
nhưng nhiều năm qua chúng ta chưa chú ý đúng mức, nên việc vận chuyển
hàng hoá có nhiều khó khăn, việc đi lại của nhân dân có nhiều phiền hà
trắc trở.”
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta nêu rõ: “Ưu tiên phát triển
Giao thông vận tải đường thuỷ, tăng tỉ trọng vận tải đường sắt, sắp xếp hợp
lý vận tải đường bộ, phát triển giao thông vận tải hàng không. Động viên
các tổ chức kinh tế tập thể và nhân dân góp sức, góp vốn mở mang đường
giao thông nông thôn, miền núi, phát triển các phương tiện vận tải, nhất là
phương tiện thô sơ, nửa cơ giới, khắc phục sự ách tắc trong vận tải hàng hoá,
cải thiện một bước sự đi lại của nhân dân.” Những thành tựu bước đầu sau
đại hội VI và khảo sát thực tiễn các nước phát triển trên thế giới; Đảng ta
khẳng đònh Giao thông Vận tải phải đi trước một bước, phát triển với tốc độ
cao với trình độ tiên tiến và tiêu chuẩn hiện đại, vì điều đó sẽ tạo động lực
cho nền kinh tế phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách, hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ ngành
Giao thông Vận tải phải “phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình
trạng xuống cấp, mở rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới Giao
thông Vận tải.”
11
Giao thông Vận tải là một trong những ngành cơ bản của nền kinh tế
quốc dân; để thực hiện CNH nền kinh tế quốc dân, trước hết phải xây dựng
kết cấu hạ tầng hiện đại đáp ứng kòp nhu cầu phát triển. Nói cách khác
CNH-HĐH, ngành Giao thông Vận tải đi trước một bước sẽ tạo điều kiện
thuận lợi đầu tư CNH-HĐH các ngành nghề khác. Tiền đề của CNH-HĐH
Giao thông vận tải trước hết phải đầu tư cho đào tạo nhân lực, muốn có
nhân lực cần đầu tư cho các cơ sở đào tạo này có đủ điều kiện để đảm
đương sứ mạng lòch sử trước thiên niên kỷ mới.
Từ thực trạng và yêu cầu phát triển kinh tế ngành Giao thông Vận tải
như trên, Nhà nước đã rất nổ lực trong việc đào tạo ra đội ngũ cán bộ kỹ
thuật và công nhân lành nghề, có phẩm chất tốt, năng động, sáng tạo, có
nếp sống khoa học, văn minh, kỉ cương và tinh thần kỉ luật cao. Trường Cao
đẳng Giao thông Vận tải 3 cũng như nhiều trường Công nhân kỹ thuật,
Trung học chuyên nghiệp và Đại học chuyên ngành Giao thông Vận tải đã
đáp ứng phần nào yêu cầu trên.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC-
ĐÀO TẠO
Trong suốt chiều dài lòch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và
nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”. Ngày nay, bước sang
giai đoạn CNH-HĐH đất nước, Đảng ta đã đề ra đònh hướng lớn về phát
triển giáo dục và khoa học công nghệ: “Phát triển khoa học và công nghệ
cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước” (Tr. 112)[6]. Trong đó đặc biệt
chú trọng việc phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 Việt Nam
12
phải đạt được trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến trong khu vực ở
phần lớn các ngành trọng điểm.
Việc chuyển giao công nghệ ở nước ta hiện nay có thể nói là rút
ngắn giai đoạn khi so sánh với lòch sử phát triển lâu dài của các nước
phương Tây. Việc chuyển giao công nghệ đã đòi hỏi nhu cầu thực tế về đội
ngũ nhân lực có kiến thức, kó năng để tiếp thu và làm chủ được kỹ thuật
phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước theo đònh hướng xã hội chủ
nghóa.
CNH-HĐH nền kinh tế là con đường duy nhất để có thể đuổi kòp nền
kinh tế các nước trong khu vực và tạo cơ sở cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển. Muốn sự nghiệp CNH-HĐH thực hiện thắng lợi thì nguồn lực con
người – nhân tố thực hiện CNH-HĐH – đóng vai trò nòng cốt phải được ưu
tiên phát triển: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững” (Tr.108, 109)[6]
Nghò quyết Đại hội Đảng lần IX -2001 về phát triển giáo dục, đào
tạo đã ghi: “Mở rộng quy mô giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về
chất lượng và hiệu quả đào tạo… Từng bước xúc tiến việc nối mạng
Internet ở trường học, tạo điều kiện học tập nghiên cứu trên mạng”
(Tr.110)[6] “Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên
môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải
quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành đào tạo” (Tr.25)[8]
13
Đảng và nhà nước ta đã luôn coi trọng giáo dục và đào tạo trong
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Giáo dục và đào tạo luôn
cần phải được đầu tư đúng mức để đảm nhận vai trò cung cấp nguồn nhân
lực chất lượng cao về mọi mặt, gánh vác trọng trách xây dựng đất nước
giàu đẹp, văn minh.
1.4. NHỮNG KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
1.4.1. Khái niệm về quản lý
Để tồøn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà
cần phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá
trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần… ngày càng được thực hiện trên
quy mô lớn với tính chất và độ phức tạp ngày càng cao, càng đòi hỏi sự
phân công và hợp tác để liên kết mọi người trong tổ chức. Chính từ sự phân
công, chuyên môn hóa lao động đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt –
lao động quản lý. Hoạt động quản lý cần thiết với mọi lónh vực hoạt động
trong xã hội, trong mỗi quốc gia và trên toàn cầu.
Có nhiều đònh nghóa về các khía cạnh khác nhau của quản lý, nhưng
trong luận văn chỉ nêu một số đònh nghóa tiêu biểu, đó là:
“Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ
thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi
trường” [26]
“Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua con người và với con
người” [18]
1.4.2. Khái niệm về quản lý giáo dục
14
Cho đến nay cũng đã có rất nhiều đònh nghóa về “quản lý giáo dục”,
nhưng trên bình diện chung, những đònh nghóa này đều thống nhất về mặt
bản chất.
Theo F .G. Panatrin thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các
cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo
sự phát triển toàn diện, hài hòa ở thế hệ trẻ.”
Theo P.V. Khudominxki thì “quản lý giáo dục là việc xác đònh những
đường lối cơ bản, những nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan trong hệ thống
giáo dục.”
Theo M. Zade thì “Quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống
giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số
lượng cũng như về mặt chất lượng”
GS.TS Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghóa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.”Tiến sỹ Nguyễn Gia
Quý khái quát “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã đònh,
15
trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những quy luật khách quan của hệ
thống giáo dục quốc dân” (Bản chất của hoạt động quản lý- Hà nội, 1996)
1.4.3. Khái niệm về lối sống
Max Weber, nhà xã hội học đầu tiên của Đức, khi nghiên cứu về lối
sống đã cho rằng lối sống thể hiện vò trí của các nhóm xã hội. Khái niệm
lối sống được mô tả như kiểu sống của một nhóm xã hội, giai cấp, là một
cộng đồng người cùng chung một vò trí kinh tế.
Dean Cenell thì cho rằng lối sống không phải chỉ biểu hiện trong lónh
vực nghề nghiệp, lao động mà còn cả trong giải trí nữa. Con người trong xã
hội hiện đại không những có nhiều sản phẩm tiêu dùng hơn mà còn có
nhiều thời gian rỗi hơn để giải trí.
Thuật ngữ lối sống có sự biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố
tinh thần gắn liền với phương thức sản xuất xã hội, với chế độ chính trò xã
hội, với hình thái kinh tế xã hội.
Ở Liên Xô cũ, một số công trình nghiên cứu lối sống đã đặt vấn đề
nghiên cứu nội hàm khái niệm lối sống với 3 cách tiếp cận tóm lược như
sau:
- Cách tiếp cận thứ 1: xem xét lối sống như một phạm trù có liên
quan bên trong của chủ thể như nếp nghó, nếp hành động, thói
quen mà ít quan tâm đến hoạt động sống và các điều kiện sống.
Mặt hạn chế của cách tiếp can này ở chỗ, theo A. I. Buchenco, nó
đã loại trừ một yếu tố quan trọng của lối sống là hoạt động của
chủ thể và lao động
16
- Cách tiếp cận thứ 2: đònh nghóa lối sống bằng cách liệt kê ra các
hoàn cảnh sống của con người, xã hội do đó lối sống được kiến
giải như một phạm trù xã hội học bao gồm các điều kiện sống,
các hình thức hoạt động sống của con người, các quan hệ xã hội,
các sinh hoạt, các hình thức thoả mãn nhu cầu thế giới quan. Cách
đònh nghóa này quá mở rộng nội hàm lối sống, vì thế bò phê phán
nhiều
- Cách tiếp cận thứ 3: xem lối sống như là một sự thống nhất các
hình thức hoạt động sống và các điều kiện sống của con người, xã
hội. Như vậy, lối sống là một phạm trù của xã hội học, chỉ sự
thống nhất hữu cơ của các hình thức hoạt động sống và các điều
kiện sống nhất đònh.
Từ 3 cách tiếp cận trên, M. N. Rukevich, tiến só triết học viện hàn
lâm khoa học Liên Xô cũ đã khái quát như sau:
“Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu,
nói lên hoạt động của các nhóm dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội , các cá
nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất đònh.”
Có nhiều cách phân loại lối sống:
- Từ bình diện sử dụng năng lực, T. Makiguchi nêu lên 3 lối sống
của con người như sau:
• Lối sống đóng góp: trong mối quan hệ với thời gian, con người có
các thái độ mang tính lạc quan hay bi quan khi hoạt động phản
17
ứng với các kích thích của hiện tại, hoạt động hướng về quá khứ
và hoạt động hướng về tương lai.
• Lối sống trao đổi: lối sống văn hoá, lối sống chính trò, lối sống
kinh tế.
• Lối sống phụ thuộc: sống bằng hưởng thụ hay chiếm đoạt.
- Từ bình diện xã hội học, lối sống được chia theo các tiêu chí sau:
• Theo lãnh thổ vùng miền: có lối sống thành thò, lối sống nông
thôn…
• Theo phân tầng giai cấp: có lối sống tư sản, lối sống tiểu tư sản,
lối sống công nhân, lối sống sinh viên, lối sống trí thức, lối sống
thương gia, lối sống nông dân…
• Theo hình thái kinh tế xã hội: có lối sống phong kiến, lối sống tư
bản chủ nghóa, lối sống xã hội chủ nghóa.
Tác giả Đỗ Trung Lai cho rằng: “Lối sống suy cho cùng là cách dùng
đạo đức mà hành đạo ở đời. Lối sống thể hiện bên ngoài của đạo và đức.
Nó đã là và luôn là văn hoá” [21]
Tác giả Phạm Ngọc Đònh cho rằng lối sống còn là một phạm trù của
duy vật lòch sử. Tác giả dựa vào luận điểm của Marx và Ăngen khi cho
rằng “Phương thức sản xuất phải xét không đơn thuần theo khía cạnh nó là
sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của cá nhân và hơn thế nữa nó là một
hình thức hoạt động nhất đònh của những cá nhân ấy, một hình thức nhất
đònh của sự biểu hiện đời sống của họ: những cá nhân biểu hiện đời sống
18
của họ như thế nào thì họ là người như thế ấy. Nó ăn khớp với sản xuất của
họ, với cái mà họ đã sản xuất ra cũng như cách họ sản xuất ra.”
Phạm Ngọc Đònh đã đưa ra đònh nghóa lối sống dưới dạng luận đề
“Lối sống là tổ hợp các phương thức hoạt động sống điển hình của con
người đối với xã hội nhất đònh mà nó được xét thống nhất với các điều kiện
hoạt động. Lối sống bao gồm nhiều hệ thống hành vi ứng xử của con người
trong cuộc sống” [14]
Tác giả Thanh Lê cho rằng “Lối sống là quan niệm sống của con
người, tức là nói đến nhân sinh quan. Nói đến lối sống là nói đến tất cả các
lónh vực hoạt động của con người trong những lónh vực cơ bản của đời sống
xã hội và cá nhân – hoạt động lao động; hoạt động sinh hoạt, gia đình; hoạt
động xã hội, chế độ; hoạt động văn hoá tinh thần. Trong đó, hoạt động lao
động là cơ bản nhất.” [22]
Các đònh nghóa, các cách phân loại lối sống trình bày ở trên giúp cho
nhà quản lý, nhà nghiên cứu có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm của từng
khách thể, từng nhóm xã hội để từ đó xác đònh phương hướng cụ thể xây
dựng lối sống phù hợp.
1.4.4. Khái niệm về nếp sống
Thuật ngữ nếp sống được dùng rất phổ biến. Theo thói quen trong
ngôn ngữ tiếng Việt, trên sách báo hiện nay người ta sử dụng hầu như cả
hai thuật ngữ lối sống và nếp sống với một nội hàm giống nhau. Thật ra, hai
thuật ngữ này không hoàn toàn như một nhưng cũng không nói lên hai
19
phạm trù khác nhau. Đó là do sự tạo từ trong tiếng Việt khi cả hai từ được
chuyển dòch từ một từ nước ngoài:
- Tiếng Anh: way of life
- Tiếng Pháp: mode de vie
- Tiếng Đức: obrazjiznhi
Các từ điển không có giải thích rõ ràng hai thuật ngữ lối sống và nếp
sống. Trước đây, sách báo hay dùng các từ như tập quán, phong tục, gia
phong… , sau Cách mạng Tháng Tám, xuất hiện cùng một lúc nhiều từ mới
như phương thức, lối sống, nếp sống, lẽ sống…
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển ngôn ngữ (Hà Nội, 1992)
do Hoàng Phê chủ biên, tập thể các tác giả đã giải thích như sau:
- Lối: có 2 nghóa:
+ Khoảng đất hẹp, dùng để ra vào một nơi nào đó, để đi lại từ nơi
này đến nơi khác.
+ Sự thể hiện của hoạt động đã ổn đònh thành thói quen, đặc điểm
riêng như lối sống giản dò, lối sống xa hoa.
- Nếp có 2 nghóa:
+ Vết hằn trên bề mặt nơi bò gấp lại của da, vải, lụa… như các từ vết
nhăn trên trán, quần áo còn nguyên nếp.
+ Chỉ nếp sống, cách sống, hoạt động đã trở thành thói quen như các
từ nếp sống văn minh, thay đổi nếp nghó.
20
Nguyễn Khắc Viện – trong Từ điển Xã Hội học, Hà Nội 1994 đã đưa
ra đònh nghóa sau: “Thói quen in sâu vào cách làm và suy nghó gọi là nếp”
(Tr. 21)[28]
Tác giả Thanh Lê cho rằng: “Nếp sống là một phương thức xử sự
được quy đònh với các giá trò đạo đức. Nói ngắn gọn, nếp sống là những quy
ước được lặp đi lặp lại trở thành một thói quen trong sinh hoạt, phong tục,
tập quán, hành vi đạo đức.” (Báo Sài Gòn Giải phóng 10-5-1998)
* Phân biệt lối sống với nếp sống: có 3 ý kiến khác nhau
- Ý kiến thứ 1 cho rằng nếp sống đồng nghóa với lối sống.
- Ý kiến thứ 2 cho rằng nếp sống có nghóa hẹp hơn lối sống.
- Ý kiến thứ 3 cho rằng nếp sống và lối sống có những mặt khác nhau.
A. P. Buchenco cho rằng: “nếp sống không phải là một phần mà là
một trong những hình thức biểu hiện của sự sống.”
L. V. Cokan cho rằng: “nếp sống của con người được xem như là sự
phản ánh của cá nhân vào xã hội, còn lối sống của con người được xem như
là sự phản ánh của xã hội vào cá nhân.”
Tác giả Thanh Lê cho rằng: “nói đến nếp sống là nói đến một mặt
nào đó trong lối sống và ai nấy đều biết nếp sống có thể thay đổi, trong khi
lối sống vẫn còn tồn tại. Ở đây muốn nói đến cách xử sự của con người,
những giá trò được rút ra từ trong đời sống hiện thực. Những giá trò ấy là sự
điều tiết các xu hướng, quan niệm và hành vi của con người làm cơ sở cho